VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 484: NĂM NGUYÊN HỰU THỨ 8 (QUÝ DẬU, 1093)
Từ tháng 5 đến tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 8 đời Vua Triết Tông.
[1] Tháng 5, ngày Đinh Sửu, mùng một.
[2] Ngày Mậu Dần, Giám sát ngự sử Hoàng Khánh Cơ tâu: “Triều đình nhân ái thương dân, cứu giúp tai họa, khiến dân không phải than thở vì mất chỗ ở, điều đó nằm ở việc chú trọng cứu tế. Vì vậy, những năm gần đây, vùng Hoài Điền bị hạn hán, kho lương không đủ cung cấp cho dân, đến nỗi phải dùng gạo vận chuyển từ thượng cung để cứu giúp. Năm trước, vùng Chiết Tây bị lũ lụt, ngân sách địa phương không đủ, phải nhờ Giang Tây, Hồ Bắc vận chuyển gạo để cứu tế, chi phí lên đến hàng triệu. Tuy nhiên, không tiếc chi phí lớn để cứu giúp tạm thời, không bằng tu sửa và thực hiện các biện pháp tốt để lưu lại ân huệ cho muôn đời.
Nghĩa thương là một biện pháp tốt, bắt đầu từ đề xuất của Trưởng Tôn Bình thời Tùy, nói rằng: ‘Người xưa canh tác ba năm, có tích trữ cho một năm; canh tác chín năm, có dự trữ cho ba năm. Dù có hạn hán, lũ lụt, dân chúng không phải chịu cảnh đói khổ, đều do khuyến khích và dự trữ từ trước.’ Vì vậy, các đời sau đều thực hiện và coi đó là lợi ích. Thời Nguyên Phong, Tiên đế lại thực hiện biện pháp này, cho rằng thời Tùy, Đường thu thuế quá nặng, lo dân không chịu nổi, nên quy định nộp một thạch gạo giống thì đóng góp năm thăng gạo vào nghĩa thương, có thể nói là rất nhẹ. Năm được mùa, gạo thừa mứa, dù thu nhiều cũng không phải là hà khắc, huống chi nộp một thạch gạo giống chỉ đóng góp năm thăng, chắc chắn không phải là thuế nặng. Khi tích trữ đủ, nếu gặp hạn hán, lũ lụt, kho lương địa phương tự đủ để cứu giúp dân. Thần năm ngoái đi qua Thái Bình châu, thấy dân đói rất nhiều nhưng không ai phải bỏ xác ngoài đồng, đó là nhờ gạo tích trữ từ nghĩa thương ngày trước, đủ để cứu tế. Lại nghe dân Tô Châu, Hồ Châu, dù được triều đình vận chuyển gạo cứu giúp, nhưng người đói không kịp chờ đến tối, thường không được hưởng ân huệ từ trên, mà chết đói rất nhiều. Từ đó thấy rõ nghĩa thương thực sự là biện pháp tốt của thiên hạ. Nay các điều lệ vẫn còn, mong từ năm nay khôi phục lại.”
Triều đình hạ chiếu lệnh Hộ bộ xem xét kỹ.
[3] Tri Việt Châu Thái Biện nhậm chức Tri Nhuận Châu. (Biện cùng Phục, Cổ, đều là việc ngày mồng 2 theo Chính mục.) Tri Lư Châu Chu Phục nhậm chức Tri Thọ Châu. (Phục nhậm chức Tri Lư Châu vào ngày 16 tháng 8 năm thứ 6.) Bí thư thiếu giám Vương Cổ kiêm nhiệm Quốc tử tế tửu.
[4] Ngày Kỷ Mão, Lại bộ thượng thư mới được bổ nhiệm Lý Thanh Thần được phong làm Tư chính điện học sĩ, Tri Chân Định phủ. Do quyền Cấp sự trung Diêu Miễn luận rằng Thanh Thần không nên được triệu dụng.
(Chính mục không ghi việc này. Ngày 18 tháng 6 lại được triệu.)
[5] Ngày Canh Thìn, Thừa nghị lang, Thiêm thư Dĩnh Châu tiết độ phán quan sự Triệu Lệnh Chỉ được bổ nhiệm làm Quang lộc tự thừa[1].
(Việc này theo Chính mục là ngày mồng 4 tháng 5. Hoàng Khánh Cơ nói là ngày 15.)
[6] Ngày Tân Tỵ, Vương Sùng Cực được phong làm Dẫn tiến sứ.
(Theo Chính mục là việc ngày mồng 5, cần xem xét thêm.)
[7] Ngày Quý Mùi, Tô Thức cùng Lữ Hi Triết, Ngô An Thi, Phong Tắc, Triệu Ngạn Nhược, Phạm Tổ Vũ, Cố Lâm dâng lời tâu rằng: “Thần đây vốn tài hèn đức mọn, được sung vào chức giảng đọc. Bệ hạ thông minh trời cho, học vấn ngày càng mới mẻ. Thần đây tài thì có hạn mà đạo thì vô cùng, lòng muốn nói mà miệng không theo kịp, vì thế tự thấy hổ thẹn, không biết làm sao. Kẻ bề tôi dâng lời trung, ví như thầy thuốc dùng thuốc, thuốc tuy do tay thầy thuốc đưa ra, nhưng phương thuốc phần nhiều truyền từ người xưa, nếu đã có hiệu nghiệm trong đời, thì không cần phải tự mình nghĩ ra. Thần thấy tể tướng nhà Đường là Lục Chí, tài vốn giúp Vua, học làm thầy thiên tử, bàn luận sâu sắc về sự việc, lời nói không rời đạo đức, trí như Trương Lương mà văn chương còn hơn, biện luận như Giả Nghị mà mưu lược không sơ hở, trên thì sửa chữa tâm sai lầm của Vua, dưới thì thông hiểu chí hướng của thiên hạ. Chỉ tiếc rằng ông không gặp thời. Đức Tông lấy sự hà khắc làm tài, mà Lục Chí khuyên nên trung hậu; Đức Tông lấy sự nghi ngờ làm mưu, mà Lục Chí khuyên nên thành thật; Đức Tông thích dùng binh, mà Lục Chí lấy việc bãi binh làm trước; Đức Tông thích tích trữ của cải, mà Lục Chí lấy việc phân phát của cải làm gấp. Đến như phép dùng người nghe lời, cách trị biên cương điều khiển tướng, tự trách mình để thu phục lòng người, sửa lỗi để ứng với đạo trời, trừ bỏ kẻ tiểu nhân để dẹp nỗi lo của dân, trân trọng danh vị để đãi người có công, những điều như thế, không thể kể hết. Có thể nói là dâng thuốc đắng, châm chữa bệnh nguy. Nếu Đức Tông nghe hết lời ông, thì thời Trinh Quán có thể trở lại.
Thần đây mỗi khi lui về từ Tây Các, thường bàn riêng với nhau, cho rằng Bệ hạ thông minh, ắt sẽ thích lời bàn của Lục Chí, chỉ cần thánh hiểu tương hợp, thì như bề tôi và chủ cùng thời. Xưa Phùng Đường bàn về tài của Liêm Pha, Mục Nhẫn, thì Hán Văn Đế phải thở dài; Ngụy Tướng dâng lời đối đáp của Triều, Đổng, thì Hiếu Tuyên Đế nhờ đó mà trung hưng. Nếu Bệ hạ muốn tự tìm thầy, thì không gì bằng chọn Lục Chí.
Sáu kinh, ba sử, chư tử trăm nhà, không phải là không có gì đáng xem, đều đủ để trị nước. Nhưng lời thánh xa xôi, học thuyết cuối cùng rời rạc, ví như núi cao biển sâu, khó lấy một hai điều mà suy chọn. Như lời bàn của Lục Chí, mở sách ra là thấy rõ, tập hợp tinh hoa xưa nay, thực là gương soi cho trị loạn. Thần đây muốn lấy các tấu nghị của ông, sửa chữa đôi chút, chép lại dâng lên. Mong Bệ hạ đặt bên cạnh chỗ ngồi, như được gặp mặt Lục Chí; đọc đi đọc lại, như được nói chuyện với Lục Chí. Ắt có thể phát huy tính thông minh của thánh, thành công trị nước trong năm tháng. Thần đây không kể hết lòng thành.”
[8] Ngày Giáp Thân, Thượng thư Tả thừa Lương Đào dâng biểu xin nghỉ vì bệnh, xin được giữ chức ở phiên trấn, chiếu chỉ không cho phép. Lương Đào lại xin bổ nhiệm ra ngoài, chiếu chỉ bác bỏ tờ tấu, và cho nghỉ ngơi dưỡng bệnh.
(Sách 《Ngự tập》 ghi ngày 16.)
[9] Chiếu chỉ việc tế Nam Giao hợp lễ, theo lệ năm Nguyên Hựu thứ 7.
(Sách 《Chính mục》 ghi việc ngày 8. Cần tham khảo chiếu chỉ ngày Đinh Tỵ tháng 4 để xem xét kỹ, nay tạm ghi cả hai.)
[10] Tả Tuyên đức lang Thái Triệu hiệu khám sách Hoàng bản. (Ngày 13 tháng 6 năm sau sẽ xuất bản.) Ngự sử Trung thừa Lý Chi Thuần được phục chức Trung đại phu. Quốc tử Tư nghiệp Triệu Đĩnh Chi làm Kinh Đông lộ Chuyển vận phó sứ. (Ngày 15, Hoàng Khánh Cơ nói…) Ty Phong Viên ngoại lang Đinh Chất làm Tri châu Túc. (Ngày 28 tháng 10 năm thứ 7 làm Viên ngoại lang.) Giá bộ Viên ngoại lang Hồ Tông Viêm làm Đề điểm Kinh Tây hình ngục. Tỷ bộ Lang trung Tôn Á Phu làm Lưỡng Chiết Chuyển vận phó sứ.
(Từ Thái Triệu đến Tôn Á Phu, đều theo 《Chính mục》. Chỉ có Tôn Á Phu, 《Thực lục》 có ghi.)
[11] Ngày Ất Dậu, Hàn lâm học sĩ kiêm Thị giảng Phạm Tổ Vũ tâu: Gần đây lệnh cho các quan giảng đọc cùng chọn những sự tích trong sử chính thời Hán, Đường có thể tiến đọc để trình lên. Theo lệ cũ của giảng diên, quan giảng đọc kinh, quan đọc đọc sử. Nếu lệnh cùng tiến đọc sử sách Hán, Đường, tức là quan giảng kiêm nhiệm chức của quan đọc, xin chỉ lệnh cho quan đọc chép tóm tắt để tiến đọc. Được chấp thuận.
[12] Ngày Đinh Hợi, chiếu chỉ cho các quan Lễ bãi bỏ việc bàn về hợp tế.
(Sách 《Chính mục》 ghi việc ngày 11. Cần tham khảo chiếu chỉ ngày Đinh Tỵ tháng 4 để xem xét kỹ, nay tạm ghi cả hai.)
[13] Bãi bỏ việc đúc tiền Chiết Nhị ở Quảng Nam Đông, Tây lộ.
(Sách 《Thực lục》 ghi việc ngày 11, 《Chính mục》 lại không có việc này[2].)
[14] Ngày Kỷ Sửu, xét tù nhân ở Kinh kỳ.
(Sách 《Chính mục》 ghi việc ngày 11.)
[15] Ngày Tân Mão, Giám sát ngự sử Đổng Đôn Dật và Hoàng Khánh Cơ đều bị cách chức. Đôn Dật được bổ làm Chuyển vận phán quan Kinh Hồ Bắc lộ, Khánh Cơ làm Chuyển vận phán quan Phúc Kiến lộ, vì đã dâng tấu nói Thượng thư hữu thừa Tô Triệt và Lễ bộ thượng thư Tô Thức không xứng đáng.
(Sách 《Tân lục》 đã chép ngày 15 về việc hai người bị cách chức ngự sử, bổ làm chuyển vận phán quan, và ghi tóm tắt lời đối đáp của Lã Đại Phòng và Tô Triệt với Vua. Ngày 16 lại chép chi tiết, rõ ràng là trùng lặp. Nay bỏ phần tóm tắt, chỉ giữ lại việc bổ nhiệm hai người. Sách 《Chính mục》 chép việc hai người được bổ làm chuyển vận phán quan vào ngày mồng 4.)
[16] Ngày Nhâm Thìn, ba tỉnh cùng trình lên bốn bản tấu của Đổng Đôn Dật nói về Tô Triệt, và ba bản tấu của Hoàng Khánh Cơ nói về Tô Thức. Lã Đại Phòng tâu rằng: “Đôn Dật nói về Triệt, những văn bản cùng ký của ba tỉnh đều cho là tội của Triệt.” Khánh Cơ nói về Thức rằng:
[17] Pháp luật là công cụ để giữ gìn sự công bằng trong thiên hạ. Dù là bậc thiên tử tôn quý cũng không dám tùy tiện dùng sự vui giận của mình mà làm nặng nhẹ khác nhau, huống chi là bề tôi? Làm bề tôi mà muốn bỏ pháp luật để tùy tiện dùng sự vui giận của mình, thì trên là cướp quyền nước, dưới là gieo họa cho dân, tai họa ấy không nhỏ. Xét Lễ bộ Thượng thư Tô Thức, tính tình hung hiểm, không để ý đến đạo lý, lời nói giả dối mà khéo léo, hành vi lập dị mà cứng rắn, nên danh tiếng đủ để mê hoặc mọi người, trí khôn đủ để che đậy lỗi lầm, đúng là loại tiểu nhân hùng mạnh mà là kẻ thù của quân tử. Bệ hạ đã cất nhắc ông ta từ chỗ tội lỗi, đặt vào hàng ngũ thị tùng, ra ngoài giữ chức lớn, vốn nên tuân theo pháp luật, nhưng lại chuyên dùng sự vui giận riêng tư, coi thường chế độ triều đình. Trước đây khi làm tri châu Dĩnh, vi phạm pháp lệnh, đặt sổ sách ở đô sảnh để thu tiền thưởng, không theo điều lệ, tùy tiện chi tiêu. Lại xử oan tội đinh chân phải đi đày, hiện đang bị Hiến ty Kinh Tây lộ điều tra xét hỏi các quan lại liên quan. Thức đã chuyển đến Dương Châu, lại vào làm Binh bộ Thượng thư, dám vượt quyền tâu bày, khiến triều đình chiều theo yêu cầu của ông ta, ra lệnh cho Giám ty không được điều tra xét hỏi, khiến việc kéo dài đến khi được ân xá. Xét ý của Thức, chỉ muốn nuông chiều tiểu nhân, che chở cho quan lại cũ, để phá hoại pháp luật mà thôi.
Trước đây Thức làm tri châu Hàng Châu, có dân chúng Nhan Ích, Nhan Chương vì quan thu thuế không chịu nhận lụa, dẫn người đến kiện cáo, không phải là tội lớn, Thức không tuân theo pháp luật, xử cho đi đày. Dù từng tự hặc tội, được triều đình tha thứ. Nhưng những việc Thức thích, dù Giám ty điều tra, cũng dám tâu bày bậy bạ, khiến không được xét hỏi; những việc Thức ghét, dù chỉ phạm tội đáng đánh trượng, cũng xử cho đi đày. Đó là đạo lý gì? Sách viết: Chỉ có Vua mới được ban phúc, chỉ có Vua mới được ra oai, bề tôi mà ban phúc ra oai, thì hại đến nhà, nguy đến nước. Ý nói quyền uy phúc lộc, chỉ có Vua mới được nắm giữ. Thức là bề tôi, lại muốn tùy tiện dùng sự vui giận của mình mà xử tội người khác, xét ý không tuân theo pháp luật của ông ta, chính là có lòng khinh miệt triều đình, tội bất trung của ông ta thật lớn vậy.
[18] Tô Thức từ khi được tiến dụng đến nay, thường dẫn dắt đảng phái, phân bố quyền lực, những kẻ a dua thì ra sức tiến cử, những người chống đối thì công khai bài xích. Trước đây tiến cử Vương Củng, đã được bổ làm Tông chính tự thừa, lại thông phán Dương Châu, cuối cùng vì không giữ gìn phẩm hạnh mà bị bãi chức. Gần đây tiến cử Lâm Dự, từ chức Đông bài ngạn, không xét thứ tự tư cách, liền sai làm Tri quân Thông Lợi. Trước kia bổ nhiệm Trương Lỗi làm Trứ tác lang, (ngày 24 tháng 12 năm thứ 6), gần đây bổ nhiệm Triều Bổ Chi làm Trứ tác tá lang, (ngày 26 tháng 10 năm thứ 7), đều do Tô Thức ra sức tiến cử, nên mới đến mức này. Như Tần Quan cũng là môn hạ của Tô Thức, vốn nổi tiếng là kẻ xảo trá, trước đây được bổ làm Bí thư tỉnh chính tự, đã bị người ta đàn hặc mà bãi chức, nhưng vẫn còn được làm Hiệu đối sách Hoàng bản. Vì thế những kẻ bon chen đua nhau chạy đến cửa nhà ông ta như đi chợ, chỉ biết có Tô Thức mà không biết có triều đình. Làm bề tôi mà chuyên quyền kết bè kết đảng đến thế, họa hại há nhỏ sao? Gần đây sứ thần Cao Ly xin ban sách vở, vốn là việc thường thời tổ tông, và đã nhiều lần ban sách cho họ, Tô Thức lại chống lại chiếu chỉ, cực lực nói không thể. Đến khi Đô tỉnh phê gửi Lễ bộ, bắt lại viên ghi sổ, vốn không phải là trách nhiệm nặng nề, Tô Thức lại che chở lại viên, cố sức biện bạch, nhất định phải thắng mới thôi. Đô tỉnh là nơi thống lĩnh Lục tào, vốn có thứ bậc trên dưới, há có việc bàn luận không đúng mà còn dám tranh cãi? Xét ý khinh nhờn Đô tỉnh của ông ta, chính là có lòng khinh thị triều đình, tội bất trung của ông ta lại càng rõ ràng.
[19] Tô Thức ở triều trước, tự ý làm thơ ca, báng bổ chính sự triều đình[3], các cơ quan xét xử, chứng cứ rõ ràng. Mọi người đều cho rằng tội của ông đáng chết, chỉ có Tiên đế thương xót, chỉ xử nhẹ, đày đến Hoàng Châu an trí. Tiên đế đối với Tô Thức, có thể nói là có ân tái tạo, dù là trời đất cha mẹ cũng không hơn được. Thức không biết cảm kích ân sâu, lại còn trong lòng oán hận.
Khi hai Thánh bệ hạ mới lên ngôi, lấy Thức làm Trung thư xá nhân, Thức nhân việc soạn chế cáo, công khai chỉ trích việc thời Tiên đế, không chút kiêng dè, truyền khắp bốn phương. Sĩ đại phu đọc, người có học thức đau lòng, người có chí khí bức xúc. Xét ý của Thức, chỉ muốn châm chọc Tiên đế để trút nỗi phẫn uất xưa nay.
Thức soạn chế cáo bổ nhiệm Lý Chi Thuần làm Hà Bắc đô chuyển vận sứ, viết: “Trước đây, tệ nạn tiền dịch, lãi vay, việc dân binh và chính sự ngựa, đều dồn về phương Bắc.” Lại viết: “Sông tràn gây tai họa, già trẻ chạy trốn, lưu lạc trên đường, đã mười năm nay. Than ôi! Ai có thể vì Trẫm mà vỗ về an định, khiến họ trở lại như xưa?” Xưa Tuyên Vương kế vị sau Lệ Vương, vạn dân ly tán, không yên nơi ở, mà có thể vỗ về an định, nên được ghi trong bài thơ “Hồng Nhạn”. Thời Tiên đế, phương Bắc làm sao có việc già trẻ chạy trốn, lưu lạc trên đường? Nói rằng do tiền dịch, lãi vay, dân binh, chính sự ngựa mà gây ra thiên tai, phải đợi đến bệ hạ mới có thể sai sứ vỗ về an định, vậy Tiên đế so với đời nào? Lại ví với loạn Lệ Vương.
Thức soạn chế cáo bổ nhiệm Tô Tụng làm Hình bộ Thượng thư, viết: “Trước đây, pháp luật rối rắm, quan lại mất chức trách, trộm cướp nhiều, ngục tụng lộn xộn.” Tiên đế dùng hình phạt thận trọng, thương xót các vụ án, khôi phục chế độ Đại Lý tự, Hình bộ xét định và ba tỉnh kiểm tra án tụng, làm sao có chuyện pháp luật rối rắm, quan lại mất chức trách? Đến việc trộm cướp nhiều, ngục tụng lộn xộn, chỉ thời Hán Vũ Đế, bạo chinh viễn thú, nên trộm cướp nổi lên, phải sai sứ Trực chỉ để đốc thúc bắt giữ. Đó mới gọi là hỗn loạn, thời Tiên đế làm sao có chuyện này? Thức nói vậy, là so Tiên đế với đời nào? Lại ví với sự bạo ngược của Vũ Đế.
Thức soạn chế cáo bổ nhiệm Lưu Nghị làm Tri Châu Thiều Châu, viết: “Ngươi trước làm sứ giả, tận mắt thấy dân khổ, nói hết mà không kiêng dè, cùng khổ mà không thương xót, há biết có ngày được báo đáp?” Lưu Nghị đắc tội với Tiên đế, tự cho rằng chức trách là thi hành pháp luật, có chỗ chưa đến, nên bàn công khai, mà lại dâng thư khoe khoang, vì thế bị cách chức Giang Tây đề cử, sao gọi là nói hết? Đến câu “há biết có ngày được báo đáp”, lời này càng không đành nghe. Bệ hạ kế thừa tông miếu, nên có cách để tôn vinh nghiệp lớn đức tốt của Tiên đế, há muốn báo đáp người đắc tội với Tiên đế?
Thức soạn chế cáo bổ nhiệm Đường Nghĩa Vấn làm Hà Bắc chuyển vận sứ, viết: “Trẫm sửa pháp phú dịch, bãi chức quan tụ liễm, bỏ bạc theo trung, cốt để dưỡng dân.” Tiên đế lập pháp, há không muốn dưỡng dân? Tiên đế dùng người, há không muốn bỏ khắc bạc theo trung hậu? Nay nói cốt để dưỡng dân, là chỉ trích Tiên đế không thể dưỡng dân. Nay nói bãi chức quan tụ liễm, là chỉ trích Tiên đế dùng quan tụ liễm. Thức soạn chế cáo giáng chức Lữ Huệ Khanh, viết: “Nếu có kẻ hại nước hại dân, đều giơ tay đứng đầu.” Tiên đế lập pháp, là muốn cùng thiên hạ hưởng lợi, há có chuyện Tiên đế thánh thần anh tuấn, vượt trăm Vua như thế, mà lại chịu theo mưu hại nước hại dân? Các chế cáo Thức soạn đều ở Viện Xá nhân, mong bệ hạ thử lấy ra xem, hẳn có điều chưa nói hết.
[20] Thần xin lấy người thường mà bàn. Đối với con người, chửi cha người ta, còn là nghĩa không đáng tha, huống chi Thức giữ chức thay lời Vua, mà thực chất là phỉ báng tiên đế, xét theo pháp luật, thì phải xử thế nào? Bệ hạ phụng thừa tông miếu tiên đế, hàng năm cúng tế, chưa từng không mang lòng lo sợ như sương móc. Nay lại để kẻ chê bai tiên đế đứng trong hàng ngũ thị tùng, đặt ở triều đình, thần e rằng uy linh tiên đế ở trên trời cũng sẽ nổi giận. Nếu Thức ngày nay được giữ đầu, đã là may mắn, nay lại vội thăng chức, gấp dùng, chỉ sợ không kịp, thần e rằng thiên hạ cũng sẽ bàn tán về bệ hạ.
Xưa Dương Uẩn dùng câu “Cày ruộng Nam Sơn, cỏ dại không dọn” để chê bai triều Hán, Tuyên Đế còn xử chém ở chợ. Thần nghĩ rằng chê bai triều đình tội nhỏ, còn chê bai tông miếu thì tội ác không thể dung thứ. Bệ hạ cho rằng Thức có công lớn nên không dám trị tội, nhưng từ khi Thức được bổ dụng đến nay, chưa nghe có công lao gì. Cho rằng Thức có đức dày nên không thể giáng chức, nhưng hành vi của Thức, tham ô, tích ác, không gì là không có. Đến như kết thân với Tri huyện Nghi Hưng, Châu Thường là Lý Khứ Doanh, ép mua ruộng đất thế chấp của họ Tào, khiến người ta kiện tụng suốt tám năm mới xử trả lại. Những việc xấu xa của y, thần chưa dám tâu lên, không thể nói là có đức.
Từ khi Thức được dùng, người ta mong y sửa lỗi tự làm mới, nhưng y lại buông thích giận, tự tiện uy phúc, dẫn dắt bè đảng, làm rối kỷ cương, công khai chế cáo, chỉ trích triều trước. Xét ý bất kính với tông miếu của y, chính là có lòng khinh thị bệ hạ. Nhưng nhiều năm nay, không ai dám nói, vì Triệt là người nắm quyền, bè đảng thân thích đều ở chỗ trọng yếu, quyền thế lừng lẫy trong ngoài, có thể khiến người ta gặp họa ngay, nên mọi người sợ hãi không dám nói.
Thần tuy rất ngu, không phải không biết nói ra thì họa đến, nhưng nghĩa khí dâng lên, không thể tự kiềm chế, nên cố gắng tâu lên bệ hạ. Mong bệ hạ đoán xét, trên là giải tỏa lời báng bổ tiên đế, dưới là chấn chỉnh pháp luật hiện nay. Xin lệnh cho Trung thư tỉnh xóa bỏ những lời chế cáo của Thức có ý chê bai, để răn đe kẻ bề tôi bất kính.”
Lại tâu rằng:
[21] Kẻ trị thiên hạ tất phải bắt đầu từ việc chỉnh đốn triều đình, chỉnh đốn triều đình tất phải bắt đầu từ việc phá bỏ bè đảng. Nếu không đủ sáng suốt để thấu hiểu việc nhỏ, đủ công bằng để lắng nghe mọi ý kiến[4], đủ thông minh để quyết đoán, thì không ai không bị gian tà che mắt. Vào thời nhà Đường, Vương Thúc Văn, Vi Chấp Nghị, Liễu Tông Nguyên cùng đồng bọn kết thành bè đảng, làm rối loạn kỷ cương, một thời danh sĩ không ai không theo họ, suýt nữa làm hại thiên hạ. Nhờ Hiến Tông cương nghị sáng suốt, lập tức trục xuất họ, nên tiểu nhân không thể thực hiện ý đồ. Đến thời Văn Tông, Ngưu Tăng Nhụ, Lý Tông Mẫn, Dương Ngu Khanh cùng đồng bọn cấu kết với nhau, trên thì che mắt bịt tai Vua, dưới thì lộng quyền triều đình, Văn Tông đến nỗi phải than thở khi lâm triều, nhưng rốt cuộc cũng không thể trừ bỏ được. Xem việc Hiến Tông trị vì, Văn Tông loạn lạc, có thể làm gương cho việc trị nước, không ngờ ngày nay lại tận mắt thấy tệ nạn này!
[22] Thần gần đây đã tâu về việc Lễ bộ Thượng thư Tô Thức, đã liệt kê rõ những việc làm của ông ta. Thần thấy Môn hạ Thị lang Tô Triệt, mang lòng tà, xu nịnh tư lợi, dẫn dắt bè đảng, ỷ thế làm trái pháp luật, cố gắng cùng anh mình là Tô Thức kết thành cánh tay đắc lực, làm rối loạn triều chính. Tô Thức thì bên ngoài hứa hẹn việc bổ nhiệm người và công khai tiến cử họ, còn Tô Triệt thì bên trong ứng phó và dẫn dắt họ. Những kẻ a dua thì lập tức được thăng chức, còn những người trái ý thì công khai bài xích, trên không sợ quốc pháp, dưới không nghĩ đến công lý. Thần xin liệt kê những việc làm rõ ràng của họ: Xét việc Tô Thức kết giao với Lã Đào rất thân thiết, trước đây tiến cử Lã Đào thay mình, rồi được bổ làm Khởi cư Xá nhân. Gần đây, Trung thư Xá nhân Trần Hiên vì việc tiếp đón sứ thần Cao Ly xin sách vở, Tô Thức ghét Trần Hiên không theo phe mình, bèn công khai tấu lên triều đình, ra sức bài xích, muốn đẩy Trần Hiên ra ngoài, rồi thăng Lã Đào làm Trung thư Xá nhân. (Lã Đào được thăng làm Trung thư Xá nhân vào ngày 8 tháng 6 sau đó.) Chức vụ gần gũi với Vua, là thị tùng của bệ hạ, mà Tô Thức dám công khai bài xích người không theo phe mình, ngầm muốn tiến cử bè đảng, tội lộng quyền của ông ta thật lớn.
Khi Tô Thức làm Tri châu Dĩnh, Triệu Lệnh Chỉ làm Thiêm phán châu ấy, Tô Thức thường qua lại rất thân thiết, mỗi lần dự tiệc của Triệu Lệnh Chỉ thì ngồi trên chính đường, vào tận phòng ngủ, chỉ có hai người, còn phụ nữ trong nhà đứng hầu hai bên, dư luận cho là rất xấu hổ. Tô Thức lại công khai tiến cử lên triều đình, khen ngợi tài năng của ông ta. Nghe nói Tô Triệt đang bàn việc bổ nhiệm Triệu Lệnh Chỉ, tội lừa dối của ông ta thật lớn. (Ngày 4 tháng 5, Triệu Lệnh Chỉ được làm Quang lộc Thừa.) Quốc tử Tư nghiệp Triệu Đĩnh Chi khi làm Ngự sử, nhiều lần tố cáo việc làm bất công của Tô Thức, Tô Thức làm Lễ bộ, quản lý Quốc tử Giám, ngày ngày tìm cách bới móc việc trong Thái học, mọi phán quyết đều không theo quy chế học đường, muốn đè nén Triệu Đĩnh Chi để đẩy ông ta ra ngoài. Nghe nói Tô Triệt đang bàn việc bổ nhiệm Triệu Đĩnh Chi làm Chuyển vận Phó sứ, vì cùng bàn với đồng liệt chưa thống nhất nên chưa dám trình lên. Ông ta vì tư oán mà quên công lý, đến mức như vậy.
Thái phủ Tự thừa Văn Huân vì chữ triện mà giao du với Tô Thức, ban đầu không được khen ngợi về tài năng làm quan công chính, Tô Thức đã tiến cử, Tô Triệt bèn bổ làm Chuyển vận Phán quan Phúc Kiến lộ. (Vào ngày 19 tháng giêng.) Chức vụ Giám ty án sát một lộ, trọng trách không nhẹ, sao có thể giao cho người không có tài năng? Vì tư tình mà bỏ quốc pháp, đến mức như vậy! Khi Phùng Như Hối làm Chuyển vận sứ Quỳ Châu lộ, xử lý công việc không đúng, đang bị Ngự sử đài điều tra chưa xong, Tô Triệt vì là người Tứ Xuyên, bèn bổ làm Quan chức, sai làm Tri châu Tử. Gần đây, sắc lệnh mới ban xuống, Phùng Như Hối tuy bị cách chức theo pháp luật, nhưng chức vụ và công việc vẫn không thay đổi, có thể gọi là dùng người theo pháp luật sao? Sự ngang ngược của ông ta đến mức như vậy! Khi Triệu Tiết làm Tướng quân Phu Diên, muốn bỏ Hi Hà nhưng không dám dâng tấu, bèn viết thư gửi đại thần. Lúc đó Tô Triệt làm Trung thừa, nhận được thư, liền tâu lên. Nhờ Gián quan Lưu Đường Lão dâng tấu tố cáo việc thông đồng lừa dối, kế hoạch mới không thực hiện được. Bệ hạ tuy không trị tội, nhưng cũng không hề biết xấu hổ. Sự lừa dối đến mức như vậy!
[23] Trước đây, thần từng nói rằng các quan chấp chính không chú trọng việc hòa hợp, mỗi khi muốn thực hiện một việc hay bổ nhiệm một chức vụ, bàn bạc nhiều ngày nhưng phần lớn không thể thống nhất, thậm chí có lúc gần như tranh cãi kịch liệt, làm tổn hại nghiêm trọng đến thể diện quốc gia. Đó là vì họ muốn tiến cử đồng đảng của mình, nên mọi người không chịu nghe theo. Các sĩ đại phu không coi trọng tiết nghĩa, mà tranh nhau kết bè kết phái để mong được thăng tiến, nguyên nhân là do các đại thần khởi xướng và dẫn dắt. Thần ngu muội không hiểu ý đồ của các đại thần khi kết bè kết đảng là gì. Hiện nay, trong hàng ngũ thị tòng, những người thuộc phe cánh của họ chiếm bốn, năm phần mười; trong các cơ quan tỉnh, tự, những người thuộc phe cánh của họ chiếm sáu, bảy phần mười; trong các cơ quan quán, các, những người thuộc phe cánh của họ chiếm tám, chín phần mười. Những người khác ngầm liên kết với họ thì không thể kể hết được. Thức từng tự nhận rằng bệ hạ khen ngợi anh em họ là những người cô độc, nên cho rằng bệ hạ chắc chắn không nghi ngờ họ, vì thế họ mới dám kết bè kết đảng mà không chút e dè. Đồng thời, phe cánh của họ còn nói rằng bệ hạ hứa sẽ trọng dụng Thức, nên họ tin chắc rằng bệ hạ sẽ tin tưởng họ, vì vậy các sĩ đại phu đều tranh nhau tìm đến cửa họ để mong được tiến thân. Trên dưới cùng hưởng ứng, hợp thành một phe cánh vững chắc không thể phá vỡ. Tình trạng này kéo dài, thần e rằng quyền thế của họ ngày càng lớn, phe cánh ngày càng nhiều, thì mối họa cho quốc gia sẽ không dừng lại. Bệ hạ há không nên suy nghĩ sâu xa sao?
[24] Hơn nữa, bề tôi thờ Vua, chỉ có lòng trung mà thôi. Một lời nói liên quan đến sự lừa dối, thì suốt đời không thể tin tưởng được. Xét việc Triệt tiến cử Vương Củng với hàng trăm lời, bệ hạ thực sự cho rằng có thể dùng được. Sau đó, Đề điểm hình ngục Hoài Nam là Chung Tuấn điều tra kỹ lưỡng về việc Vương Củng trong thời gian tại chức có nhiều hành vi bê bối, bằng chứng rõ ràng, nên bị giáng chức làm Giám đương. Thế mà Triệt vẫn thản nhiên, không hề tự nhận lỗi. Trình Chi Thiệu là em họ của Triệt. Trước đây làm Chuyển vận phán quan lộ Quỳ Châu, xét việc Tôn Củng ở quân Vân An, Củng và Chi Thiệu tố cáo lẫn nhau, hiện đang được xét xử chưa rõ đúng sai, thế mà lại bổ nhiệm Chi Thiệu làm Đô đại đề cử trà sự. (Ngày 6 tháng 12 năm thứ 6 bổ nhiệm Chi Thiệu.) Hơn nữa, việc này thuộc về Hữu ty, nên xét tình hình để định tội, há có thể vì quan hệ thân thích mà đột nhiên thay đổi chức vụ, lại còn được thăng chức tốt hơn? Vả lại, làm bề tôi, không nên có ý riêng, há có thể vì anh mình thích thì lập tức tiến cử, anh mình ghét thì ngầm bài xích? Quên đi lòng trung thành vì nước, mà dùng ý chí lợi dụng quyền lực vì tư lợi, không trừng phạt, thì làm sao kiểm soát được bề tôi?
Đến như tội ác của Thức, điều lớn nhất và không thể dung thứ, chính là quên ơn bảo toàn của tiên đế, coi thường ý chỉ trọng dụng của bệ hạ, nhân việc soạn chế cáo, công khai châm chích. Xét theo pháp luật, chỉ trích hoàng thượng, tội không thể tha, huống chi là chỉ trích tông miếu? Dù bệ hạ nhân từ thánh thiện, muốn tỏ ra bao dung, nhưng tình lý của Thức không thuận, thì quốc pháp sẽ ra sao? Công luận sẽ ra sao? Đây chính là điều mà người và thần đều căm ghét. Dương Hùng nói: “Trời đất không gì không dung, chỉ có kẻ bất nhân bất nghĩa là không thể dung.” Bệ hạ thử xét việc làm của Thức và Triệt, có thể gọi là bất nhân bất nghĩa, sao có thể dung thứ được? Khổng Tử nói: “Ghét kẻ ở dưới mà chê bai người trên.” Bởi vì họ buông lời nhẹ dạ, không biết kiêng sợ, thì không gì không làm, nên mới ghét. Bệ hạ thử xem việc làm của Thức và Triệt, nếu mất kiểm soát, thì còn gì không dám làm! Bởi đã dám chê bai, thì tức là mang lòng không coi trời đất ra gì, từ xưa đến nay, gian thần chưa từng có ai như vậy. Chỉ vì quyền thế của họ lừng lẫy trong ngoài, nên sĩ đại phu ai nấy đều ngần ngại, không dám nói hết.
[25] Lúc đó, Lã Đại Phòng, Tô Triệt tâu rằng: “Khánh Cơ nói rằng các cáo văn do Tô Thức soạn cho Lý Chi Thuần và năm người khác có nội dung chê bai, hủy báng tiên đế. Trong đó, cáo văn cho Lục Sư Mẫn là do Phạm Bách Lộc soạn, không phải do Tô Thức viết. Thần trộm nghĩ, ý chỉ của tiên đế vốn là muốn làm giàu đất nước, mạnh quân đội để đánh dẹp bốn phương, nhưng một số quần thần lúc đó đã quá thuận theo, nên có việc làm không đúng. Đến khi Thái hoàng thái hậu và hoàng đế lên ngôi, dựa theo nguyện vọng của dân, tùy thời mà sửa đổi, đó là lẽ đương nhiên. Xưa, Hán Vũ Đế thích dùng binh, thu thuế nặng làm hại dân, Chiêu Đế lên ngôi, nghe theo nhiều ý kiến, bãi bỏ nhiều việc. Minh Đế thích xét nét, thường xuyên dấy lên các vụ án tàn khốc, Chương Đế đổi lại bằng sự khoan hậu. Đều được thiên hạ vui lòng phục tùng, chưa từng có ai cho là hủy báng tiên đế. Đến triều ta, Chân Tông lên ngôi, miễn giảm nợ nần để làm giàu cho dân, Nhân Tông lên ngôi, bãi bỏ việc xây dựng cung điện để giảm sức dân. Những việc này đều là tùy thời mà làm, để bổ sung những thiếu sót của triều trước, cũng chưa từng nghe sĩ đại phu thời đó cho là hủy báng triều trước. Gần đây, từ niên hiệu Nguyên Hựu, các quan giữ việc tâu bày thường lấy cớ hủy báng tiên đế để đàn hạch, không chỉ làm tổn thương người ngay thẳng[5], mà còn muốn làm rối động triều đình, ý đồ rất xấu. Nếu không cấm chỉ, về lâu dài sẽ bất tiện.”
[26] Tô Triệt lại tâu rằng: “Hôm qua, thần lấy tờ cáo của anh thần là Tô Thức soạn về Lữ Huệ Khanh để xem, trong đó có đoạn nói về Tiên đế rằng: ‘Ban đầu lấy lòng nhân của Đế Nghiêu, tạm thử dùng Bá Cổn, cuối cùng với thánh đức của Khổng Tử, không tin lời Tể Dư.’ Anh thần là Tô Thức há lại là người chê bai Tiên đế sao? Thần nghe nói vào những năm cuối đời, Tiên đế cũng tự hối hận về những việc đã làm, chỉ là chưa kịp sửa đổi mà thôi. Việc cải cách đầu niên hiệu Nguyên Hựu chính là để noi theo ý tốt của Tiên đế.” Thái hoàng thái hậu nói: “Tiên đế hối hận về chuyện cũ, đến mức rơi nước mắt. Lúc ấy, trong số các đại thần, có người rất không tốt, không chịu can ngăn.” Lã Đại Phòng nói: “Nghe nói sau khi thất bại ở Vĩnh Lạc, Tiên đế từng nói: ‘Hai phủ đại thần, hầu như không có ai có thể khuyên can.’ Như vậy, những việc làm sai trái lúc ấy rõ ràng không phải là bản ý của Tiên đế.” Thái hoàng thái hậu nói: “Việc này Hoàng đế nên hiểu rõ.” Đại Phòng nói: “Hoàng đế thánh minh, ắt sẽ thấu hiểu việc này.” Do đó, có chỉ dụ, Đôn Dật và Khánh Cơ đều được bổ nhiệm làm Tri quân.
(Đại Phòng, Triệt v.v… Tân lục đều căn cứ theo 《Long Xuyên Lược Chí》, nhưng không chép việc bổ nhiệm hai người làm Tri quân, nay đều thêm vào. Đôn Dật, Khánh Cơ được bổ làm Vận phán, 《Chính Mục》 chép việc này vào ngày mồng 4.)
[27] Ngày Giáp Ngọ, Hộ bộ tâu: “Tả Ban Điện Trực Triệu Thúc Nghiêu tự trình bày là thuộc hàng thân thích đã hết tang, vì cha mất nên xin giải chức để chịu tang, xin được chiếu theo thể lệ đổi chức của tông thất để cấp lương. Xét rằng các Tiểu Sứ Thần trong tông thất khi chịu tang đều không được phép giải chức, nên không bị cắt lương. Nay nếu theo lệ của quan ngoài khi chịu tang, không cấp lương nữa, e rằng sẽ gặp khó khăn. Xin rằng những người trong tông thất giữ chức Tiểu Sứ Thần khi chịu tang cha hoặc ông đều mất, nếu là thân thích đã hết tang thì được cấp lương, nếu không phải thân thích đã hết tang thì được cấp nửa lương.” Được chấp thuận.
[28] Quyền Hộ bộ Thượng thư Tiền Hiệp được bổ nhiệm làm Long đồ các Trực học sĩ, Tri Khai Phong phủ. (Tiền Hiệp quyền Hộ bộ, cần kiểm tra.) Bảo văn các Đãi chế, Quyền Tri Khai Phong phủ Hàn Tông Đạo được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thị lang. (Tháng 12 năm thứ 6, từ Hộ bộ Thị lang được bổ nhiệm làm Bảo văn các Đãi chế, Tri Khai Phong phủ.) Đoan minh điện Học sĩ Đặng Ôn Bá được bổ nhiệm làm Binh bộ Thượng thư. (Theo Chính mục ngày 18. Thực lục ghi ngày 23.) Long đồ các Đãi chế, Tri Thiểm Châu Vương Chấn được bổ nhiệm làm Tri Vĩnh Hưng quân. (Theo Chính mục ngày 18. Thực lục không ghi.) Tập hiền viện Học sĩ, Tri Hà Trung phủ Lý Chu được bổ nhiệm làm Tri Thiểm Châu. (Theo Chính mục ngày 18 tháng 5.) Công bộ Viên ngoại lang Tôn Phác được bổ nhiệm làm Tư phong Viên ngoại lang.
(Theo Chính mục ngày 18 tháng 5. Ngày mồng 2 tháng 4 làm Công bộ Viên ngoại lang.)
[29] Ngày Ất Mùi, Thượng thư Tả thừa Lương Đào dâng tâu xin được về quận dưỡng bệnh, chiếu chỉ không chấp thuận.
[30] Ngày Bính Thân, Tả triều thỉnh lang, Tân Kinh Hồ Bắc lộ Chuyển vận Phán quan Đổng Đôn Dật được bổ nhiệm làm Tri Lâm Giang quân, Tả triều thỉnh lang, Tân Phúc Kiến lộ Chuyển vận Phán quan Hoàng Khánh Cơ được bổ nhiệm làm Tri Nam Khang quân. Đổng Đôn Dật và Hoàng Khánh Cơ vừa có chỉ được bổ nhiệm làm Tri quân, nhưng Ngự sử Trung thừa Lý Chi Thuần cùng Thị ngự sử Dương Úy, Giám sát ngự sử Lai Chi Thiệu cũng tâu rằng: “Hai người này vu hãm trung lương, triều đình khoan dung, chỉ cho ra làm quan, thần e rằng người sau sẽ bắt chước, tùy ý làm bậy, dám buông lời vu cáo.” Vì vậy nhanh chóng trách phạt họ.
(Theo 《Long Xuyên Lược Chí》 của Tô Triệt, ngày dâng tấu của hai người, đã có chỉ bổ nhiệm làm Tri quân, không phải do tấu chương của Ngự sử. Lý Chi Thuần lúc đó cũng có lời tâu. Nay căn cứ vào 《Long Xuyên Lược Chí》 sửa đổi chút ít. Ngày Ất Tỵ tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ nhất, cần tham khảo thêm.)
[31] Ngày Mậu Tuất, Hiệu thư lang Trần Sư Tích được bổ làm Công bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý. Trứ tác tá lang Thời Ngạn được bổ làm Binh bộ Viên ngoại lang, Tập hiền Hiệu lý. (Theo《Chính mục》ngày 22. 《Thực lục》không ghi.) Triều phụng lang Thường An Dân được bổ làm Khai phong phủ Thôi quan. (Theo《Chính mục》ngày 28. Ngày 8 tháng 5 năm thứ 3, An Dân từ chức Thái bác được bổ làm Thừa. Ngày 2 tháng 3 năm thứ 4, được bổ làm Giang Tây Vận phán[6].) Thái bộc tự thừa Lưu Đương Thời được bổ làm Hà Bắc Chuyển vận Phán quan.
(Theo《Chính mục》ngày 22.)
[32] Ngày Kỷ Hợi, hoàng đệ Vũ Thành Tiết độ sứ Kỳ Quốc công Sơ được gia phong Khai phủ Nghi đồng Tam ty.
(Theo《Chính mục》ngày 26.)
[33] Hoàng Khánh Cơ, Đổng Đôn Dật đã bị khiển trách, Tô Thức dâng trát tự biện rằng:
[34] Thần từ khi còn trẻ bước vào quan trường, vốn tính cương trực, ghét kẻ ác, thẳng thắn nói lên ý kiến, cô độc, được các bậc quân chủ qua các triều đại biết đến, nhưng cũng vì thế mà bị bọn tiểu nhân ghen ghét, việc này đã có từ lâu.
Từ thời Hi Ninh, Nguyên Phong, thần bị Lý Định, Thư Đản vu cáo. Đến thời Nguyên Hựu, Chu Quang Đình, Triệu Đĩnh Chi, Cổ Dịch đều lấy tội phỉ báng để hãm hại thần, trước sau nối tiếp nhau, chuyên dùng thủ đoạn này, triều đình trên dưới đều biết rõ. Nhưng bọn tiểu nhân không dùng cách này thì không thể khiến tội của thần thêm nặng, nên chúng nhất định phải dùng đến. Nay lại nghe quan ngự sử Hoàng Khánh Cơ tiếp tục theo lối cũ của Lý Định, Chu Quang Đình, Cổ Dịch, cũng lấy điều đó để vu cáo thần, lại còn nói thần lạm dụng tiền công của Dĩnh Châu, xử oan án tử hình cho Đinh Chân, và cưỡng ép mua ruộng của người họ Tào.
Tuy biết triều đình đã nhìn rõ âm mưu của hắn, cách chức hắn rồi, nhưng trong đó có những điều liên quan đến tiết tháo lớn của bề tôi, về nghĩa không thể không biện bạch. Khi thần trước đây giữ chức Trung thư xá nhân, gặp lúc triều đình đày ải mấy tên đại gian, các cáo từ ban ra đều theo đúng lời chỉ dụ ban đầu, tội trạng nêu ra không phải do thần tự ý thêm bớt. Trong đó, Lữ Huệ Khanh từng giữ chức chấp chính, bị giáng làm tản quan, an trí, hình phạt rất nặng, lúc đó nhận chỉ dụ triều đình trích lời các quan ngự sử nói về tội ác của Huệ Khanh ban xuống, đã là trong lời chỉ dụ, thì thần đâu dám bớt đi?
Nhưng ý của bề tôi cho rằng việc liên quan đến tiên triều, không thể không kiêng kỵ, nên đặc biệt trong cáo từ có phân tích giải thích, để thiên hạ hiểu rõ đó là tội ác của Huệ Khanh, chứ không làm tổn hại đến đức lớn của tiên triều. Còn ý đày ải thì đã thể hiện trong tiên triều. Lời lược rằng: “Tiên hoàng đế cầu hiền như không kịp, theo điều thiện như xoay vòng. Ban đầu lấy nhân từ của Đế Nghiêu, tạm dùng Cổn, cuối cùng lấy thánh đức của Khổng Tử, không tin Tể Dư. Phát giác tội ác lâu nay của hắn, giáng làm quan phụ quận. Vẫn nghi ngờ hắn sửa lỗi, tạm trao quyền lớn. Lại dâng lời lừa dối, tiếp tục bị đày đến Đường Sơn, phản phúc răn dạy. Lòng ác không chừa, nóng nảy khinh suất, bịa đặt. Lời đức còn đó.”
Ý ngu muội của thần cho rằng xưa nay như Cổn là đại thần của Nghiêu, mà không làm hại nhân đức của Nghiêu; Tể Dư là học trò giỏi của Khổng Tử, mà không làm hại thánh đức của Khổng Tử. Huống chi lại thêm giáng chức, ghét bỏ hắn, đều là ý của tiên triều. Vậy thì tấm lòng nhỏ bé của thần, tự cho là không phụ lòng vậy. Nay Khánh Cơ lại chỉ trích là phỉ báng, chẳng phải là bịa đặt quá lắm sao?
Những lời khác nói về cáo từ của Lý Chi Thuần, Tô Tụng, Lưu Nghị, Đường Nghĩa Vấn, đều là Khánh Cơ gán ghép, để tạo thành tội cho thần. Chỉ như trong đó có bốn chữ “lao lai an tập”, liền nói là loạn của Lệ Vương, nếu cứ như thế bịa đặt lời người; thì người trong thiên hạ còn ai dám mở miệng động bút nữa? Khổng Tử viết 《Hiếu Kinh》, nói “Như lâm vực sâu, như bước trên băng mỏng”, đó là thơ của U Vương, chẳng lẽ Khổng Tử phỉ báng ai sao? Tệ này bắt đầu từ Chu Quang Đình, thịnh hành dưới thời Triệu Đĩnh Chi, đến Cổ Dịch thì cực điểm. Nay Khánh Cơ lại theo đó, thần e rằng mối hại ngấm ngầm, dần không thể để phát triển, không chỉ vì thần mà nói vậy.
[35] Lại nói về việc Hoàng Khánh Cơ dẫn lời cáo từ của Lục Sư Mẫn, nói rằng: “Xâm phạm, vơ vét trăm đường, oán hận lan khắp bốn phương”, cũng gọi là phỉ báng, chỉ trích. Lời cáo này vốn không phải do thần viết, trong hồ sơ của Trung thư tỉnh chắc chắn có tên chủ mưu, có thể kiểm tra lại. Rõ ràng là quan chức phụ trách cáo từ thời đó, hễ có người bị đày ải, đều bị gán tội trạng như vậy, việc này không chỉ riêng thần. Những lời như “xâm phạm, vơ vét, oán hận” kia, ý cũng chỉ nhằm vào Lục Sư Mẫn mà thôi, sao lại gọi là phỉ báng, chỉ trích? Khánh Cơ lấy lời của người khác, gán thành tội của thần, sự lừa dối của hắn đều như vậy.
Lại nói về việc Khánh Cơ cáo buộc thần lạm dụng tiền công của Dĩnh Châu, việc này hiện đang được Thượng thư tỉnh điều tra, nhưng số tiền sử dụng đều là để thưởng ngoài quy định, nhằm khuyến khích người dân tố giác, bắt giữ bọn cường đạo ác độc, và để hoàn trả gấp số tiền, vật dụng thiếu hụt trong kho công sứ của tiền tri châu mà người nghèo khó đã nộp. Tình lý như vậy, đều có thể kiểm tra lại.
Lại nói về việc Khánh Cơ cáo buộc thần cưỡng ép mua đất đai của người họ Tào ở huyện Nghi Hưng, Châu Thường trong tám năm, châu huyện mới xử trả lại. Việc này vốn xảy ra khi thần đang giữ chức Đoàn luyện phó sứ, trong lúc bị tội phế truất, nhờ người thân thích nộp đơn, theo điều lệ mua được một thửa đất của người họ Tào. Sau đó, người họ Tào lại đến chỗ thần gây rối, tranh giành, thần lập tức gửi văn thư đến Chuyển vận ty của bản lộ, yêu cầu xử lý công bằng, điều tra kỹ lưỡng, đồng thời làm tờ trình gửi lên Thượng thư tỉnh. Sau đó, Chuyển vận ty cử quan viên điều tra, xác định người họ Tào thú nhận việc gây rối vô lý[7], xử phạt theo pháp luật xong, ruộng đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của thần, gửi văn thư thông báo cho thần.
Thần thương xót kẻ tiểu nhân vô tri, chỉ muốn kiếm tiền, thân đã giữ chức Thị tòng, không muốn tranh cãi phải trái với họ, nên sau khi họ thú nhận và bị xử phạt, thần cho phép người họ Tào lấy lại đất với giá cũ, đồng thời báo cáo lên Thượng thư tỉnh và gửi văn thư cho bản lộ thi hành. Nay Khánh Cơ lại nói rằng bản lộ xử trả lại đất cho người đó, rõ ràng là vu khống. Hiện nay hồ sơ vụ việc còn lưu tại Hộ bộ, có thể yêu cầu lấy về kiểm tra.
Lại nói về việc Khánh Cơ cáo buộc thần ở Dĩnh Châu xử án sai khiến Đinh Chân bị tội chết[8], việc này đã được Hình bộ xem xét, kết luận không phải xử án sai, mà là do Đề hình Tưởng Chi Hàn vu cáo, hồ sơ vụ việc còn lưu tại Hình bộ. Thần nghĩ rằng Khánh Cơ vu khống thần không chỉ một việc, thân không thể biết hết, nay triều đình đã biết rõ sự gian trá của hắn mà cách chức, thân không nên tranh luận từng việc. Nhưng nghĩa vụ của bề tôi, lấy danh tiết làm trọng, nên phải trình lên Thiên tử.
[36] Thái hoàng thái hậu ra lệnh cho Triệt khuyên bảo Thức rằng: “Gần đây mọi người đang tìm cách hãm hại, nên cần phải giảm bớt việc.” Thức bèn dâng tờ tấu tạ ơn rằng: “Ơn trời sâu nặng, như dạy bảo con cháu; uốn nắn bảo toàn, như yêu quý thân thể. Nước mắt cảm ân, không tự chủ mà rơi. Kính nghĩ thần tài mỏng mệnh lận, tính khí sơ suất ít lo nghĩ, nửa đời gặp hoạn, tuổi già bị gièm pha, nếu không nhờ hai bậc thánh thấu hiểu sâu sắc, dù chết trăm lần cũng không chuộc được! Kính xét Khổng Dung đời Đông Hán, tài mỏng chí lớn, cương trực không khuất phục, nên bị Lộ Tuý hãm hại; Kê Khang đời Tây Tấn, tài nhiều hiểu biết ít, thích kết giao với kẻ tiểu nhân, nên gặp họa Chung Hội. Người đương thời đều bóp tay tiếc thương, ngàn đời sau còn rơi lệ. Thần vốn không có ưu điểm của hai người ấy, lại mang khuyết điểm của người xưa, nếu không nhờ bệ hạ cực kỳ công bằng mà hành xử khoan dung, cực kỳ nhân từ mà soi xét sáng suốt, xem xét sự thịnh suy qua lại, phân biệt lợi hại trong chỗ nghi ngờ, thì thần đã theo hai người ấy xuống suối vàng từ lâu rồi, sao còn có ngày nay! Kính xin vâng theo mà xoay chuyển[9], không dám để mất mát, sẽ khắc ghi vào xương, đâu chỉ ghi vào đai! Mong toàn vẹn thân hình nhỏ bé, để báo đáp ơn đức lớn lao.”
[37] Ngày Quý Mão, Lễ bộ Thượng thư Tô Thức tâu: “Thần trộm thấy sắc lệnh khoa cử năm Nguyên Hựu quy định: Các đề thi về thơ, phú, luận được ra từ sách tử, sử, nếu ra từ kinh sách mà không trùng với kinh sách mà thí sinh đang học thì được chấp nhận. Nay thần suy xét, xin cho phép đề thi thơ phú được ra từ Cửu kinh, Hiếu kinh, Luận ngữ, sách tử sử và chú giải trong Cửu kinh, Luận ngữ, không cần tránh kinh sách mà thí sinh đang học. Chỉ cần dưới đề mục in sẵn, ghi đầy đủ toàn văn và chú sớ, không được thiếu sót. Như vậy, thí sinh học kinh đó hay không đều ghi nhớ như nhau, không cần tránh né. Đồng thời, điều này cũng thể hiện ý của triều đình đối với sĩ tử, chỉ xét tài năng để quyết định đỗ trượt, không dùng văn không đầy đủ để che giấu điều họ không biết mà quyết định thăng giáng, như vậy cũng góp phần vào phong khí trung hậu.” Chiếu theo lời tâu. Khoa trường sắp tới chưa ra đề thi theo chế độ này.
[38] Long Đồ các Trực học sĩ, Tri thành đô phủ Thái Kinh xin đổi về quận khác, chiếu không cho phép.
[39] Ngày Giáp Thìn, Bí các Hiệu lý Dư Trung được bổ làm Trứ tác Tá lang.
(Theo Chính mục ngày 28. Ngày 16 tháng 2 được bổ làm Bí các Hiệu lý.)
[40] Thị ngự sử Dương Úy tâu: “Thần trộm thấy gần đây có chỉ hạ lệnh hai tỉnh cử mỗi nơi hai viên quan đài. Chức vụ phong hiến quan hệ đến trị loạn, là nơi nhà Vua gửi gắm tai mắt, có thể nói là rất trọng yếu, chưa từng nghe lệnh cho thuộc quan của tể tướng cử ngự sử. Ngự sử và chấp chính là những chức vụ liên quan mật thiết nhất, chấp chính đã không tự chọn, mà để thuộc quan cử, thì khác gì tự chọn.” Chiếu bãi bỏ chỉ hạ lệnh trước đây về việc hai tỉnh cử quan đài.
(Theo bổ lục năm Nguyên Hựu thứ 8 của Vương Chí, ngày 5. Ghi ở cuối tháng. Cần xem xét.)
[41] Tháng 6, ngày Mậu Thân, Kiến Vũ quân Tiết độ sứ, Phò mã Đô uý Lý Vĩ mất. Vua đến viếng khóc, tặng Khai phủ Nghi đồng Tam ty.
(Việc tặng Khai phủ, theo Chính mục ngày 18. Nay ghi kèm ở đây.)
[42] Ngày Canh Tuất, môn khách của Thái phi là Ngô Ngạn Chương được bổ làm Giả Thừa vụ lang.
(Theo Chính mục ngày 4. Ngày 7 tháng 3 năm sau, cần xem xét.)
[43] Chuyển vận sứ phán quan Thiểm Tây là Trương Cảnh Tiên được thăng làm Phó sứ.
(Việc này ghi trong 《Chính mục》 ngày mùng 4. Lai Chi Thiệu nói rằng việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 7.)
[44] Ngày Tân Hợi, Lễ bộ tâu: “Xét theo chiếu chỉ ngày 16 tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 5: ‘Xét thấy khoa trường mới kiêm thêm thi phú, lo rằng các lộ thiếu quan coi thi phú, nên trong số các thông phán, nếu có người có thể sai phái thì cũng cho phép sai phái.’ Lại theo tờ trình của Lễ bộ ngày 19 tháng 3 năm Nguyên Hựu thứ 5, chiếu theo điều lệ: ‘Các châu có số người dự thi không đủ 100 người, Chuyển vận ty phải dự liệu, chỉ định gộp thi tại châu gần thuận tiện.’ Nay xin các châu có số người dự thi không đủ 150 người, tạm theo điều lệ trên mà gộp thi.” Được chấp thuận.
[45] Ngày Giáp Dần, Khởi cư lang kiêm quyền Cấp sự trung Diêu Miễn, Khởi cư xá nhân Lã Đào đều được bổ làm Trung thư xá nhân. (Ngày 16 tháng 5. Lời tâu của Hoàng Khánh Cơ có thể tham khảo. 《Chính mục》 cũng ghi tương tự.) Bí thư thiếu giám Vương Cổ được bổ làm Khởi cư lang. (《Chính mục》 ngày mồng 8.) Bí thư thừa Lữ Hi Thuần được bổ làm Khởi cư xá nhân. (《Chính mục》 ngày mồng 8.) Giám sát ngự sử Lai Chi Thiệu được bổ làm Điện trung thị ngự sử. (《Chính mục》 ngày mồng 8.) Tri Nhuận châu, Tập hiền hiệu lý Thôi Công Độ được bổ làm Bí thư thiếu giám. Công Độ từ chối không nhận, được gia hàm Trực Long đồ các, vẫn giữ chức Tri Nhuận châu. (Trước đây, Công Độ từng giữ chức Tập hiền hiệu lý Tri Nhuận châu[10], vào ngày mồng 6 tháng 8 nhuận năm thứ 6. 《Chính mục》 ngày mồng 8 ghi Công Độ làm Bí thư thiếu giám, nhưng 《Thực lục》 không ghi chép này. Đến ngày mồng 6 tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ 2, mới bổ làm Bí thư thiếu giám Tri Tuyên châu. Xét theo truyện của Công Độ, khi giữ chức Tri Nhuận châu, được triệu về làm Khởi cư lang, ông dâng sớ từ chối hai lần, đến ngày 26 tháng giêng năm thứ 7 lại được bổ làm Tri Nhuận châu. Chưa đầy một năm, được bổ làm Bí thư thiếu giám, ông lại từ chối. Sau đó được gia hàm Trực Long đồ các, vẫn giữ chức Tri Nhuận châu. Khi được triệu về kinh, ông lại từ chối. Năm Thiệu Thánh thứ 2, lại được bổ làm Bí thư thiếu giám, ông lại kiên quyết từ chối, cuối cùng được bổ làm Tri Tuyên châu. Theo truyện của Công Độ, việc gia hàm Trực Long đồ các không rõ ngày tháng, nay tạm ghi ở đây.) Hữu triều phụng lang, Tư nông thiếu tự thừa Tần Định được bổ làm Giang Nam Đông lộ chuyển vận phán quan.
(《Chính mục》 ngày mồng 8. 《Thực lục》 ghi ngày 21.)
[46] Vương Thuyên, được phong làm Xung Chiếu xử sĩ.
(《Chính mục》 ngày mồng 8, ghi việc phong Vương Thuyên làm Xung Chiếu xử sĩ, cần tra cứu thêm về thân thế của Thuyên.)
[47] Lễ bộ thượng thư Tô Thức xin được bổ làm Tri Việt châu, nhưng chiếu chỉ không chấp thuận.
[48] Ngày Mậu Ngọ, Trung đại phu, Thủ Thượng thư Tả thừa Lương Đào được bổ làm Tư chính điện học sĩ, kiêm chức Đồng Lễ Tuyền quan sứ. Trước đó, Lương Đào vì bệnh xin từ chức, có chiếu cho giữ chức cung quan sứ tại kinh. Tể tướng tâu theo lệ cũ, rằng không phải tể tướng thì không được bổ làm quan sứ, nên đặt ra chức đồng sứ để tỏ lòng sủng ái. (Ngày 8 tháng 7, Lương Đào được bổ làm Tri Dĩnh Xương. Việc Lương Đào từ chức chắc chắn có nguyên nhân, nhưng sử chép chỉ ghi là vì bệnh, cả bản mới và cũ đều như vậy. Thiệu Bá Ôn trong 《Dương Úy truyền》 chép rằng Dương Úy gửi thư cho Chương Đôn, nói rằng dùng thế lực của Tô, Lã để đuổi Lưu Chí, Lương Đào, thì Lương Đào cũng chắc chắn bị đàn hặc. Cần xem xét thêm. Trong 《Chính mục》, việc bổ làm đồng quan sứ cũng ghi vào ngày 12. Tháng giêng năm Nguyên Hựu thứ 6, Phùng Kinh đã được bổ làm Trung Thái Nhất cung sứ, nhưng Phùng Kinh chưa từng làm tể tướng, không rõ vì sao trong truyện của Lương Đào lại ghi như vậy. Cần xem xét thêm.)
Lương Đào ban đầu vì bất đồng trong việc bàn luận biên sự nên xin từ chức vì bệnh. Tấu chương dâng lên nhiều lần, đều bị nội thị đem trả lại, lại hỏi lý do nhất định phải từ chức, và bí mật thăm dò nhân tài. Lương Đào nói: “Sự tín nhiệm không sâu, lời nói không được nghe theo, mà lại hỏi về nhân tài có thể dùng, thần không dám nhận.” Sứ giả đến lần thứ hai, Lương Đào bèn dâng tấu chương, nói rằng: “Nhân tài có thể đảm nhận việc lớn, thánh chúa tự biết. Chỉ cần phân biệt tà chính, công bằng thiện ác trong thiên hạ, khiến cho bên cạnh quan gia đều là người chính trực, thì thiên hạ được hưởng phúc, tông xã có phúc lành. Bệ hạ nếu muốn biết người có thể đảm nhận việc lớn, không gì bằng chọn dùng những người cũ trung kiên, chính trực, thuần hậu, có uy tín, không bị lời khen chê bên cạnh làm lay chuyển thánh ý, thiên hạ may mắn biết bao!” Sau khi được bổ làm Tư chính điện học sĩ, kiêm Đồng Lễ Tuyền quan sứ, Lương Đào lại dâng tấu chương bốn lần xin ra ngoài, được bổ làm Tri Dĩnh Xương. Trước khi lên đường, nội thị được sai đến ban trà thuốc, tuyên dụ rằng: “Đã nghe theo lời khanh, phục chức cho Phạm Thuần Nhân làm tể tướng rồi.”
Lương Đào ra làm Tri Dĩnh Xương vào ngày 8 tháng 7, sử liệu này căn cứ vào 《Lương Đào hành trạng》 do Trương Thuấn Dân soạn, có chỉnh sửa, cần xem xét tính xác thực. Trong 《Lương Đào hành trạng》 chép: “Lương Đào dốc sức xin từ chức vì bệnh, sợ làm hỏng việc nước, dù được ưu ái nhưng nghĩa không dám an nhàn. Tấu chương dâng ba lần, đều bị nội thị đem trả lại, Lương Đào lại cố từ chối. Trước đó, Lương Đào bàn luận biên sự không quyết, đã gửi sách vở, quần áo đến nơi khác. Hôm sau, dọn dẹp phủ đệ, dời đến chùa Quan Âm. Dâng biểu xin từ chức lần nữa, chiếu không cho, lại cắt bỏ tấu chương, ban cho lời ưu ái. Lương Đào cho rằng đại thần bàn luận nhiều việc không được thực hiện, làm sao báo đáp? Quyết tâm xin từ chức. Tấu chương dâng nhiều lần, Vua liên tục sai thị thần đến phủ, đem trả lại tấu chương, hỏi lý do nhất định phải từ chức, và bí mật thăm dò nhân tài. Lương Đào nói: ‘Sự tín nhiệm không sâu, lời nói không được nghe theo, mà lại hỏi về nhân tài có thể dùng, thần không dám nhận.’ Sứ giả đến lần thứ hai, Lương Đào bèn dâng tấu chương, nói rằng: ‘Nhân tài có thể đảm nhận việc lớn, thánh chúa tự biết. Chỉ cần phân biệt tà chính, công bằng thiện ác trong thiên hạ, khiến cho bên cạnh quan gia đều là người chính trực, thì thiên hạ được hưởng phúc, tông xã có phúc lành. Bệ hạ nếu muốn biết người có thể đảm nhận việc lớn, không gì bằng chọn dùng những người cũ trung kiên, chính trực, thuần hậu, có uy tín, không bị lời khen chê bên cạnh làm lay chuyển thánh ý, thiên hạ may mắn biết bao!’
Lương Đào càng kiên quyết xin từ chức. Hôm sau, Tuyên Nhân dụ tể tướng, cho phép giải chức cơ chính, lệnh giữ chức cung quan sứ tại kinh. Theo lệ cũ, không phải tể tướng thì không được bổ làm quan sứ, nên đặt ra chức đồng sứ, bổ Lương Đào làm Tư chính điện học sĩ, kiêm Đồng Lễ Tuyền quan sứ. Lương Đào từ chối: ‘Đặc biệt đặt ra chức sứ, ân lễ quá trọng, từ khi có quan chế đến nay chưa từng có, thần không dám nhận, chỉ mong được bổ làm tri châu để an dưỡng.’ Hai cung sai thị thần đến tuyên dụ: ‘Quan gia không muốn khanh đi, sắp sửa trọng dụng.’ Lương Đào chỉ cảm kích ân điển. Sau đó lại dâng sớ trình bày những điều đã nói trước, kiên quyết từ chối chức Đồng Lễ Tuyền quan sứ. Tấu chương dâng bốn lần, được đổi làm Tri Dĩnh Xương phủ, kiêm Kinh Tây Bắc lộ An phủ sứ, vì bệnh được miễn tạ từ. Ngày rời kinh, Vua sai trung quý nhân ban trà thuốc, tuyên dụ: ‘Đã nghe theo lời khanh, dùng người cũ, phục chức cho Phạm Thuần Nhân làm tể tướng, đợi khi khanh khỏe, sẽ triệu về.'”)
[49] Thủ trát ban cho Lã Đại Phòng viết: “Hiện nay chức quan chấp chính khuyết nhiều, nay muốn bổ nhiệm trước một người làm Hữu bộc xạ. Nếu dùng người đương nhiệm thăng chuyển để bổ nhiệm, lại sợ trong ngoài không đồng tình, ắt sẽ dẫn đến bàn tán xôn xao. Nay nghĩ lại, chi bằng chọn người trong hàng cũ. Muốn bổ nhiệm Phạm Thuần Nhân làm Hữu bộc xạ, không biết thế nào? Nếu được ổn thỏa, hãy tạm sai một quan viên Ngự dược viện mang chiếu thư triệu về kinh, sau đó sẽ ban chỉ.” Đại Phòng tâu: “Việc tiến cử đại thần, không phải là điều thần dám vượt quyền tham dự. Như lời chỉ dụ, thực hợp với ý chung.” Ngày Kỷ Mùi, sai Câu đương Ngự dược viện Lý Trác mang chiếu thư ban cho Quan văn điện Đại học sĩ, Đại trung đại phu, Tri Dĩnh Xương phủ Phạm Thuần Nhân, lệnh cho đi ngựa trạm về kinh.
Trước đó, Thị ngự sử Dương Úy nói: “Bên ngoài bàn tán rằng vì Tô Tụng vừa bị bãi chức, e rằng sẽ chỉ dùng hai người là Thượng thư Hữu thừa và Đồng tri Xu mật viện sự mà thôi. Một người thì tính tình hẹp hòi, không có tài năng thông suốt việc lớn, lại cố chấp, ắt sẽ có ý báo ân báo oán; một người thì tài năng, tiết tháo, danh vọng đều không có gì đáng khen, chỉ vì kết thông gia với thân thích mà giữ chức binh quyền, trong ngoài đã bất bình, huống chi làm tể tướng?” (Hữu thừa là Trịnh Ung, Đồng tri Xu mật viện là Hàn Trung Ngạn.) Khi nghe tin sẽ dùng Thuần Nhân làm Hữu bộc xạ, Úy lại nói: “Người trị thiên hạ dùng thưởng phạt hiệu lệnh, huống chi tể tướng giúp Vua ban ra thưởng phạt hiệu lệnh để thể hiện sự công bằng! Thuần Nhân năm ngoái làm tướng ở Thái Nguyên phủ, giữ biên cương không có thành tích, trên dưới không phòng bị, giặc Tây thừa cơ xâm phạm Lân Châu, giày xéo ngàn dặm, chết mấy vạn người, vừa bị bãi chức giáng quan, tên còn trong sổ tội, mà bệ hạ vội mệnh làm tể tướng, đó là thưởng phạt không đúng, công tội chưa phân. Nếu cho là công thì tội danh chưa xóa, nếu cho là tội thì chưa nên triệu về, huống chi làm tể tướng! Bệ hạ mệnh tể tướng mà thưởng phạt chưa rõ, làm sao để thiên hạ thấy được?” Từ đó dâng bảy tờ tấu, đều không được nghe. Giám sát Ngự sử Lai Chi Thiệu lại nói: “Thuần Nhân theo học Trình Di, tối tăm hung dữ, vô tài, không giúp ích gì cho nước.” Khi Thuần Nhân đến, Úy lại nói: “Thuần Nhân từ Dĩnh Xương phủ được triệu, chưa vào yết kiến mà đã che lọng đi qua cửa nội, là bất kính.” Thái hoàng thái hậu đều không nghe.
(Theo 《Vương Chí Nguyên Hựu bát niên bổ lục》 thêm vào. Chí lại nói: “Thái hoàng thái hậu nhận ra người tấu chương đang dò xét ý Lã Đại Phòng và Tô Triệt, nhiều lần công kích bãi chức tể tướng, chấp chính, vì Thuần Nhân là bậc đức xưa nên triệu dùng, đợi đến cửa kinh mới ban chỉ. Úy và Chi Thiệu đều bàn rằng Thuần Nhân không nên làm tể tướng, lúc đó đều cho rằng Úy bọn họ ngầm nhận chỉ dụ, không phải là công luận.” Lời Chí nói giống với Thiệu Bá Ôn, cần xem xét thêm.) Có người nói: “Úy cùng Tô Thức, Triệt đều là người Thục, trước đánh Lưu Chí[11], sau đánh Tô Tụng, đều ngầm vì Triệt. Thái hoàng thái hậu nhận ra ý riêng của Úy, nên lại từ ngoài triệu dùng Thuần Nhân. Úy sau lại nói Triệt không nên trọng dụng.”
(Theo 《Thiệu Bá Ôn biện vu》, Úy vì Triệt, e rằng không hẳn thế. Đã thấy ngày 18 và 28 tháng 10 năm thứ 6, cần đối chiếu với lời ghi của Vương Chí. 《Chính mục》 ghi việc triệu Phạm Thuần Nhân là ngày 12, hoặc sửa ngày Kỷ Mùi 13, làm ngày Mậu Ngọ.)
[50] Ngày Tân Dậu, Trương Tảo, chức Tư chính điện Đại học sĩ, Hữu Quang lộc Đại phu, Tri Dương Châu, mất. Được truy tặng chức Hữu Kim tử Quang lộc Đại phu, ban tặng 500 tấm lụa, thụy là Giản Dực.
(Theo 《Vương Tồn mộ chí》. 《Tân lục》 thiếu truyện của Trương Tảo, vì 《Cựu lục》 thiếu quyển. 《Vương Chí bổ truyền》 cũng cần được biên soạn riêng. 《Chính mục》 ghi ngày 28 tặng Trương Tảo Kim tử, ngày 12 tháng 7 ban tặng 500 tấm lụa. 《Trương Tảo mộ chí》 do Vương Tồn soạn, có trong 《Tạp lục》 quyển 1.)
[51] Ngày Nhâm Tuất, Môn hạ Trung thư hậu tỉnh tâu: “Theo chỉ dụ triều đình, biên soạn các điều lệ thông dụng tại kinh, thu thập các điều kiện từ các cơ quan trong kinh, biên thành một sách. Trừ các pháp lệnh liên quan đến một lộ, một châu, một huyện, hoặc các tỉnh, tào, tự, giám, khố, vụ đã tách ra và gửi đến các cơ quan liên quan, những chỉ thị tạm thời không thể trở thành pháp lệnh vĩnh viễn[12], tạm thời giữ lại như cũ, đã biên soạn thành một số quyển sách về sắc lệnh và quy cách. Các điều lệ trước cuối tháng 10 năm Nguyên Hựu thứ 3 đã được sửa đổi và lưu trữ, sẽ không thi hành nữa. Các chỉ thị ban hành sau ngày 1 tháng 11, sẽ được coi là sắc lệnh mới, và những điều lệ trước thời điểm đó nhưng chưa được cơ quan này xem xét hoặc đã gửi đi, vẫn sẽ được thi hành như cũ. Xin được đặt tên sách theo tên niên hiệu Nguyên Hựu.” Triều đình đồng ý.
[52] Đoan Minh điện học sĩ kiêm Hàn lâm thị độc học sĩ, Lễ bộ thượng thư Tô Thức tâu: “Thần trộm thấy vào mùa thu năm Nguyên Hựu thứ 5 ban bố điều lệ, các gia đình dân thường, nếu ông bà, cha mẹ già yếu bệnh tật không có người phụng dưỡng, con cháu đang để tang, cho phép bậc tôn trưởng tự trình bày, xét thực thì được kết hôn. Thần nghĩ rằng con cái để tang cha mẹ không được kết hôn, đó là đạo lý chính đáng của nhân luân, là gốc rễ của vương đạo. Mạnh Tử bàn về sự nặng nhẹ của lễ và sắc, không lấy cái nặng để theo cái nhẹ. Tang ba năm, hai mươi lăm tháng, nếu để việc kết hôn chậm lại hai mươi lăm tháng, đó là cái nhẹ của sắc. Bỏ tang mà kết hôn, gần như loài cầm thú, đó là cái nặng của lễ. Chính sách của tiên vương cũng có những điều thích hợp với thời thế, nhưng không đặt ra pháp luật cho phép kết hôn trong thời gian để tang, vì tác hại quá lớn.
Gần đây mới đặt ra luật ‘phụ nữ để tang cha mẹ và chồng, nếu nghèo khó không thể tự sống, đều cho phép kết hôn sau một trăm ngày’, đã làm tổn hại lễ giáo, nhưng còn có thể tạm chấp nhận vì phụ nữ yếu đuối không thể tự lập, sợ có nguy cơ lưu lạc bất trắc. Nay lại cho phép nam giới làm như vậy, đó là nghĩa lý gì? Nam giới đến tuổi có thể kết hôn, dù không có người phụng dưỡng kèm theo, cũng đủ để nuôi dưỡng cha mẹ, nay bắt họ bỏ tang mà kết hôn, đó chính là khiến dân chúng vì sắc mà bỏ lễ, há chẳng quá đáng sao?
《Xuân Thu》 ghi chép sự thay đổi của kinh lễ, ắt nói rằng bắt đầu từ ai đó. Nếu người cầm bút chính trực viết rằng: ‘Nam giới để tang cha mẹ được lấy vợ, bắt đầu từ năm Nguyên Hựu.’ Há chẳng phải là tệ nạn của thời đại sao? Thần kính cẩn xét thấy, pháp luật này vốn do quan lại châu Cung khởi xướng một cách sai lầm, quan tòa lúc đó không xem xét kỹ lưỡng, liền đặt thành luật. Thần giữ chức vụ trong tông miếu, hôm trước lại nhân dịp giảng sách ở Nhĩ Anh, bàn đến việc này, không dám không tâu lên. Kính mong Thánh từ đặc biệt ban chỉ dụ, bỏ điều luật trên, sửa đổi phần nào phong tục lễ giáo.”
Ngày Quý Hợi, chiếu theo lời xin của Tô Thức.
[53] Giáp Tý, Tư chính điện học sĩ, Tri Chân Định phủ Lý Thanh Thần được bổ nhiệm làm Hộ bộ Thượng thư. (Theo 《Chính mục》 ngày 18 tháng 6. 《Thực lục》 ghi ngày 25 tháng 8. Việc triệu lại Thanh Thần chắc hẳn có bàn luận, nhưng chưa thấy ghi chép, cần tìm hiểu thêm để bổ sung.) Tư chính điện học sĩ, Đồng Lễ Tuyền quan sứ Lương Đào được bổ nhiệm làm Tri Dĩnh Xương phủ. (Theo 《Chính mục》. Đào cùng Lưu An Thế cùng được bổ nhiệm, 《Thực lục》 ghi ngày Quý Mùi tháng 7, nay không theo.) Bảo Văn các Đãi chế, Xu mật đô Thừa chỉ Lưu An Thế được bổ nhiệm làm Tri Chân Định phủ. (Theo 《Chính mục》 ngày 18 tháng 6. 《Thực lục》 ghi ngày 27 tháng 8, nay theo 《Chính mục》. Lời của Hàn Quán, nên chú thích vào ngày 27 tháng 8.) Đề điểm Hà Đông lộ Hình ngục Tất Trọng Du được bổ nhiệm làm Chức phương Viên ngoại lang.
(Theo 《Chính mục》.)
[54] Ất Sửu, Tả Tuyên đức lang, Bí thư tỉnh Hiệu đối Hoàng bản Tần Quan được bổ nhiệm làm Chính tự.
(Theo 《Chính mục》 ngày 19. 《Thực lục》 ghi ngày 24 tháng 7.)
[55] Bính Dần, Hình bộ tâu: Đã tu chỉnh xong điều lệ Ty môn, trong đó xin bãi bỏ, thiết lập, di dời, khôi phục cổng thành, quan ải, cầu đường, đều phải trình lên Hình bộ, và khi vận chuyển vật phẩm công, phải ghi rõ tên người vận chuyển, trình lên các Tự, Giám và Thượng thư bộ. Được chấp thuận.
[56] Mậu Thìn, chiếu rằng những nơi trước đây không có trường huyện mà tự ý xây dựng, hoặc trường học cũ bị hư hỏng mà cho phép dân chúng đóng góp tiền của để sửa chữa, đều bị phạt 100 trượng. Do Thượng thư tỉnh tâu rằng các địa phương nhiều nơi vi phạm pháp luật, bắt dân đóng góp xây dựng trường học.
[57] Quyền Công bộ Thị lang Vương Khâm Thần được bổ nhiệm làm Quyền Lại bộ Thị lang. (Theo 《Chính mục》 ngày 22.) Đô thủy Giám thừa Lỗ Quân Huống được bổ nhiệm làm Thủy bộ Viên ngoại lang. (Theo 《Chính mục》 ngày 22.) Bí các Hiệu lí, Từ Vương phủ Kí thất Cung Nguyên được bổ nhiệm làm Lưỡng Chiết Chuyển vận Phán quan.
(Theo 《Chính mục》 ngày 22.)
[58] Tân Mùi, Lại bộ tâu: Những Chuyển vận, Đề hình ty theo chiếu tâu lên các Tri châu, Huyện lệnh có thành tích chính sự xuất sắc trong nhiệm kỳ, xin được thăng thứ bậc. Được chấp thuận.
[59] Ngày Nhâm Thân, Lễ bộ Thượng thư, Đoan Minh điện Học sĩ, Hàn Lâm Thị độc Học sĩ, Tả Triều tán lang Tô Thức được bổ nhiệm làm Tri châu Định. (Theo tấu nghị của Tô Thức, ngày 19 tháng 8, ông được bổ nhiệm làm Đoan Minh Thị độc Lễ thư, bàn về việc đọc sử chính thời Hán, Đường, vì vậy ngày 26 tháng 6 không nên đã bổ nhiệm làm Tri châu Định. Lại xem thực lục, ngày 13 tháng 9 lại ghi việc bổ nhiệm làm Tri châu Định, e rằng việc ghi ngày 26 tháng 6 có thể là sai. Nếu không, ngày 26 tháng 6 lần đầu bổ nhiệm làm Tri châu nhưng không thực hiện, nên ngày 13 tháng 9 lại bổ nhiệm, mà thực lục không ghi chi tiết nguyên do. Cần xem xét thêm. Ngày 8 tháng 6, Tô Thức xin làm Tri châu Việt, không được chấp thuận. Ngày 24 tháng 7, Tô Thức lại xin đổi từ chức Tri châu Định mới nhận sang Tri châu Việt, chiếu không chấp thuận. Chính mục cũng ghi ngày 26 tháng 6 việc Tô Thức làm Tri châu Định.) Tư chính điện Học sĩ, Tri châu Định Hứa Tướng được bổ nhiệm làm Tri châu Dương.
(Chính mục ghi ngày 26 tháng 6.)
[60] Ngày Quý Dậu, Thượng thư tỉnh tâu: “Trước đây xét việc các quan viên nhờ ân thưởng mà được chiếm xạ sai khiển đến bộ, những người đã chờ đợi lâu trong danh sách tuyển dụng đều bị đẩy lên, bị áp chế đến một hai năm chưa được chú thụ, e rằng cũng có thể giảm bớt hoặc áp dụng ân lệ khác, giao cho Lại bộ xem xét kỹ rồi tâu lên. Ban đầu cho rằng chiếm xạ sai khiển cũng có thể giảm bớt hoặc áp dụng ân lệ khác, nhưng vì việc không đáng được hưởng thưởng này, hoặc đã được thăng quan tuần tự mà có dấu hiệu may mắn, thì nên xóa bỏ hoặc đổi sang chỉ xạ thăng danh, không phải là muốn bãi bỏ hoàn toàn chiếm xạ. Nay Lại bộ đổi thành giảm năm khảo hạch, nhưng lại tăng thêm việc thăng quan, ấm bổ, xin cấp, bốn tuyển của bộ này cần xem xét lại.” Được chấp thuận.
[61] Thượng thư tỉnh tâu: “Nghe báo các lộ binh phu thường bị những kẻ gian ác lấy cớ bán đồ ăn chín để ngầm giết hại. Các quan ty bộ hạt cùng những người liên quan ở địa phương lại vì nguồn gốc tệ nạn sâu xa, hình phạt nặng nề, không chịu bắt giữ, chỉ lấy cớ bỏ trốn, khiến không thể truy cứu. Vì chưa có điều khoản riêng về thưởng phạt việc tố giác bắt giữ, nên các lệnh tá huyện, quan ty bộ hạt binh phu, cùng người địa phương, binh phu đồng đội cũng chưa có pháp luật về thưởng phạt liên đới. Nên giao Hình bộ lập pháp.” Được chấp thuận.
[62] Ngày Giáp Tuất, Đô thủy sứ giả Ngô An Trì được làm Thái bộc khanh.
(Theo《Chính mục》ngày 28. Ngày 18 tháng 11 năm thứ 3, An Trì làm Đô thủy. Ngày 26 tháng 12 năm thứ 6, được tái nhiệm.)
[63] Ngày Ất Hợi, Tả triều tán đại phu, quyền phát khiển Hà Bắc lộ chuyển vận phó sứ Diệp Thân bị bỏ chữ “phát khiển”.
(Vì ngày 2 tháng 7, Lai Chi Thiệu bàn về Trương Cảnh Tiên và Diệp Thân, nên đặc biệt ghi ra đây, hoặc có thể bỏ đi.)
[64] Tháng này, Trực long đồ các, Tri Tần châu Lữ Đại Trung được gia chức Bảo văn các đãi chế, tái nhiệm.
(Theo bản truyện của Đại Trung: Được bổ làm Trực long đồ các, Tri Tần châu, hết hạn, gia chức Bảo văn các đãi chế, tái nhiệm. Hành trạng ghi việc gia chức Bảo văn các đãi chế, tái nhiệm vào năm thứ 8. Xét Đại Trung ngày 28 tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 5 được gia chức Trực long đồ các, Tri Tần châu, đến tháng 6 năm thứ 8 vừa đủ ba năm, nên ghi vào cuối tháng, đợi xem xét kỹ hơn, hoặc ghi vào cuối năm.)
- Chữ 'Chỉ' trong Triệu Lệnh Chỉ nguyên bản viết là 'Thời', theo các bản khác, bản hoạt tự, 《Tống sử》 quyển 244, phần Tông thất truyện và văn bản dưới đây sửa lại. ↵
- 《Chính mục》 lại không có việc này, chữ 'lại' nguyên là 'Nhưng', theo bản khác sửa ↵
- Báng bổ chính sự triều đình, chữ 'báng' nguyên là 'khuất', căn cứ theo các bản, bản in hoạt tự và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 1052, sửa lại là 'báng'. ↵
- 'Công túc dĩ kiêm thính' chữ 'thính' nguyên bản là 'Đức', theo các bản và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- 'người ngay thẳng', các bản, bản hoạt tự, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 1052 đều chép là 'sĩ' ↵
- Ngày 2 tháng 3 năm thứ 4, được bổ làm Giang Tây Vận phán, 'tháng 3', bản các các làm 'tháng 2'. ↵
- Sau đó, Chuyển vận ty cử quan viên điều tra, xác định người họ Tào thú nhận việc gây rối vô lý, 'ty' nguyên bản là 'sứ', căn cứ vào các bản khác và 《Đông Ba Tấu Nghị》 quyển 13, bài 'Biện Hoàng Khánh Cơ Đàn Hặc Tráp Tử' mà sửa. ↵
- Lại nói về việc Khánh Cơ cáo buộc thần ở Dĩnh Châu xử án sai khiến Đinh Chân bị tội chết, 'nhập' nguyên bản là 'nhân', căn cứ vào các bản khác, bản in hoạt tự và 《Đông Ba Tấu Nghị》 dẫn trên mà sửa. ↵
- Kính xin vâng theo mà xoay chuyển 'chuyển' nguyên tác 'Toàn' , theo các bản, Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 1052 Tô biếm trục sửa. ↵
- Chữ 'hiệu' nguyên bản viết là 'hiền', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- 'Chí' nguyên là 'Chí', theo các bản và bản hoạt tự sửa. ↵
- 'Không thể trở thành pháp lệnh vĩnh viễn' chữ 'vi' nguyên là 'vị', theo bản trong các kho sửa lại. ↵