VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 483: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 8 (QUÝ DẬU, 1093)
Từ tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 8 đời Triết Tông đến hết tháng.
[1] Tháng 4 mùa hạ, ngày Đinh Mùi mùng một, chúa nước Hạ là Càn Thuận sai sứ đến tạ tội, dâng đất Lan Châu, xin ban cho trại Tắc Môn. Triều đình ban chiếu từ chối.
(Chiếu đáp vào ngày 14, việc này cần xem xét kỹ. Lan Châu chưa từng trả lại cho nước Hạ, nay sao lại dâng?)
[2] Ngày Mậu Thân, Tả triều thỉnh lang, quyền phát khiển Hồ Châu là Trương Tuân được bổ nhiệm làm Chuyển vận phó sứ lộ Hà Đông. (Theo《Chính mục》, Trương Tuân làm sứ Hà Đông.) Đề điểm hình ngục lộ Hà Bắc Đông là Quách Mậu Tuấn được thăng làm Hộ bộ lang trung. (Theo《Chính mục》, việc này ngày 2. Ngày 18 tháng giêng năm thứ 6, từ chức Độ ngoại được đề bạt làm Đề hình Hà Bắc Đông.) Thư thừa Tôn Phác được thăng làm Công bộ viên ngoại lang. (Theo《Chính mục》, việc này ngày 2. Ngày 6 tháng 8 năm thứ 7, làm Thư thừa.) Trung thư xá nhân Trần Hiên được thăng làm Long đồ các đãi chế, tri châu Lư Châu.
(Theo《Chính mục》, việc này ngày 2. 《Thực lục》 ghi ngày 14.)
[3] Ngày Canh Tuất, Cấp sự trung Khổng Vũ Trọng được thăng làm Lễ bộ thị lang. (Theo《Chính mục》, việc này ngày 4. Ngày 26 tháng 3, mới được bổ nhiệm làm Cấp sự trung. 《Thực lục》 ghi ngày 14, từ chức Xá nhân thăng làm Cấp sự trung, khác với《Chính mục》. Nay theo《Chính mục》.) Hàn lâm thị giảng học sĩ Phạm Tổ Vũ được thăng làm Hàn lâm học sĩ.
(Theo《Chính mục》, việc này ngày 4. 《Thực lục》 ghi ngày 26 tháng 3.)
[4] Ngày Nhâm Tý, Trung thư xá nhân Kiều Chấp Trung được thăng làm Cấp sự trung.
(Theo《Chính mục》, việc này ngày 6. 《Thực lục》 ghi ngày 14.)
[5] Ngày Quý Sửu, ban chiếu thương xét hình phạt.
(Theo《Đông đô sự lược》 của Vương Xưng, chiếu viết: “Đang lúc mùa hè nóng nực, muôn loài đều thuận theo sự sinh trưởng, mà dân ta phạm pháp, bị giam cầm trong ngục. Những quan lại câu nệ pháp luật, không thể thấu hiểu ý Trẫm thương xót, cứ kéo dài mãi, không quyết định kịp thời, làm tổn hại đến sự hòa hợp âm dương, đâu phải chuyện nhỏ. Nay ban chiếu cho các quan chức trong thiên hạ, hãy kính cẩn tuân theo thời lệnh, thương xót các vụ án, để đáp ứng ý Trẫm.”)
[6] Ngày Giáp Dần, Lễ bộ tâu: “Đề điểm hình ngục lộ Kinh Tây Nam là Khổng Bình Trọng tấu rằng, đàn Xã Tắc ở châu Đặng tường thành đổ nát, đàn vũ bị cỏ dại phủ kín, không có trai sảnh, cũng không có cổng ngõ. Xin cho châu này tu sửa, xây dựng thêm, và ban hành xuống các châu huyện khác, xin từ nay về sau, khi các quan trưởng đến nhậm chức[1], phải đến đàn Xã Tắc cầu đảo vào mùa xuân và báo tạ vào mùa thu, nếu không có lý do chính đáng thì không được ủy thác cho quan khác.” Vua nghe theo.
[7] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu rằng: “Trẫm nghe rằng năm đế không dùng chung nhạc, ba Vua không theo chung lễ, đời có thêm bớt, tùy thời chế định. Chỉ có tổ tiên ta, nghiêm cẩn phụng thờ ở giao miếu. Khi sai quan làm lễ, đều xét hợp với văn trước; chỉ có việc dâng ngọc tự tế, tự quyết định thành đại lễ. Mỗi ba năm, đối diện với trời đất; đều tế lễ trăm thần, ban thưởng khắp bốn biển. Đến cuối đời Nguyên Phong của tiên đế, bàn về nghi lễ tế đặc biệt ở phương khâu, nhằm bổ sung những thiếu sót của một đời, chấn hưng điển chương đã mất của trăm Vua. Trẫm chỉ có đức mỏng, nối giữ cơ nghiệp lớn, các thánh đã làm, cẩn thận tuân theo, triều trước chưa làm, sợ không kham nổi. Vì thế năm ngoái giữa đông, hết lòng làm đại tế, thần linh hưởng ứng, tổ tiên yên vui. Trước đây đã ban chiếu cho các quan thêm bàn luận, còn muốn tham khảo ý kiến của các nho, xem xét văn chương trong lục nghệ. Nhưng lễ đã không nghi ngờ, thì việc không còn gì bàn, quyết định từ ý Trẫm, hợp với lời chung, chỉ theo chương cũ, mãi làm khuôn mẫu. Từ nay về sau, lễ tế trời đất ở Nam Giao[2], theo lệ năm Nguyên Hựu thứ 7 thi hành, đồng thời bãi bỏ việc Lễ bộ tập hợp các quan bàn luận chi tiết.” Chiếu này do Phạm Tổ Vũ soạn.
(Theo Tân lục. Chính mục vào ngày Giáp Thân tháng 5, có ghi “Chiếu tế trời đất ở Nam Giao theo lệ năm Nguyên Hựu thứ 7”. Ngày Đinh Hợi, lại ghi “Chiếu bãi bỏ việc các quan Lễ bộ bàn luận về tế hợp”. Nay ghi cả hai, e rằng Tân lục khảo cứu chưa kỹ. Ngày 25 tháng 2, sáu điều nghị của Tô Thức về viên khâu có thể tham khảo, cùng chú thích của Phạm Tổ Vũ, hoặc chuyển chú thích ở đây. Lưu An Thế nói rằng nghị của Tô Thức không được dâng lên, có lẽ là nhầm. Có lẽ là không theo lời thỉnh cầu phản bác của Tô Thức, khiến Lưu An Thế nhầm lẫn. Lời của Lưu An Thế cũng chưa thấy rõ chi tiết, Uông Ứng Thần từng nói về việc này[3].)
[8] Chuyển vận và đề điểm hình ngục ty của Lưỡng Chiết lộ tâu: “Xét thấy các châu huyện ở Chiết Tây liên tiếp gặp thiên tai, được triều đình liên tiếp phát gạo cho bản lộ để cứu tế. Ngoài số gạo đã tiếp tục phát chẩn và bán ra, các châu còn có hơn 40 vạn thạch gạo cứu tế từ các lộ Hoài Nam, Giang Tây gửi đến mà chưa dùng hết, đều là gạo cũ, không có việc gì khác để dùng. Nay muốn đem số gạo này nhân lúc dân làng thiếu ăn trong tháng nuôi tằm, tùy theo nguyện vọng của họ, cho phép các hộ dân đến quan xin mượn, mỗi một đấu đến khi thu hoạch mùa thu tới sẽ nộp lại cho quan 8 thăng gạo mới. Vẫn hạn trong 4 năm, chia đều thành các đợt, tùy theo thuế ruộng của mỗi hộ mà nộp kèm.” Chiếu rằng số gạo đó cho phép đổi lấy lương thực quân đội, số còn lại thì mở trường giảm giá bán ra.
[9] Ngày Mậu Ngọ, Ngự sử trung thừa Lý Chi Thuần tâu: “Các bề tôi dâng lời, xin nghiêm lập chế độ để ngăn chặn nguồn gốc xa xỉ và tiếm lễ; ngăn chặn thói tà xỉ để tạo nên phong tục thuần hậu. Đến cả dân thường trong xóm làng, mặc gấm vóc, đeo châu ngọc, nhà cửa nguy nga, đồ dùng vượt quá mức, đều có thể cấm chỉ. Xin chiếu lệnh Lễ bộ ban hành các điều lệ hiện hành. Xét theo sắc lệnh năm Gia Hựu, vẫn còn quy định về việc quan viên và dân thường không được trang sức châu ngọc, nhưng đến các sắc lệnh biên soạn năm Hi Ninh và Nguyên Hựu thì đã bị bãi bỏ. Thần nghĩ rằng thời thái bình lâu ngày, phong tục trở nên buông thả, lấy sự xa hoa làm cao, mà pháp luật lại lỏng lẻo, đến nỗi kẻ hèn hạ trong xóm làng cũng không ai không vượt quá mức để thỏa mãn dục vọng riêng. Thương nhân buôn bán, lợi nhuận ngày càng nhiều, nên họ càng thu mua, số lượng ngày càng tăng, đây là điều tàn hại nhất đối với vật chất và con người, là sự xa xỉ và tiếm lễ quá mức. Chỉ vì không có luật lệ, làm sao răn dạy dân chúng?
Xin ban chiếu rõ ràng, cấm dân chúng hai lộ Quảng Nam Đông và Tây khai thác ngọc trai, ngoài việc cấm quan và tư không được mua bán, còn đối với ngọc trai từ các nước Phiên ở Hải Nam đến các Ty Thị bạc ở các lộ, sau khi trừ một hai phần nộp vào quan, phần còn lại được bán cho dân. Xin khôi phục chế độ cấm mua bán ngọc trai như thời đầu quốc gia, ngoài phần trừ nộp, tất cả số còn lại phải bán cho quan để dùng vào việc cung đình. Ban hành pháp lệnh, cho phép mệnh phụ, quan viên, đại gia, lương gia được trang sức theo chế độ cũ, nhưng phải mua từ quan, còn dân thường không được dùng. Như vậy sẽ mở rộng đức hiếu sinh, khiến dân biết phân biệt quý tiện, không dám vượt quá mức. Còn các vật dụng trang sức bằng vàng trong dân gian, xa xỉ quá mức, mà điều lệ chỉ cấm tiêu kim. Các loại như lũ kim, thiếp kim đều là phung phí của quý, tiếm lễ cung đình, những năm trước có nhiều điều cấm, cũng xin tu chỉnh như pháp lệnh về tiêu kim.” Chiếu rằng các loại lũ kim, thiếp kim, lệnh Lễ bộ kiểm tra lại điều lệ cũ; còn ngọc trai, lệnh Hộ bộ xem xét rồi tâu lên.
[10] Lễ bộ tâu: “Bí thư tỉnh Chính tự Trần Tường Đạo trình bày[4]: ‘Thần được cử kiêm quyền Thái thường Bác sĩ, xem xét các điển lễ, thấy có chỗ cần sửa đổi. Xét rằng quý trọng người mà coi thường ngựa, là điều xưa nay đều giống nhau. Vì thế trong lễ chầu, ngựa đứng ở sân mà các hầu lên điện để tuyên đọc lời chúc; trong lễ sính, ngựa cũng đứng ở sân mà sứ giả lên điện để yết kiến riêng. Nay trong nghi thức hội triều, ngựa của hoàng đế đứng trên long trì, còn các quan từ Đặc tiến trở xuống đứng ở sân, như vậy là không hợp với ý nghĩa tôn trọng người hiền tài mà coi thường ngựa.’ Xét lại nghi thức hội triều, xe và kiệu đều đặt ở giữa sân, còn xe và ngựa của hoàng đế thì đặt trên long trì, xe và ngựa không cần phải đi cùng nhau. Hơn nữa, xe và kiệu đã đặt ở giữa sân, nay đặt ngựa của hoàng đế ở sân, các nghi vật khác không có gì không phù hợp. Lại nữa, các vương công và thị tùng đứng ở đan trì, tuy đứng trên ngựa, nhưng các quan từ Đặc tiến trở xuống đều đứng ở sa trì, thực chất là đứng dưới ngựa. Nếu đặt ngựa của hoàng đế ở sân để thể hiện ý tôn trọng người hiền tài mà coi thường ngựa, thì hợp với đạo nghĩa.” Vua nghe theo.
[11] Ngày Canh Thân, Xu mật viện soạn thảo chiếu thư trả lời Hạ quốc chủ: “Xem xét biểu văn dâng lên, sai sứ đến triều đình dâng chương hối lỗi, cùng dâng nộp đất đai một vùng Lan châu, từ Tuy châu đến trại Nghĩa Hợp cũng lấy thẳng để vạch định, lại xin trả lại Tắc Môn để ban cho Hạ quốc, đều đã rõ. Trẫm thống trị vạn nước, giữ gìn đại tín, thương xót ngươi mới kế vị, vội vàng bày tỏ lòng thành xin mệnh, bèn ban cho đất đai, lại cấp tuế tệ. Há ngờ nhận ban mà đi, liền dấy quân phạm thuận? Trong ngoài dâng chương, thần dân đều giận! Trẫm cho rằng ngươi tại vị chưa lâu, thế lực chưa tự do, tạm ngưng đại binh trừng phạt, tạm dùng trung sách phòng biên, lại ra lệnh cho quan biên giới, cho ngươi tự đổi mới. Nay thì sai sứ đến triều, mượn lời hối lỗi, sao vừa dâng chương tạ, đã vội nói phiền về việc vạch biên giới? Huống chi cõi cũ Tây Phiên, đất xưa Trung Quốc, đã ghi trong chiếu trước, không thuộc phần trả lại. Việc phân chia biên giới tuy đã từng bàn bạc, nhưng khi dùng binh cũng nên cách tuyệt. Vậy thì lời xin Tắc Môn, thật không thích hợp. Phía đông Định Tây, đã có dụ trước. Ngoài việc từ Hà Đông, Phu Diên lộ đến biên giới mới, cho theo ước cũ, lệnh cho các lộ Kinh lược ty theo chiếu trước sau, cử quan đào hào đắp lũy, còn địa giới chưa xong ở Lan Dân lộ, cũng đã lệnh cho Lan Dân lộ Kinh lược ty theo chỉ trước của triều đình cử quan, đợi Hạ quốc sai quan đến, xem xét chỉ huy trước, cùng nhau bàn bạc phân chia. Vì Hạ quốc từ năm Nguyên Hựu thông cống nhận ban, sau đó nhiều lần phạm biên, vẫn đợi các lộ xong việc địa giới, có thể theo lệ dâng biểu thề riêng, sau đó thường cống tuế tệ, đều theo lệ cũ.” Chiếu lệnh Học sĩ viện theo đó ban chiếu.
[12] Trước đó, chức Trung thư thị lang bị khuyết, Thượng thư tả thừa Lương Đào tạm quyền. Phạm Dục ở Hi Châu xin việc tu sửa và xây dựng, nhưng bàn cãi không quyết định. Khi trình lên, Lương Đào lại tranh luận rằng: “Hi Hà nhiều lần xin tu sửa biên giới, như Nhữ Già, Kết Châu Long, Nạp Mê, Hoa Xuyên, Lý Nặc Bình, Thiển Tỉnh, Thạch Môn Tử, nếu tu sửa xong sẽ rất tiện lợi. Nếu trước chiếm giữ các nơi hiểm yếu mà tu sửa, thì những chỗ khác có thể tuần tự sửa chữa. Nay nếu bỏ những nơi khống chế then chốt mà tu sửa những chỗ không quan trọng, dù có nhiều cũng vô ích, chỉ tốn hao sức nước, làm khổ dân biên giới, sinh ra hậu họa. Thần nghe nói Thiển Tỉnh, Thạch Môn Tử chỉ có thể giải quyết được một con đường của Hi Hà, Hoa Xuyên tiếp ứng Lý Nặc Bình, chỉ có thể giải quyết được một con đường của Tần Phượng. Như Nhữ Già cách Nạp Mê bảy mươi dặm, Lý Nặc Bình cách Nạp Mê hơn trăm dặm, nếu từ xa tiếp ứng Lý Nặc Bình, không bằng từ gần tiếp ứng Nhữ Già. Nên tu sửa Nhữ Già, Nạp Mê trước, sau đó đến Kết Châu Long và các nơi khác. Nếu tu sửa xong Nhữ Già, những chỗ khác chưa tu sửa cũng được. Nếu không tu sửa Nhữ Già, Hi Hà sẽ không có đường ra vào, Định Tây xa xôi không thể giữ được, cuối cùng sẽ thành mối lo về sau.”
Có người cùng chức cho rằng Tiên đế biết việc này không thể làm nên không tu sửa. Lương Đào nói: “Thần nghe nói Tiên đế đã ban chỉ dụ, tích trữ lương thực và vật liệu, để ở Thông Viễn quân phong trang, nhưng gặp lúc Tiên đế băng hà, không kịp tu sửa, không phải vì khó khăn mà không làm được. Tiên đế muốn lấy Hội châu, há lại không làm việc này? Phạm Dục đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ tu sửa, chỉ chờ chỉ dụ là có thể hoàn thành ngay. Như vậy, Kinh Nguyên không cần cung cấp lương thực. Đất đai màu mỡ, có thể đủ lương thực cho quân đội, huống chi là đất cũ của Kham Cốc, người Tây tất không dám đòi. Nếu xử trí đúng, người Tây tự khắc phục. Nếu xử trí sai, tất sẽ sinh sự. Trước đây, Tây Hạ bàn về biên giới Chất Cố, Thắng Như, nhiều năm không quyết định, đến khi xây thành Định Viễn, người Khương liền sợ phục.”
Khi trình bản chiếu của nước Hạ, Lương Đào cho rằng trong chiếu không cần chỉ định địa giới, chỉ cần nói giao cho tướng soái bàn bạc tùy cơ ứng biến, để quan lại biên giới dễ xử trí. Ông dâng sớ nói: “Thần nhiều lần bàn với tể tướng về việc ban chiếu thư cho nước Hạ, những điều bàn cãi thay đổi, mọi người chưa thống nhất. Trước đây khi trình lên, thần đã tóm tắt trình bày. Việc biên giới quan trọng, thực sự nằm ở chiếu thư này. Mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa, đừng vì lợi trước mắt, phải hướng đến sự an ổn lâu dài. Không phải chỉ riêng thần thấy như vậy, mà những người hiểu biết việc biên giới trong và ngoài nước đều nói về lợi ích này.” Sau đó, ông dùng lời lẽ trong chiếu thư để chỉnh sửa rồi trình lên, lại viết thư tranh luận với tể tướng, nhưng cuối cùng không được. Lúc đó, Lương Đào bị bệnh chân, hôm đó xin nghỉ việc tạm quyền Trung thư tỉnh, được phê chuẩn ở nhà giữ ấn.
(Phạm Dục xem xét, Du Sư Hùng bố trí việc xây dựng, vào cuối tháng 2 năm thứ 7, lúc đó Lương Đào vẫn chưa nắm quyền. Lương Đào nắm quyền vào ngày 9 tháng 6, vì việc bàn bạc của Phạm Dục lâu không quyết định, Lương Đào nắm quyền mới có lời nói đó. Nay phụ chép vào ngày 14 tháng 4 năm thứ 8, cần xem xét kỹ hơn.
Hành trạng của Lương Đào do Trương Thuấn Dân viết: “Lúc đó Trung thư thiếu quan, bèn giao cho ông đảm nhiệm. Phạm Dục ở Hi Châu xin việc tu sửa, bàn bạc không quyết định. Khi trình lên, ông lại tranh luận rằng: ‘Hi Hà nhiều lần xin tu sửa biên giới, như Nhữ Già, Nạp Mê, Kết Châu Long, Hoa Xuyên, Lý Nặc Bình, Thiển Tỉnh, Thạch Môn Tử, đều nên tu sửa. Nếu chiếm được nơi hiểm yếu mà tu sửa trước, những nơi khác có thể tuần tự sửa chữa. Nay nếu bỏ nơi khống chế mà sửa chữa nơi không quan trọng, dù nhiều cũng vô ích, chỉ tốn sức nước, làm khổ dân biên giới, sinh ra hậu họa.
Thần nghe nói Thiển Tỉnh, Thạch Môn Tử chỉ có thể giải quyết một đường Hi Hà, Hoa Xuyên tiếp ứng Lý Nặc Bình chỉ có thể giải quyết một đường Tần Phượng. Như Nhữ Già cách Nạp Mê 70 dặm, Lý Nặc Bình cách Nạp Mê hơn 100 dặm, vì xa mà tiếp ứng Lý Nặc Bình, không bằng gần mà tiếp ứng Nhữ Già. Nên sửa Nhữ Già, Nạp Mê trước, sau đó đến Kết Châu Long. Nếu sửa được Nhữ Già, những nơi khác chưa sửa cũng được. Nếu không sửa Nhữ Già, Hi Hà không có đường ra vào, Định Tây xa không thể giữ, cuối cùng sẽ thành mối lo sau này.’
Có người cho rằng Tiên đế biết việc này không thể làm nên không tu sửa. Ông nói: ‘Thần nghe nói Tiên đế đã hạ chỉ, tích trữ lương thực, vật liệu ở Thông Viễn quân, nhưng gặp lúc Tiên đế băng hà, không kịp tu sửa, không phải vì khó mà không làm được. Tiên đế muốn lấy Hội châu, há lại không làm trại này? Phạm Dục đã chuẩn bị đủ dụng cụ tu sửa, chỉ chờ chỉ dụ, có thể hoàn thành ngay. Như vậy, Kinh Nguyên không cần cung cấp lương thực. Đất đai màu mỡ, có thể đủ lương thực cho quân. Huống chi đây là đất cũ của Kham Cốc, người Tây Hạ chắc chắn không dám đòi. Nếu xử lý đúng, người Tây Hạ sẽ tự khuất phục. Nếu xử lý sai, tất sẽ sinh sự. Trước đây Tây Hạ đòi Chất Cố, Thắng Như, nhiều năm không quyết định, đến khi xây thành Định Viễn, người Khương liền sợ phục.’
Khi trình chiếu thư của nước Hạ, ông nói trong chiếu không cần chỉ định địa giới, chỉ nói giao cho tướng thần gần đó bàn bạc kỹ, để quan lại địa phương dễ xử lý. Nhân đó dâng tấu chương nói: ‘Thần nhiều lần bàn bạc với tể tướng về chiếu thư ban cho nước Hạ, những điều bàn bạc thay đổi, mọi người chưa đồng ý. Trước đây khi trình lên, đã trình bày sơ qua. Việc biên giới lớn, thực sự nằm ở chiếu thư này, mong bệ hạ suy nghĩ sâu xa, không vì lợi trước mắt, nhất định phải hướng đến sự yên ổn lâu dài. Không phải chỉ thần thấy như vậy, mà những người hiểu biết việc biên giới trong ngoài đều nói lợi ích đó.’ Bèn dán lời trong chiếu thư vào tấu chương trình lên. Lại viết thư tranh luận với tể tướng, cuối cùng không được.
Khi ông bị bệnh chân, ngày 15 tháng 4, xin nghỉ việc quyền Trung thư tỉnh, được phê chuẩn ở nhà giữ ấn, lúc đó là năm Nguyên Hựu thứ 8.” Tờ khải xin nghỉ của Hữu hạt nói rằng nghỉ hơn 50 ngày. Chính mục ghi rằng xin nghỉ vào khoảng giữa tháng 6.)
[13] Chuyển vận phán quan Lợi Châu lộ là Trần Sát được bổ làm Viên ngoại lang Hộ bộ.
(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày 14. 《Thực lục》 không chép. Ngày 16 tháng 8 năm thứ 7, ông được bổ làm Chuyển vận phán quan Giang Đông.)
[14] Ngày Giáp Tý, Tư chính điện học sĩ, Thông nghị đại phu, Tri Vĩnh Hưng quân Lý Thanh Thần được bổ làm Thượng thư Lại bộ. (Ngày 8 tháng 8 nhuận năm thứ 6, ông được triệu từ Vĩnh Hưng về làm Thượng thư Lại bộ, nhưng sau đó việc này bị hủy. Ngày 16, ông được đổi làm Tri Chân Định, nay lại được triệu từ Vĩnh Hưng về làm Thượng thư Lại bộ. Ngày 3 tháng 5, ông lại được đổi làm Tri Chân Định. 《Chính mục》 không chép việc này. Chữ “Vĩnh Hưng quân” có lẽ nên là “Thành Đức quân”.) Quang lộc khanh Hàn Tông Sư được quyền làm Thị lang Binh bộ. (《Chính mục》 không chép việc này.) Quyền Thị lang Lễ bộ Vương Địch được bổ làm Thị lang Hộ bộ.
(《Chính mục》 không chép việc này. 《Vương Địch truyện》 chép rằng ông được triệu từ chức Phát vận sứ về quyền làm Thị lang Hình bộ, sau một năm được đổi làm Thị lang Hộ bộ. Ở đây ghi là quyền Thị lang Lễ bộ, cần xem xét lại.)
[15] Ngày Đinh Mão, Tứ phương quán sứ, Gia Châu phòng ngự sứ Lý Thụ xin nghỉ hưu.
(Sách 《Chính mục》 chép việc ngày 21. 《Thực lục》 không chép.)
[16] Ngày Mậu Thìn, Lễ bộ tâu: “Đại danh phủ có tân khoa minh pháp là Hầu Bật và những người khác dâng trạng rằng: ‘Trộm nghĩ rằng triều đình trước đã lập pháp, bãi bỏ khoa minh kinh và các khoa cử nhân, cho phép những người đã ứng thi minh kinh và các khoa cử nhân trước năm Hi Ninh thứ 5, theo lệ thi pháp của quan pháp, làm khoa tân khoa minh pháp. Từ đó không cho phép người mới ứng thi, muốn xóa bỏ hết những người cũ của khoa minh kinh và các khoa khác. Lúc đó mọi người đều theo ý triều đình, mà đổi sang ứng thi tân khoa chiếm đến bảy tám phần mười. Trước đây vào năm Nguyên Hựu thứ 3, lại theo chỉ triều đình, lập sổ ghi chép số người, không cho phép người mới ứng thi. Nay năm lộ lại đem tân khoa cử nhân cùng với tiến sĩ cùng một lệ, phải thi đủ mười người trở lên mới cho phép giải phát một người, rõ ràng là lập pháp không công bằng. Xin theo lệ các khoa, trong mười phần cũng để lại một phần giải ngạch, giải phát tân khoa cử nhân.’ Bộ này xét thấy: để lại một phần giải ngạch, có trái với điều lệ. Nếu triều đình muốn sớm xóa bỏ hết, xin cho phép để lại một phần giải ngạch, xin triều đình chỉ đạo.” Chiếu rằng: năm lộ tân khoa minh pháp cử nhân, từ nay về sau người ứng thi, nếu thi đủ bảy người, cho phép giải phát một người; nếu ứng thi chỉ có sáu người trở xuống, cũng cho phép giải một người.
[17] Ngày Kỷ Tỵ, các quan tâu: “Trộm thấy từ thời tổ tông đến nay, phàm quan viên có thân thích liên quan đến chức vụ, đều phải tránh. Gần đây triều đình đối với các chức vụ thân cận, nếu có thân thích liên quan, thường dùng chỉ đặc biệt, không cần tránh. Nay lại để cho chú cháu, anh em cùng nhau quản lý, như vậy pháp án sát chỉ còn danh mà mất thực. Mong rằng từ nay về sau, nội ngoại quan chức vụ có thân thích liên quan, đều phải theo pháp tránh, không ban chỉ đặc biệt không tránh.” Chiếu theo lời tâu, trong đó nếu có người thân xa, chức vụ không liên quan, tùy thời xin chỉ.
[18] Ngày Canh Ngọ, Giám sát ngự sử Lai Chi Thiệu tâu: “Cựu Giáo thụ phủ Dĩnh Xương là Trâu Hạo dùng thủ đoạn nịnh hót kết giao với con cháu Tô Tụng, nhờ đó được bổ làm Thái học bác sĩ. Ôm ấp ân tư, oán hận triều đình, phỉ báng đường ngôn luận. Kính mong đuổi hắn đến nơi xa xôi.” Chiếu lệnh cho Trâu Hạo do Lại bộ bổ làm Giáo thụ châu học châu Tương.
(Việc Trâu Hạo oán báng phỉ báng, cần xem xét, bản truyện cũng không có. Trần Thứ Thăng nói: Hạo được Tô Tụng biết đến, nên được bổ làm bác sĩ. Đến khi Tô Tụng bị bãi chức, Hạo cũng bị bãi theo. Thứ Thăng làm Ngự sử, ra sức xin sửa lại. Xét Thứ Thăng làm Điện viện vào tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ 2. Nay căn cứ vào đây sửa việc chấp chính làm Tô Tụng.)
[19] Giám sát ngự sử Hoàng Khánh Cơ tâu: “Các bề tôi từng dâng tráp tử, xin chiếu cho Lại bộ lập ba phép để tuyển chọn thủ lệnh. Thần cho rằng đây là việc cấp bách hiện nay, nếu thực sự bổ nhiệm được người tài, thì không cần vất vả mà thiên hạ vẫn được trị. Danh thần đời Đường là Mã Chu từng tâu với Thái Tông rằng: ‘Trị thiên hạ lấy con người làm gốc, muốn cho trăm họ an lạc, cốt ở thứ sử và huyện lệnh. Huyện lệnh đông, không thể đều là người hiền, chỉ cần châu có thứ sử giỏi là được. Nếu thứ sử trong thiên hạ đều là người tài, bệ hạ chỉ cần ngồi yên trên điện cao, còn phải làm gì nữa?’ Đó thực là lời nói chí lý. Thần thấy triều đình bổ nhiệm người làm tri châu, Lại bộ chỉ xét thứ tự lịch nhiệm để thăng chức, căn cứ vào ngày tháng đến bộ để định trước sau. Tuy có lúc được đường trừ, nhưng cũng không phải là lựa chọn kỹ càng. Đến như thường điều, mỗi khi định bổ, tấu chương dâng lên buổi sáng, chiều đã có chỉ chuẩn, bổ nhiệm quá dễ dàng, hoàn toàn không có sự cân nhắc, rất không phù hợp với ý nghĩa cầu hiền cùng trị của người xưa. Xin rằng khi bổ nhiệm người làm tri châu quân, Lại bộ phải trình bày đầy đủ thứ tự hợp lệ, số người, ghi chép ưu khuyết trong khảo khóa lịch nhiệm[5], số lượng người được tiến cử, có hay không có công lao, có hay không bị phạt, tường tận trình lên đường; Trung thư căn cứ vào chỗ khuyết, xem xét chọn lựa nhân tài, cân nhắc lớn nhỏ của châu quận, nặng nhẹ của địa vị, phức tạp hay đơn giản của dân sự, định tên để xin chỉ. Như vậy, việc cân nhắc do tể chấp, việc bổ nhiệm xuất phát từ ý chỉ của bệ hạ, thể chế được tôn trọng. Mong rằng sư suý được người tài, hiệu quả trị lý có thể đạt được.”
[20] Ngày Nhâm Thân, ban chiếu rằng: “Nghe nói gần đây quân dân trong kinh khó kiếm được thuốc men, hãy sai Khai Phong phủ điều tra. Nếu quả thật nhiều người bệnh tật, có thể bố trí Thái y cửa chọn sai thầy thuốc đến các doanh trại quân cấm vệ, các phường hẻm, phân chia khu vực để chẩn trị. Phủ này cử quan đề cử. Tiền thuốc và tiền ăn hàng ngày, xin lấy từ khoản tiền phong trang gửi ở ngự tiền, chiếu theo thứ bậc mà cấp phát. Khi bệnh nhân giảm bớt thì ngừng lại.”
(Chiếu của Triết Tông về việc chữa bệnh cho quân dân: “Nghe nói gần đây quân dân trong kinh nhiều người bệnh tật, khó kiếm được thuốc men, hãy sai Khai Phong phủ điều tra. Nếu quả thật nhiều người bệnh tật, có thể bố trí Thái y cửa sai thầy thuốc đến các doanh trại quân cấm vệ, các phường hẻm, phân chia khu vực để thăm khám chữa trị. Lại sai Lại bộ chọn mười tiểu sứ thần, chia nhau quản lý việc chữa trị, phủ này cử quan đề cử[6]. Tiền thuốc và tiền ăn hàng ngày của quan viên và thầy thuốc, xin lấy từ khoản tiền phong trang gửi ở ngự tiền, chiếu theo thứ bậc mà cấp phát. Khi bệnh nhân giảm bớt thì ngừng lại. Hãy thi hành ngay.” Ban hành ngày 26 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 8.)
[21] Ngày Ất Hợi, ty điểm kiểm thúc giục việc xóa nợ trình tấu: “Theo tờ trình của huyện Ung Khâu: ‘Theo chiếu xá của Nam Giao: các hộ dân nợ thuế và tiền vay do thiên tai từ trước năm Nguyên Hựu thứ 4 đều được miễn trừ. Do đó, huyện đã trình báo việc xin xóa nợ thuế mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 4. Theo chỉ đạo của Bộ: chiếu thư nói rằng các hộ dân nợ thuế trước năm Nguyên Hựu thứ 4 đều được miễn trừ. Huyện xét thấy: thuế mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 4 bắt đầu thu từ ngày 1 tháng 9, chiếu thư ban ngày 14 cùng tháng, tức là số nợ đang thu trước khi ban chiếu.’ Ty này căn cứ theo đoạn chiếu ngày 10 tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 8, tất cả các khoản nợ trong và ngoài đều được miễn trừ theo chiếu, rồi báo ty này kiểm tra xem có hợp lý không. Nay việc huyện Ung Khâu trình bày, xin theo tờ trình để Thượng thư tỉnh xét lại, các hộ dân các lộ nộp thuế mùa thu, dù bắt đầu thu từ ngày 1 tháng 9, nhưng việc nộp xong đều sau tháng giêng năm sau, tức không phải là nợ thực tế trước khi ban chiếu. Ngoại trừ các hộ dân nợ thuế mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 4[7], còn lại đều theo chiếu đã ban mà miễn trừ.”
(Ngày 24 tháng 11 năm thứ 7, Cố Lâm và các quan xem xét việc xóa nợ.)
[22] Tháng đó, Môn hạ thị lang Tô Triệt tấu: “Thần thấy Giám sát ngự sử Đổng Đôn Dật dâng lời, gần đây vì người Xuyên quá nhiều và việc sai khiển không công bằng, nhân đó nói Phùng Như Hối do việc tra xét công vụ của Trạch Tường, đã oan uổng kết án nhiều người phải chịu tội đồ, phối và trượng hình, liên quan đến thánh chỉ giao cho Ngự sử đài tra xét, nhưng chưa đợi việc xong, đã vội bổ nhiệm Như Hối làm quán chức, tri châu Tử Châu. Nay việc chỉ huy trước đó, chính là việc thần đã nói, xin triều đình dẫn chứng lời tấu trước của thần, xem xét thi hành. Xét lời Đôn Dật nói người Xuyên quá nhiều, sai khiển không công bằng, chỉ là lời vu cáo. Thần vốn bất tài, được triều đình quá tin dùng. Nếu Đôn Dật nói thần danh vị quá phận, không giúp ích gì cho triều đình, đó là lẽ công bằng; nhưng nay lại nói người Xuyên quá nhiều, rõ ràng là có ý hãm hại. Triều đình dùng người, vốn có quy củ, há vì thần một người được dự vào chính sự mà khiến sĩ nhân bốn lộ Xuyên, Hạp đều bị hạn chế, không được bổ nhiệm theo đúng tư cách? Đôn Dật lại nói việc bổ nhiệm Phùng Như Hối là do thần đề xuất, để chứng tỏ rằng Đôn Dật đã nhiều lần vu cáo thần, nhưng chưa được triều đình xét rõ, xin sớm ban hành mệnh lệnh, giao cho Tam tỉnh xác minh sự việc. Nếu thần có chút tư tà, xin trị tội theo quốc pháp; nếu lời nói không đúng sự thật, cũng xin minh oan, để thần không bị vu cáo mờ ám.
Thần thấy gần đây từ tể tướng trở xuống, đều vì bệ hạ mà cung kính lo việc, thăng giáng bề tôi, ít khi có quyết định đặc biệt của thánh thượng, đều giao cho đại thần bàn bạc, tuân theo phép tắc. Vì thế mỗi khi có việc bổ nhiệm, đều phải được mọi người đồng ý, mới dám tiến cử, nếu có chút bất đồng, liền không dám bổ nhiệm. Chỉ có gần đây việc bổ nhiệm Cổ Dịch, Triều Đoan Ngạn và việc Lữ Gia Vấn tấu xin ân trạch, đại thần không đồng ý, nên xảy ra tranh cãi. Vì thế mà lời đồn lan truyền[8], dẫn đến bị đàn hặc. (Cổ Dịch năm ngoái ngày 12 tháng 10 được bổ làm phó vận sứ Kinh Tây, ngày 18 tháng 2 năm nay đổi chức với Phạm Ngạc ở Tô Châu, ngày 27 đổi làm Từ Châu. Triều Đoan Ngạn năm ngoái ngày 6 tháng 9 làm tri châu Tô Châu[9], ngày 8 tháng 5 năm thứ 5 từ chức Tả ty được làm phát vận sứ, gần đây việc bổ nhiệm chưa thấy[10]. Lữ Gia Vấn năm ngoái tháng 11 làm tri châu Tương Châu, chưa thấy việc tấu xin ân trạch.) Ngoài những việc đó, ai dám chủ trương bổ nhiệm thân thuộc quá mức.
Huống chi Phùng Như Hối là người Đông Xuyên, thần là người Tây Xuyên, quê hương cách xa, hoàn toàn không có quan hệ thân thiết. Việc bổ nhiệm trước đây, là do mọi người cho rằng khi xưa ông ấy làm Ngự sử suy trực, đã không theo ý Thái Xác mà hãm hại sĩ nhân, nên bị Xác ghét, vì thế mà lưu lạc, nên mới có mệnh lệnh này. Thần không phải không biết việc công của Trạch Tường chưa xong, nên tạm hoãn lại, chỉ vì việc công của Trạch Tường, vốn do con của cậu thần là Trình Chi Thiệu điều tra, Như Hối coi đó là thù sâu. Thần vì thế phải giữ hình tích, sợ bị nghi ngờ là phe cánh của Chi Thiệu, hạn chế Như Hối, nên không dám có ý kiến khác. Đang tự hổ thẹn vì phải phòng bị và tránh né, không ngờ Đôn Dật lại nói thần thiên vị Như Hối, việc này hoàn toàn là vu cáo. Thần đang giữ chức vụ quan trọng, thực không muốn tranh cãi với tiểu thần, nhưng sợ rằng lời gièm pha sẽ ngày càng lan rộng. Kính mong thánh thượng sớm ban hành mệnh lệnh.”
(Theo 《Vương Chí Nguyên Hựu Bát Niên Bổ Lục》, việc này xảy ra vào tháng 4, nay ghi vào cuối tháng. Đôn Dật và Tô Triệt đã có tấu chương vào cuối tháng 3.)
- Xin từ nay về sau, khi các quan trưởng đến nhậm chức, văn nghĩa chưa rõ, nghi có sai sót. ↵
- 'Từ nay về sau' nguyên là 'từ trước', căn cứ vào 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 hạ, 《Tục thông giám》 quyển 82 sửa lại. ↵
- 'Uông' nguyên là 'Chú', căn cứ vào các bản khác và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Bí thư tỉnh Chính tự Trần Tường Đạo trình bày: chữ 'Tường' nguyên bản viết là 'Tường', trong quyển 432 sách 《Tống sử》 có truyện về Trần Tường Đạo, sự nghiệp phù hợp, nay căn cứ vào bản trong các khố sửa lại. ↵
- Ghi chép ưu khuyết trong khảo khóa lịch nhiệm: chữ 'lục' nguyên là 'duyên', theo các bản khác và ý nghĩa văn bản mà sửa. ↵
- chữ 'sai' trong 'bản phủ sai quan đề cử' nguyên bản là 'na', theo các bản và văn chính sửa lại ↵
- Ngoại trừ các hộ dân nợ thuế mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 4, chữ 'các' nguyên là 'quan', theo các bản và bản hoạt tự cùng văn trên sửa. ↵
- Vì thế mà lời đồn lan truyền 'Huyên' nguyên là 'Tuyên', theo các bản sửa. ↵
- Triều Đoan Ngạn năm ngoái ngày 6 tháng 9 làm tri châu Tô Châu 'Tô Châu', các bản và bản hoạt tự đều chép là 'Thái Châu'. ↵
- Gần đây việc bổ nhiệm chưa thấy 'Vị' nguyên là 'Vị', theo nghĩa văn sửa. ↵