VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 489 NĂM THIỆU THÁNH THỨ 4 (ĐINH SỬU, 1997)
Từ tháng 6 đến hết tháng 7 năm Thiệu Thánh thứ 4 đời Triết Tông.
[1] Tháng 6, ngày Quý Mùi mùng một, có nhật thực, nhưng trời âm u không thấy, quần thần dâng biểu chúc mừng.
[2] Ngày Bính Tuất, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng dâng lời chúc mừng vì không thấy nhật thực. Vua nhìn Tam tỉnh nói: “Các khanh nên chú trọng tu chỉnh chính sự, lấy việc tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài làm trọng.” Chương Đôn nói: “Triều đình chưa từng không coi việc tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài là việc cần làm, nhưng người mà mọi người cho là hiền chưa chắc đã hiền, cần phải xem xét thực tế; nếu chỉ dựa vào hư danh để tiến cử hoặc loại bỏ người, thì sẽ gây hại cho chính sự.”
Tăng Bố nói: “Bệ hạ lấy việc tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài làm điều răn, thì chính sự không có gì đáng lo. Người hiền và kẻ bất tài đều được đặt đúng chỗ, thì chính sự há có gì không tu chỉnh được sao! Con người vốn khó biết, nhưng phân biệt quân tử và tiểu nhân thì không thể tránh khỏi sự bàn tán của thiên hạ. Nếu không quan tâm đến dư luận, thì thị phi sẽ rối loạn, làm sao phân biệt được? Khuông Chương, cả nước cho là bất hiếu, nhưng Mạnh Tử vẫn lễ phép với ông ta. Có Mạnh Tử ở dưới mới biết Khuông Chương không phải là bất hiếu, người trong thiên hạ cũng tin phục, há có thể cho rằng người mà mọi người bảo là bất hiếu đều là hiếu, còn người bảo là hiếu đều là bất hiếu? E rằng không có lý lẽ như vậy. Thần cho rằng quân tử và tiểu nhân, có dư luận thiên hạ ở đó, thực sự không khó phân biệt.” Đôn nói: “Nếu tất cả đều muốn làm quân tử, thì ai sẽ là tiểu nhân?” Bố nói: “Thần không dám tự coi mình là tiểu nhân, nếu không có tấm lòng quân tử, sao có thể ở vị trí này? Nếu có tiểu nhân trong triều đình, theo đạo lý mà nói, trước mặt bệ hạ, dù là đồng liệt cũng không thể che giấu cho họ.”
Vua cười nói: “Đồng liệt khó mà chỉ trích nhau.” Bố nói: “Vì bệ hạ phân biệt thị phi, có gì không được? Chương Đôn làm tể tướng, nếu trong đồng liệt có tiểu nhân, vì bệ hạ mà nói ra, cũng là việc của chức vụ. Huống chi đối với người dưới, tà chính tốt xấu, sao có thể che giấu? Chỉ có việc gần đây tiến cử Ngô Cư Hậu, nói là bỏ lỗi dùng người thì được, nhưng nói là nên tiến cử thì không đúng.” Đôn nói: “Từ Thị lang thăng lên Thượng thư, có gì không được, nói là nên tiến cử thì không đúng, nhưng cũng là dùng người có tài.”
Vua nói: “Chỉ là dùng người có tài.” Bố nói: “Nói là dùng người có tài thì cũng gần đúng, nhưng địa vị Thượng thư không nhẹ, không nên để kẻ bất tài ở đó.” Đôn nói: “Thượng thư và Thị lang cũng không tranh giành, nhưng nếu làm Chấp chính thì không được.”
Bố nói: “Chấp chính vốn không cần bàn luận, nhưng làm Thượng thư cũng đã quá rồi. Lại như Giả Thanh, đến đâu làm quan cũng vượt quá phận, khi làm Giám ty, xét lại khởi tố, có người bị cách chức, biên quản, sau xét lại đều vô tội. Những người như vậy, há có thể giao phó một phương được sao?” Đôn nói: “Quan lại vượt quá phận, đâu chỉ có Giả Thanh?” Bố nói: “Không biết là ai, sao không xét trị?”
Đôn nói: “Thanh đến đâu, chức vụ đều làm tốt. Nay chỉ muốn dùng người có hư danh làm Giám ty, làm Tòng quan, thì chính sự đều sẽ lỏng lẻo.” Bố nói: “Thần Tông thường khen Hán Tuyên Đế xét danh trách thực, mà khi thần còn làm tiểu quan, từng dâng sớ nói về tệ nạn phong tục, cho rằng sĩ phu trộm hư danh, quan lại quen thói lười biếng, Vương An Thạch cho là lời nói hay. Nhưng cũng không thể vì người có hư danh mà bỏ đi được.”
Bố và Đôn tranh luận nhiều lần, lời lẽ rất nhiều, mọi người đều im lặng, chỉ khi bàn về Giả Thanh, Hứa Tướng và Hoàng Lý nói: “Thanh ở Phúc Kiến quả thật quá đáng.” Bố lại nói: “Nếu nói Giả Thanh được Tiên đế trọng dụng, thì cuối năm Nguyên Phong tự phạm pháp bị cách chức.” Đôn nói: “Thanh tự làm Giả Châu Tử[1].” Bố cho rằng lời nói của Đôn càng vô lý.
Lại đối, Bố nhân nói: “Hôm trước nhật thực, bệ hạ ban lời đức âm, tự nhận lỗi không kịp, nhật thực liền biến mất. Sự ứng nghiệm giữa trời và người nhanh như tiếng vang. Bọn thần đang đợi tội ở triều đình, khi xử lý việc không thể có kiến giải sáng suốt, đến khi bệ hạ tự trách mình lo sợ biến cố, bảo bọn thần suy nghĩ về những điều răn dạy, cũng không biết phải báo đáp thế nào. Lại không thể nhận lỗi từ chức để nhường đường cho người hiền, tội đã không thể tha thứ.
Khi vào tạ, bệ hạ lại lấy việc tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài làm điều răn. Thần kính nghe lời đức âm, dù là lời của Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang cũng không thể hơn được. Đại thần đã không thể thuận theo, thần vì trung phẫn mà kích động, không khỏi nói nhiều làm phiền thánh thính. Nhưng những người thần nêu như Cư Hậu, Thanh đều là tiểu nhân, há nên tiến cử?
Nay những kẻ gian tà làm rối loạn thị phi, lấy tà làm chính, lấy thẳng làm cong, thực sự khiến trong ngoài đều bất bình. Các bề tôi bên cạnh, có người chính trực, mong bệ hạ xem xét kỹ. Thần vốn thường lo bè đảng tiểu nhân kết hợp với nhau, che lấp thánh minh. Bên ngoài đều cho rằng các quan ngôn sự bàn luận, nhiều việc không giống với đại thần tam tỉnh, sợ không thể yên chức: hoặc mượn danh tốt, điều đi chức khác; hoặc thêm tội lỗi để phế truất. Như Đổng Đôn Dật làm Thị ngự sử, nếu thăng làm Quyền thị lang, thì có thể gọi là thăng tiến nhanh, nhưng đã bãi chức ngôn sự.
Những người khác đều sợ sẽ bị điều chuyển như vậy, thì những người khác biệt với đại thần đều rời khỏi ngôn lộ, tất sẽ dẫn hết bè đảng gian tà vào nắm giữ chức vụ quan trọng, thì việc bổ nhiệm sẽ không công bằng, hiệu lệnh sẽ không đúng, bệ hạ dù muốn nghe cũng không thể được!”
Vua nói: “Nhưng chưa từng có bàn luận như vậy.” Bố nói: “Trong ngoài lo lắng như thế, thần không dám không trình bày. Khi bệ hạ xử lý việc, suy nghĩ trước, cẩn thận nghe và xem xét kỹ.”
(Ngày 5 tháng 12, Đôn Dật từ Thị ngự sử bị khiển làm Tri Hưng Quốc quân, rốt cuộc không làm Quyền thị lang.)
Ghi chép việc bổ nhiệm cháu của Hoàng Phủ Hoan, nguyên Thứ sử châu Củng, làm Ngân thanh Quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Quốc tử Tế tửu, sung chức Thứ sử châu Củng.
(Việc ngày mùng một, nay phụ vào đây.)
[3] Ban chiếu cho Quốc sử viện chép lại bản nghị luận về miếu thờ Bộc của Âu Dương Tu để dâng lên.
[4] Ban chiếu: “Các quan Sửa định và Tu chính của sở Tường định Trùng tu Sắc lệnh là Triều thỉnh lang Từ Phát, Triều phụng lang Chung Chính Phủ, mỗi người được thăng một chức, bổ nhiệm tại triều đình; Biên tập quan là Tuyên đức lang Đổng Tự Chi được thăng một chức, bổ nhiệm tại triều đình; Triều thỉnh đại phu Hứa Giới Khanh được giảm hai năm khảo hạch. Vẫn theo lệ năm Nguyên Phong, chọn để lại bốn viên Sửa định quan và một viên Kiểm duyệt quan, lệnh cho sở này căn cứ công lao nặng nhẹ phân thành thứ bậc, báo lên ty Huân để nghị thưởng, tâu lên Thượng thư tỉnh.”
[5] Ngày Đinh Hợi, ban chiếu cho Binh bộ cấp 500 cây cung Thần Tí, giao cho Kinh lược ty lộ Hoàn Khánh.
(Sách mới không chép.)
[6] Ngày Mậu Tý, Thứ sử quân Vũ Xương, Kiểm hiệu Tư đồ, Khai phủ Nghi đồng tam ty, Tự Bộc vương Tông Sở mất, xa giá đến viếng, ngừng triều ba ngày. Truy tặng Thái sư, truy phong Huệ vương, thụy là Hi Tiết.
[7] Quan sát sứ châu Phủ, Đồng tri Đại tông chính sự Trọng Ngự làm Lưu hậu quân Trấn Ninh, Phòng ngự sứ châu Khai Trọng Sính làm Quan sát sứ châu Đồng.
[8] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu cho Tác phường sứ người Thổ là Đống Hoài Nghĩa được đặc tặng Đông thượng Cáp môn sứ, Trung châu Phòng ngự sứ, ban thưởng mỗi thứ bạc, lụa, tiền 100; con trai là Điện thị Khê Đống Ba được một nửa, lệnh cho Kinh lược ty báo cáo tình hình gia đình họ. Vì họ đã tử trận ở Kinh Nguyên.
[9] Ban chiếu thưởng đặc biệt cho quân Sương cấm, Cung tiễn thủ, binh dân người Thổ và Hán tham gia xây dựng mở rộng Kim Thành quan ở châu Lan.
[10] Hộ bộ tâu: “Xét theo văn bản trích yếu của Trung thư sảnh ngày mùng 4 tháng 3 năm Trị Bình thứ 2:
‘Tam ty tâu: ‘Xin quy định từ nay trở đi, tiền thuế trà do khách nhân nộp, một nửa theo đúng nơi bán hàng đã chỉ định trước, trong đó đường Kinh Hồ Nam hạn trong 1 năm 8 tháng, đường Kinh Hồ Bắc hạn trong 1 năm 6 tháng, đường Giang Nam Đông, Lưỡng Chiết, Hoài Nam hạn trong 1 năm 4 tháng phải nộp đủ; nửa còn lại, đều được gia hạn thêm nửa năm. Nếu có khách nhân nào xin gia hạn thêm, thì do tỉnh ty bắt về tra xét xử phạt.’ Vâng theo thánh chỉ: Chuẩn y.’
Bộ thần xét kỹ ý nghĩa của pháp lệnh năm Trị Bình nguyên niên, đã khoan hồng cho thương nhân, lại quy định rõ hình phạt nếu không tuân thủ thời hạn gia hạn, nên việc thu thuế có chuẩn mực, không làm tổn hại quốc kế. Năm Nguyên Hựu, Vương Nham Tẩu tâu xin, chỉ dựa vào lời thương nhân cho rằng số trà thừa do bãi bỏ thủy ma trà mà xin gia hạn thêm, tâu xin không dùng điều ước từ thời tổ tông. Sau khi gửi đến Hộ bộ, cũng không tra cứu dẫn chứng điều khoản cũ để làm rõ, bèn ban chỉ gia hạn thêm một mùa, rõ ràng thời hạn quá rộng, làm thất thoát thuế.
Hơn nữa, từ năm Nguyên Hựu thứ 2 trở đi, tiền thuế trà trong và ngoài kinh, bộ thần đã lập sổ, mỗi năm vào mùa xuân nếu quá hạn sẽ phạt gấp đôi tiền thuế. Nay kiểm tra sổ sách, thấy có 1.743 việc chưa được xử lý; và 1.348 việc đã xử lý xong nhưng lại dùng văn bản của nơi nộp thuế gửi đến tỉnh, bộ để xác nhận ngày tháng xử lý, vì không có ngày tháng nộp thuế ban đầu nên không thể tra cứu việc quá hạn.
Thần nghĩ, mỗi năm tiền thuế trà khoảng hơn 70 vạn quan, đã qua 10 năm, việc kiểm tra bị bỏ sót, thêm vào đó việc gia hạn vô lý thời Nguyên Hựu, e rằng quan lại các cấp có tình tiết gian lận.
Nay xin ngoài kinh giao cho Đề hình ty, trong phủ giao cho Đề cử ty chọn một viên quan, tại kinh thì bộ thần chọn một viên lang quan, mỗi năm lấy văn bản chứng cứ để xử lý.”
Thượng thư tỉnh xét: Chỉ dụ tạm gia hạn tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 2 là chỉ đạo tạm thời, nay không nên áp dụng nữa, ngoài ra chiếu theo lời tâu của Hộ bộ.
[11] Ngày Tân Mão, quyền Điện trung thị ngự sử Thái Đạo tâu: “Gần đây, Thái bộc tự chủ bạ Lý Soạn, khi gặp Hoàng thái hậu đi qua bên đường ao mà không tránh, bị phạt tiền và cách chức; Thái học chính Lâm Cự, mặc áo vải, đội mũ, cưỡi ngựa đi trên đường, thấy nghi vệ của bề trên mà không lập tức lui tránh, sự bất kính của ông ta cũng tương tự, nhưng lại được đặc chỉ xử phạt bằng tiền. Điều này cho thấy con cái của đại thần có thể lợi dụng thế lực để làm lung lay pháp luật của bệ hạ, không phải là cách thể hiện sự công bằng tối cao.” Chiếu chỉ Lâm Cự bị cách chức đặc biệt. Lâm Cự là con của Lâm Hi.
[12] Xu mật viện tâu: “Theo nhiều tin báo từ các lộ Hoàn Khánh, giặc đã điểm tập quân mã ở phía nam và bắc sông vào ngày mùng 1 tháng 7. Đã có chỉ huy, lệnh cho các lộ bàn bạc và chuẩn bị phương lược phòng ngự ứng phó với địch. Vào thời điểm giao mùa hạ thu, giặc Tây Hạ có lẽ chưa thể điểm tập quân, thường dùng hư thanh để nghi hoặc ta, nhằm có thời gian nghỉ ngơi. Tuy nhiên, các lộ cũng không nên quá đề phòng, chỉ cần không tự gây rối loạn. Vẫn lệnh cho các suý thần các lộ, âm thầm thực hiện kế sách trì trọng và yên tĩnh, đồng thời công khai ban hành văn thư chỉ huy, lệnh cho các tướng chỉnh đốn binh mã, chuẩn bị cho các cuộc tiến quân lớn. Nếu có cơ hội thuận lợi, có thể tùy nghi xuất quân đánh dẹp, nhưng quan trọng nhất là phải nghiêm túc nuôi dưỡng sĩ khí.” Chiếu chỉ được gửi đến các suý thần các lộ.
(Cuối tháng này, Chương Tiết ở Kinh Nguyên có tâu, có thể tham khảo.)
[13] Ngày Giáp Ngọ, Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Phu Diên tấu: ‘Sau khi xem xét, thấy thành Diên Xuyên, phủ Diên An có địa thế bất tiện, khó phòng thủ, nên theo lệ của các huyện Diên Trường và Lâm Chân, bãi bỏ làm huyện không thể phòng thủ.'” Được chấp thuận.
[14] Đại trung đại phu, Bảo văn các đãi chế trí sĩ Phạm Tử Kỳ qua đời.
[15] Ngày Ất Mùi, Trực bí các Lữ Ôn Khanh được bổ nhiệm làm Hồng lư khanh, Tập hiền điện tu soạn, quyền tri Tần châu Lục Sư Mẫn kiêm Đô đại đề cử Thành Đô phủ, Lợi châu, Thiểm Tây lộ trà sự, kiêm Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ mua ngựa công sự.
(Đã ghi ngày mùng 4 tháng 3, nên giữ lại một bỏ một.)
[16] Lục con trai của Điền Trung Toại, người Nam châu Khê Động là Điền Hồng Cảnh làm Ngân thanh quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Quốc tử tế tửu, kiêm Giám sát ngự sử, sung Nam châu đô tuần kiểm.
[17] Hộ bộ tâu: “Thừa nghị lang, đồng quản câu Thiểm Tây lộ ngân đồng khanh dã chú tiền công sự Hứa Thiên Khải xin theo chỉ dụ ngày 6 tháng 5, thêm vào chức danh các chữ Kinh Tây, Xuyên Lộ.” Được chấp thuận, và cấp riêng tờ hoàng điệp.
(Ngày 15 tháng 12 sửa lại, có thể tham khảo.)
[18] Xu mật viện tâu: “Kỵ binh ở Hi Hà Lan Dân lộ thiếu nhiều ngựa.” Chiếu rằng: “Giao quyền đề cử mua ngựa Lục Sư Mẫn, ngoài số lượng hàng năm, mua thêm 2.000 con[2], cấp cho các quân Hi Hà Lan Dân lộ cùng các tay cung tên người Hán và người Phiên, phải hoàn thành trước mùa phòng thu. Những người tay cung tên tự trang bị ngựa, giao cho Kinh lược ty căn cứ số tiền mua, ấn định thời hạn thu lại nguyên giá, gửi trả lại Ty mua ngựa. Và thường xuyên báo cáo số lượng ngựa đã mua.”
[19] Tường định trùng tu sắc lệnh sở tâu: “Nếu gặp xa giá đi qua mà xông vào cấm vệ, từ vòng ngoài thứ nhất phạt tội đồ một năm, mỗi vòng thêm hai bậc, đến vòng thứ năm thì xử trảm. Nếu đang ở trong cấm vệ mà vượt vào, vòng thứ nhất đánh 100 trượng, mỗi vòng thêm một bậc, vào đến vòng thứ năm phạt tội đồ hai năm, trường hợp nghiêm trọng thì tâu xin xử lý. Những trường hợp nhầm lẫn đều giảm hai bậc, nếu đứng hoặc đi không đúng nghi thức mà không phải vượt vào thì đánh 80 trượng.”
Ngày Bính Thân, chiếu cho Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Thái Kinh, Hàn lâm học sĩ Tưởng Chi Kì, quyền Lại bộ thượng thư Hình Thứ, mỗi người tiến cử hai viên Giám sát ngự sử. (Ngày Giáp Dần tháng 7, Tăng Bố có nói, có thể tham khảo.)
[20] Chiếu cho Giang Ninh phủ, mời đạo sĩ Mao Sơn Lưu Hỗn Khang lên kinh đô trụ trì Thượng Thanh Trữ Tường cung.
(Ngày 1 tháng 9 cấp 100.000 tiền lộ phí, có thể gộp vào đây.)
[21] Ngày Đinh Dậu, ban thưởng bạch lụa cho các quan người Hán và người Phiên ở Hoàn Khánh lộ tu sửa và phòng thủ trại An Cương.
(Có thể tham khảo ngày 1 và 23 tháng 3.)
[22] Triều thỉnh đại phu, Tri Sở Châu Trần Đôn làm Quân khí thiếu giám; Hoàng thành sứ, Hán Châu thứ sử Trương Chỉnh làm Hoàn Khánh lộ kiềm hạt.
[23] Ngày Mậu Tuất, Xu mật viện tâu: “Trong quy định ban thưởng chiêu nạp, nếu có thể bày mưu kế, truyền đạt tin tức, dụ dỗ chiêu dụ được người cường tráng trong giới Tây, cho phép mỗi người được cấp 10 tấm lụa. Vì trong giới Tây cũng có người già, trẻ nhỏ, phụ nữ quy thuận nhà Hán, lo rằng khi chiêu nạp, do không có quy định thưởng riêng, không muốn tiếp nhận đồng loạt, nếu bị hạn chế trở về, sẽ ngăn cản ý định quy thuận nhà Hán.” Chiếu rằng: Người già, trẻ nhỏ, phụ nữ được chiêu dụ, mỗi người cấp 3 tấm lụa, trẻ dưới 10 tuổi cấp 2 tấm.
[24] Hôm đó, ba tỉnh và Xu mật viện cùng trình báo tình hình biên giới. Tăng Bố nói: “Việc xây dựng ở Kinh Nguyên đã có tiến triển, nhưng Hoàn Khánh lại muốn xây dựng Hôi Gia Chuỷ, rồi tiếp tục kinh doanh ở Vi Châu[3], Thanh Viễn quân. Hôi Gia Chuỷ nằm ở cửa hẻm Thanh Cương, vào hẻm đi 40 dặm không có nước suối, mới đến được Thanh Viễn. Vùng đất này từ thời Thái Tông đã kinh doanh, Trịnh Văn Bảo từ Trường An đưa cây cối và chim chóc đến[4] đều không sống được. Nay tuy có thể tiến hành xây dựng, nhưng e rằng không tránh khỏi làm phiền triều đình cung cấp lương thực, khiến Quan Trung khốn đốn.” Hoàng thượng nói: “Như vậy thì dùng làm gì?” Chương Đôn nói: “Tôn Lộ nói có nghìn khoảnh ruộng tốt có thể cày cấy, đủ tự cung cấp.” Lại nói: “Sử sách không thể tin.” Tăng Bố nói: “Sử sách là kết quả đã thử nghiệm, chưa dám tin lời Tôn Lộ. Hãy lệnh cho họ bảo đảm rõ ràng, nếu thực sự có ruộng tốt có thể tự cung cấp, không làm phiền triều đình cung cấp lương thực, thì cho phép thi hành.” Hoàng thượng nói: “Như vậy rất tốt.” Chương Đôn nói: “Mở rộng đất đai không chỉ ở nơi này, cũng nên lấy đó làm răn.” Tăng Bố nói: “Đương nhiên là như vậy.” Lần thứ hai đối đáp, Hoàng thượng nói: “Tôn Lộ không đáng nghe, cũng chưa cần cho thi hành, hãy tạm lệnh họ tấu trình để nghe chỉ dụ.” Tăng Bố và Lâm Hi đều khen ngợi.
(Ngày 27 tháng 7, Mậu Dần, bắt đầu có chiếu, lệnh kiểm tra.)
[25] Ngày Nhâm Dần, Xu mật viện tâu: “Long Mãnh, Long Kị là quân ngạch tạp phạm, chỗ khuyết không tuyển người, chỉ ba năm một lần, trong số quân binh Tráng Dũng Quy Viễn, chọn người đủ tiêu chuẩn để bổ sung. Trước sau nhiều lần khuyết quân số rất nhiều, nay muốn những quân cấm phạm tội đồ, đã xét xử không đáng phối ngũ, đã xử đoán hơn một năm, lệnh cho cơ quan sở thuộc nhân dịp tuyển chọn hàng năm, hỏi nguyện vọng của họ, nếu ai muốn theo tiêu chuẩn để bổ sung vào chỉ huy Long Kị, thì cho kiểm tra rồi phái đến Quân đầu ty; riêng vùng Xuyên, Quảng không áp dụng chế độ này.” Chiếu chuẩn y.
[26] Ngày Giáp Thìn, Vua phê: “Vì trời nóng nực, tất cả những nơi có công dịch trong kinh đều cho nghỉ ba ngày.”
[27] Việc xây dựng xong Thanh Thạch Giáp ở Hi Hà Lan Dân lộ, chiếu ban thưởng tiền cho nhân dịch và quân binh phòng thủ, mỗi người một ít.
[28] Ba tỉnh và Xu mật viện cùng trình tấu: Quân binh tham gia xây dựng Thanh Thạch Giáp ở Hi Hà được cấp đặc biệt, cùng với việc xây dựng Biên Giang Xuyên ở Kinh Nguyên đều được ban thưởng trà và thuốc; riêng Trương Tuân và Chung Truyền không được ban thưởng. Vua hỏi nguyên do, bèn nói: “Thanh Thạch Giáp chỉ nên xây thành lũy từ sáu trăm bước đến bốn trăm bước, nhưng Chung Truyền lại muốn xây thành ngàn bước. Lại khởi công vào giữa mùa hè, không như Kinh Nguyên là bất đắc dĩ mới làm.” Vua nói: “Làm việc này chắc chắn không phải là vô ích.” Tể tướng nói: “Người Quan Thiểm vẫn nói rằng phải xây xong Thạch Môn Tử mới xong việc, nhưng khởi công không đúng thời điểm.” Vua nói: “Cứ ban trà và thuốc cũng không sao, việc này không đáng để bàn cãi.”
Tể tướng lại nói: “Chung Truyền khởi công vào ngày 12, có thư báo cho thần nhưng không tấu lên, đây là điều đáng trách, đã có tờ trình xin hỏi, đợi khi đến sẽ thi hành.” Vua nói: “Ngay cả Tẩu Mã cũng không tấu.” Tể tướng nói: “Chắc chắn là Tẩu Mã không biết, nhưng cũng nên hỏi lại.” Tể tướng lại nói: “Chung Truyền không chỉ làm việc này, còn muốn kinh doanh Hội Châu, nhưng thăm dò thấy đường sông Hoàng Hà nguy hiểm hơn Hạp Giang, lại muốn dùng thuyền bè để vận chuyển vật phẩm của quan.” Vua nói: “Ai bảo Chung Truyền làm thế!” Mọi người không dám trả lời. Vua lại nhìn các phụ thần nói: “Những việc không thể làm thì đừng làm.” Mọi người đều vâng lời. Đến khi đối đáp lại, tể tướng lại nói: “Chương Đôn tuy không đồng ý với việc Chung Truyền chiếm Hội Châu, nhưng lại quyết tâm muốn kinh doanh Trác La Giám Quân Ty để dòm ngó Lương Châu, hai việc này đều không thể làm.” Lâm Hi cũng nói: “Thần mới nhậm chức, đã nghe triều đình muốn dần thu liễm việc biên giới, nhưng bây giờ lại không như vậy, việc kinh doanh vẫn chưa dừng lại.” Tể tướng nói: “Người Tây Hạ mùa thu này chắc chắn sẽ tập hợp quân lớn, nếu khí thế vẫn hung hăng như mùa thu năm ngoái, thì sao có thể không tính đến việc thu liễm?” Vua khen ngợi và tiếp nhận ý kiến, nói: “Việc này không thể xem thường.” (Sự việc ngày 27 tháng Giáp Thìn).
[29] Ngày Ất Tỵ, Tiết độ sứ Hoành Hải quân, Khai phủ Nghi đồng Tam ty[5] Tông Hữu được làm Tiết độ sứ Thanh Hải quân, tiến phong làm Tự Bộc vương.
(Cựu lục vừa ghi việc Tông Hữu được phong Tự Bộc vương ở đây, lại còn ghi vào ngày 17 tháng 8. Tân lục bỏ đoạn này, giữ lại đoạn kia. Xét thấy Tông Sở mất vào ngày mồng 6 tháng này, sau đó 10 ngày Tông Hữu được phong kế tục, có lẽ là hợp lý, còn nếu là ngày 17 tháng 8 thì hơi chậm[6], nay theo Cựu lục, chỉ ghi ở đây.)
[30] Lưu hậu Bảo Ninh quân, Đông Dương quận vương Tông Hán được làm Tiết độ sứ Chiêu Hoá, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, cải phong làm An Khang quận vương.
[31] Quyền Phát khiển Đề cử Thường bình Tần Phượng đẳng lộ Ba Nghi được thiêm sai làm Quyền Phát khiển Phán quan Chuyển vận Thiểm Tây lộ.
(Có thể tra cứu vào ngày 22 tháng 8 năm Nguyên Phù thứ nhất.)
[32] Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Hi Hà Lan Dân lộ tâu: Theo lời của Lý Tát Nhĩ Quân, mẹ của Triệu Thuần Trung, cháu trai Vĩnh Thọ bị bắt sang nước Hạ[7], xin cho em trai của Vĩnh Thọ là Vĩnh Thuận và Vĩnh Cát quản lý bộ tộc. Lại xin cho con trai của Vĩnh Thọ là A Lăng được thừa tập quan tước, còn Vĩnh Phúc và Vĩnh Bảo[8], đợi thêm ba năm, nếu không trở về nhà Hán, xin cho cùng với em trai Vĩnh Thuận và Vĩnh Cát thừa tập.” Chiếu rằng: “A Lăng đặc biệt được phong làm Nội điện Sùng ban, ban tên là Thế Trưởng, sai làm Tuần kiểm bộ tộc, trước cấp lương bổng, đợi đến tuổi mới chính thức quản lý. Còn lại theo lời xin của Lý Tát Nhĩ Quân.”
[33] Ngày Bính Ngọ, chiếu ban tên cho trại mới ở Biên Giang là Trấn Khương trại.
(Ngày mồng 6 tháng 5, bắt đầu xin xây dựng.)
[34] Hộ bộ tâu: “Phàm những nơi lập mỏ, tri châu, giám quan đã có lệnh ban thưởng, còn tiền vốn do chuyển vận ty cung ứng, nay không được dự thưởng, e rằng sẽ bị ngăn trở, lại không có gì để khích lệ, xin giám quan nào đạt hạng nhất được thưởng, thì quan bản ty đều được giảm hai bậc xét duyệt.” Vua nghe theo.
[35] Ngày Đinh Mùi, phong hoàng nữ thứ ba làm Ý Khang Công Chúa.
[36] Ngày Kỷ Dậu, Kinh lược ty Hi Hà Lan Dân lộ tâu: “Quan phiên bản lộ là Đông thượng các môn sứ, Đăng châu phòng ngự sứ, Kiềm hạt bộ phiên châu Dân là Bao Thành, trước đây đi Kinh Nguyên bị tử trận. Ông có mười ba con trai: con trưởng là Như kinh sứ Cáp, làm Tuần kiểm tộc Lỗ Kết, kiêm Tuần kiểm bộ phiên châu Dân; con thứ là Nội điện thừa chế Minh, thuộc tộc Tư Nạp; con thứ là Hữu ban điện trực Hỉ, con thứ là Mãnh, đều thuộc tộc Phiên Thành; con thứ là Tam ban phụng chức, Văn thuộc tộc Trừ Lăng Khuê; tám người còn lại chưa có chức danh.” Chiếu rằng Bao Hải đặc cách thăng một chức, làm Dao quận thứ sử, bổ làm Đồng tuần kiểm bộ phiên châu Dân; Bao Minh và ba người khác mỗi người đặc cách thăng một chức, bổ làm Tuần kiểm bản tộc; riêng Bao Văn có công ở Kinh Nguyên lộ, đợi tâu lên sẽ ban ân riêng; Tư Kết Mộc Tha và tám người khác đặc cách làm Tam ban tá chức, bổ làm Đồng tuần kiểm, trước cấp lương bổng, và ban tên: Tư Kết Mộc Tha tên Trung, Kết Tinh tên Tín, Kết Mặc tên Tài, Gia Mộc Thác tên Lương, Mãng Bố tên Vũ, Tế Thực Mộc tên Dũng, Sách Nặc Mộc tên Cường, Khai Tá tên Nghị. Lại lệnh Kinh lược ty xem xét chia bộ tộc và ngựa của Bao Thành làm năm đầu hạng, giao cho từng người quản lý. Bao Hải được chia riêng một hạng, bốn hạng còn lại chia cho Bao Trung và tám người khác, cùng quản lý dưới quyền Bao Minh. Số lượng người ngựa, và cách chia Bao Trung tám người làm Đồng tuần kiểm dưới quyền bốn người Bao Minh, phải tâu rõ lên.
[37] Phủ Thái Nguyên có động đất kèm tiếng lớn.
[38] Cùng quản câu Thiểm Tây lộ ngân đồng khanh dã đúc tiền Hứa Thiên Khải, xin giảm trong điều khoản đồng thiếc, đồng một trăm cân, tạm giảm xuống còn bảy mươi cân, so với vàng một lạng để tính thưởng. Kim bộ nói, ngày 6 tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 7 đã có chỉ dụ này, muốn theo lời xin của Thiên Khải. Được chấp thuận. (Theo sách pháp, ngày 27 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ 4 có thánh chỉ, nay truy phụ vào ngày tháng này).
[39] Tháng đó, Xu mật viện tâu: “Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tấu: ‘Theo chỉ dụ triều đình: lệnh các lộ tướng thần âm thầm giữ kế hoạch thận trọng yên tĩnh, mà công khai ban hành văn thư chỉ huy, lệnh các tướng chỉnh đốn binh mã, làm thứ tự đại cử, đợi nhận được chỉ dụ triều đình, liền hội hợp tiến quân. Nay đang theo chỉ dụ triều đình thi hành, lo rằng các tướng cho là việc cơ mật, không dám tiết lộ, khiến người Tây Hạ không biết, không chuẩn bị tập hợp, tự chuốc lấy khốn đốn. Nay xét vào trung tuần và hạ tuần tháng 7, 8, từ ty này hai lần cử quan đến các tướng dưới quyền, hoặc hai ba tướng, hoặc từng tướng tập hợp một chỗ để dạy tập, cấp một ít rượu thịt khao thưởng, liền cho nghỉ ngơi. Không chỉ có thể khích lệ sĩ khí, chuẩn bị phòng thủ mùa thu sử dụng, mà còn làm thanh thế công phạt càng thêm lớn mạnh, chắc chắn khiến người Tây Hạ tin tưởng, nhiều mặt phòng bị ta, tự chuốc lấy khốn đốn.'” Thiếp hoàng nói: “Nếu có thể áp dụng, xin ban khắp các lộ thi hành.”
[40] Kinh lược ty lộ Hà Đông tấu: “Bản ty đã gửi điệp cho các kinh lược ty lộ Phu Diên v.v., trong khoảng nửa tháng bảy, binh mã sáu lộ sẽ hội hợp, tiến sâu vào địa giới phía tây, bình định và phá hủy sào huyệt; cùng với việc quan Đô tổng quản ty điều phát binh mã hạ phiên đến giao nộp cho Quân mã ty ngoài sông, chuẩn bị sẵn sàng để sử dụng; đồng thời gửi điệp cho Quân mã ty tính toán chỗ đóng quân và chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ cần thiết, đợi các lộ hội hợp, ước định ngày tháng, giao cho các quan thống chế phân bố các đầu mục, chờ ngày xuất quân, sẽ chọn đường tiến sâu vào địa giới giặc, phá hủy sào huyệt. Lại gửi điệp cho Tri châu Lân Châu là Vương Thuấn Thần v.v. và gửi tráp lệnh cho các tướng, y theo chỉ huy này thi hành, cùng gửi điệp cho Chuyển vận sứ tính toán chuẩn bị lương thực và các nhu yếu phẩm quân sự cần dùng.” Chiếu lệnh cho các kinh lược ty lộ Thiểm Tây, Hà Đông, xem xét kỹ lưỡng việc bố trí của từng lộ, tùy theo tình hình mà thi hành.
(Tiết đã tấu vào ngày 29 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ 4, việc báo xuống chắc chắn là vào thượng tuần tháng 7, nay phụ vào cuối tháng 6.)
[41] Tháng 7, ngày Quý Sửu, Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Dân tấu việc xây dựng xong trại mới. Ban tên là Bình Tây Trại, tức là Thanh Thạch Giáp. Sai bổ nhiệm 4 viên Giám áp, 4 viên Tuần kiểm, và 1 viên Giám đương.
(Ngày 22 tháng 6 ban cấp đặc chi.)
[42] Ba tỉnh và Xu mật viện cùng trình tấu về việc trại Biên Giang đã hoàn thành công trình, lại cùng trình việc Chương Tiết xin cho Lý Trung Kiệt cùng cha con đến bản lộ để chiêu nạp. Trước đây, Vua đã hứa sẽ triệu vào mùa thu, Chương Đôn thúc giục Bố tâu lên, nhưng ý Vua cuối cùng vẫn không đồng ý, nói: “Sợ họ bỏ trốn.” Bố tâu: “Bỏ trốn thì e rằng họ chưa chắc dám, vì ở Hi Hà một lộ có mấy châu, họ đều có nhà cửa, ruộng đất, trâu ngựa, giàu có ít ai sánh kịp, chỉ sợ vì hiệu lệnh thay đổi mà thôi.” Vua nói: “Hiệu lệnh sao có thể như vậy!” Hứa Tướng và Thái Biện đều nói: “Chiêu nạp chưa chắc có hiệu quả.” Vua bèn ra lệnh tạm dừng việc này. Bố cùng Lâm Hi lại vào chầu, Vua lại nhắc đến việc này, tỏ vẻ ngạc nhiên vì nhiều lần tiến cử, nhân đó nói: “Trung Kiệt vì bị nghi ngờ mà phạm tội, lại chưa được dời nhà, muốn tạm cho dời đến Tây Kinh để tiện việc dời nhà.” Vua vui vẻ đồng ý. Hôm sau, ra chiếu cho Lý Trung Kiệt dời đến làm Kiềm hạt ở Dĩnh Xương, Thế Cung dời đến Nhữ Châu, cấp tiền trang bị một trăm ngàn cùng thuyền ngồi, lệnh cho Hi Hà theo pháp luật sắp xếp gia quyến đến nơi nhậm chức.
[43] Chiếu cho phép Lã Đại Phòng, chức Thư châu Đoàn luyện phó sứ, đang bị an trí ở Tuần châu, được về quê chôn cất. Ban đầu, Lã Đại Phòng qua đời ở Kiền châu (ngày 16 tháng 4), Vua nghe tin liền nói: “Lã Đại Phòng sao lại đến Kiền châu?” Khi gia đình ông xin được đưa về quê chôn cất, Vua liền đồng ý. Các quan bàn luận từ đó biết rằng việc trừng phạt nặng nề những người thuộc phe Nguyên Hựu đều không phải là ý của Vua.
(Theo 《Giáp Thân tạp kiến》[9] chép: Khi Phan Đích, chức Triều thỉnh đại phu, làm Thông phán ở Vị châu, Lã Đại Trung, chức Kinh nguyên suý, được triệu về hỏi việc biên cương. Sau khi đối đáp, Vua Triết Tông nói với Lã Đại Trung: “Lâu nay muốn gặp khanh, khanh có nhận được thư của Lã Đại Phòng không?” Lã Đại Trung đáp: “Gần đây có nhận được.” Vua hỏi: “Ông ấy có khỏe không?” Rồi lại nói: “Các đại thần muốn đày ông ấy ra biển, nhưng Trẫm chỉ an trí ông ấy ở An châu, ông ấy có biết không?” Lã Đại Trung đáp: “Cả gia tộc đội ơn bệ hạ.” Vua nói: “Trẫm đã viết thư nhiều lần nhắn ông ấy hãy nghỉ ngơi và nhẫn nại. Lã Đại Phòng thật thà chất phác, bị người ta lừa gạt, đợi hai ba năm nữa, có thể gặp lại.” Lã Đại Trung lạy tạ, lui ra rất vui mừng. Nhân dịp Chương Mục châu mời dùng cơm, hỏi về lời đối đáp với Vua, Lã Đại Trung kể hết. Khi đến Vị châu, Lã Đại Trung kể lại với Phan Đích, Phan Đích nói: “Ông đã nói sai rồi, chắc sẽ hối hận lắm!” Nửa tháng sau, có người dâng tấu nói về việc cùng tội mà hình phạt khác nhau, nên Lã Đại Phòng bị đày đến Tuần châu. Sau khi ông qua đời, Vua còn hỏi các quan chấp chính: “Lã Đại Phòng vì sao lại đến Kiền châu?” Sau này Lã Đại Trung xin đưa về quê chôn cất, chỉ có ông được Vua cho phép, điều này cho thấy Vua Triết Tông rất sâu sắc. Than ôi! Cái độ lượng của bậc đế vương, kẻ tầm thường sao hiểu nổi. Phan Đích khi qua Cao Bưu, đã kể với tôi như vậy. Nay lấy đây làm căn cứ để thêm vào. Những chuyện khác đã ghi kèm vào ngày 12 tháng 7 năm thứ 3 khi Lã Đại Trung được thăng chức, và ngày 28 tháng 2 năm thứ 4 khi Lã Đại Phòng bị đày đến Tuần châu.)
[44] Ngày Giáp Dần, Lý Nam Công, chức Bảo Văn các Trực học sĩ, xin cho phép bổ nhiệm những người được tiến cử vào các chức Lục sự tham quân ở hơn 90 nơi phức tạp và khó khăn như Giang Ninh phủ. Vua đồng ý.
[45] Ngự phê: Xét rằng các sứ thần vào trong cung, từ trước đến nay vì cầu xin được làm chi hậu ở các điện các trong cung, chỉ là mong mạo nhận theo thời, không phải là ân điển thông thường và ân trạch của bản gia được ban lại cho thân thuộc; lại có những người làm quan chưa được bao lâu, đã được chuyển sang giữ các chức vụ cao cấp, rõ ràng là thuộc loại may mắn. Có thể theo các điều sau: Những sứ thần vào trong cung được sai làm chi hậu ở các điện các, phải đến chức vụ thực sự đủ ba năm, mới được phép đem ân trạch của thân thuộc và ân điển thông thường ban lại, và đều phải cách một kỳ khảo xét; những người được đặc chỉ cải chuyển không theo quy định này. Từ ngày mùng một tháng giêng năm nay trở đi bắt đầu thực hiện.
(Ngự tập ngày mồng ba tháng bảy ban xuống, sách Tằng Hi lục chép là hết ngày tháng sáu, nay theo Ngự tập.)
[46] Tăng Bố, Lâm Hi cùng trình lên ngự phê, nhân đó nói: “Bệ hạ thanh lý cung cấm như vậy, thật đáng gọi là quyết đoán anh minh.”
Vua nói: “Từ chức Hoàng môn trở xuống, lý lẽ phải trải qua ba mươi năm khảo xét, nhưng chỉ cần tìm cách vào điện các hầu hạ là có thể chuyển ngạch, thật quá may mắn.” Tăng Bố nói: “Không chỉ vậy, như Hoàng thái hậu mỗi năm được ban ân trạch cho tám người, nhưng người ngoại gia được hưởng thì rất ít.”
Vua nói: “Thái hậu gần đây không như vậy.” Tăng Bố lại nói: “Bệ hạ trong cung cấm đã kiềm chế sự may mắn, ngoài triều đình càng nên lưu ý, việc thăng giáng của sĩ phu quan trọng không nhẹ. Gần đây nghe nói có chiếu cử Ngự sử, mà Thái Kinh cũng được tính vào. Ngoài triều bàn tán rằng Biện đang ở triều đình, sao Thái Kinh có thể nhiều lần được cử làm quan ngôn sự[10]?”
Vua nói: “Khi triệu đối sẽ bãi bỏ.” Tăng Bố nói: “Dù vậy, mong khi bãi bỏ, xin bệ hạ lưu ý xem xét kỹ. Lại nghe Lâm Hi nói, có người muốn cử Lâm Tự, người này vốn bệ hạ đã biết, sao có thể ở ngôi vị ngôn sự?”
Vua nói: “Trẫm không nghe.” Lâm Hi nói: “Nghe nói đang tìm cách thôi.” Lâm Hi lại nói: “Gần đây Chu Trật từ Hoài Nam chuyển đến Kinh Tây, mọi người lo sợ ông ta đi qua kinh đô rồi ở lại.”
Vua nói: “Không có ý đó.” Tăng Bố nói: “Mọi người chỉ lo như vậy thôi. Người này khinh bạc, cũng sợ không thể ở địa vị quan trọng.”
Vua nói: “Chu Trật từng nói về Trịnh Ung.” Vua trước đây không cho rằng Chu Trật bàn về Trịnh Ung là đúng, nay dường như đồng ý. Tăng Bố nói: “Thần nhiều lần nói rằng các chức Đài gián, Cấp, Xá đều là chức vụ mắt tai, nay dùng những người như Kiển Tự Thần để đảm nhiệm, thì lời hay lẽ phải làm sao đến được tai bệ hạ? Đó không phải là cách để mở rộng sự sáng suốt.” Lâm Hi vội nói: “Thần chỉ xin bệ hạ, đừng dùng người mà chấp chính ưa thích làm quan ngôn sự, hãy công khai chọn người chính trực, không phải kẻ a dua chấp chính, thì mới có ích.” Tăng Bố nói: “Thần nhiều lần từng trình bày luận điểm này, cho rằng quan ngôn sự không thể chỉ dùng người mà chấp chính ưa thích, mong bệ hạ lưu ý.”
‘Chấp chính ưa thích’, Tăng Bố ám chỉ Kiển Tự Thần.
(Chu Trật từ chức Vận phó Hoài Nam chuyển đến Kinh Tây vào ngày 16 tháng 6, nay phụ lục ở đây.)
[47] Ngày Đinh Tỵ, Thôi Công Độ, người mới được bổ nhiệm làm Tri châu Thông Châu, chức Triều phụng đại phu, Trực Long đồ các, được phụ trách quản lý Sùng Hi Quán, theo lời thỉnh cầu của ông. Sau đó, ông xin nghỉ hưu và qua đời.
(Thôi Công Độ qua đời vào ngày 10 tháng 8. Sách cũ chép: Thôi Công Độ xuất thân từ dân thường, khi qua đời không có gì đáng kể, trong niên hiệu Nguyên Hựu không tránh khỏi việc phụ họa. Sách mới đã bỏ đi phần này.)
[48] Du Sư Hùng, chức Triều phụng lang, Trực Long đồ các, quyền Tri châu Thiểm Châu, qua đời.
[49] Ngày Mậu Ngọ, ban chiếu cho Khang Vị, Tri châu Thông Viễn Quân, đến khu vực từ giới hạn trại Bình Tây đến Thanh Thạch Giáp để đo đạc đất đai có thể canh tác, tổng cộng bao nhiêu khoảnh mẫu, có thể chiêu mộ được bao nhiêu người làm dân cung tiễn thủ, lập sổ sách quản lý, đồng thời tiến hành chiêu mộ dân cung tiễn thủ đến ở và canh tác, sau đó báo cáo trình tự thực hiện.
(Ngày 22 tháng 6 cần xem xét lại.)
[50] Ngày Canh Thân, Thị ngự sử Trần Thứ Thăng tâu: “Nghe đồn rằng Chung Truyền đã ra lệnh cho các lộ Thiểm Tây, Kinh Nguyên, bắt quân lính xay gạo quân lương thành gạo trắng, và cấp cho các quân một loại đậu nhỏ, nhưng lại giảm số lượng. Xét thấy Chung Truyền làm việc tùy tiện, không tuân theo quy định.” Thượng thư tỉnh xem xét và thấy rằng đã có chỉ đạo trước đó, gửi cho Ty chuyển vận Thiểm Tây, xay gạo thành gạo sạch, không được giảm số lượng cấp phát, nếu để dùng làm lương thực mang theo khi xuất quân, sẽ rất thuận tiện. Ban chiếu cho Ty chuyển vận Thiểm Tây: số gạo đã xay xong, khi quân xuất quân, phải cân nhắc và cấp phát theo số lượng đã quy định.
[51] Chiếu cho Ngô Chấp Trung, Hàn Túy Ngạn, Bào Triều Tân, Vương Dịch, Trương Phùng, Hà Chấp Trung, Tạ Văn Quán, Thạch Tự Khánh, Tăng Hiếu Uẩn, đều được lệnh qua cửa Cáp dẫn lên điện yết kiến.
(Ngự tập ngày 9 tháng 7. Cần tra cứu nguyên do triệu kiến chín người này. Ngô Chấp Trung ngày 4 tháng 8, từ chức Triều tán lang, Khán tường lợi hại văn tự ở sở Tường định sắc lệnh, được bổ làm Đề cử Hà Bắc Tây lộ Thường bình; Hàn Túy Ngạn ngày 27 tháng 7, từ chức Vệ úy tự Thừa, được bổ làm Đề cử Kinh Đông Đông lộ Thường bình, ngày 24 tháng 8, từ chức Thừa nghị lang, được bổ làm Tư huân Viên ngoại lang; Bào Triều Tân ngày 4 tháng 8, từ chức Thông trực lang, Quyền Tri Vĩnh Châu, được bổ làm Đề cử Lưỡng Chiết, ngày 28 tháng 8, đổi làm Đề cử Hoài Nam Đông lộ; Vương Dịch, Trương Phùng, Hà Chấp Trung ngày 5 tháng 12, từ chức Thái học Bác sĩ, được bổ làm Ký thất Tham quân ở các phủ Vương; Thạch Tự Khánh ngày 21 tháng 8, từ chức Triều tán lang, được bổ làm Đề cử Kinh Đông Tây lộ. Ngày Ất Mão tháng 9, sách 《Bố Lục》 chép rằng Kinh Biện dẫn Gia Bân, Thạch Tự Khánh; Tăng Hiếu Uẩn ngày 28 tháng 8, từ chức Chuẩn bị Sai khiển ở ty Phát vận, được bổ làm Đề cử Lưỡng Chiết.)
[52] Ngày Tân Dậu, Vua phê: “Dọc hai bờ sông Biện, ngoài việc theo quy định để lại một trượng năm thước ở mặt đê, tất cả đất đai đều giao cho sở Kinh thành. Cơ sở nhà cửa, theo quy định cũ mà sửa chữa; lại lệnh cho Đô đại cùng các viên chức, phố đầu, binh lính ở địa phận cùng nhau trông coi, đồng thời thuộc quản lý của sở vừa phân cắt.”
(Ngự tập ngày 14.)
[53] Ngày Quý Hợi, Thái trung đại phu, Bảo văn các Đãi chế, Tri Hàng Châu Hàn Tông Đạo mất.
[54] Ngày Giáp Tí, trong cung xảy ra hỏa hoạn (theo sách 《Ngự Tập》). Điện trung thị ngự sử Trần Thứ Thăng tâu: “Thần nghe rằng đêm ngày 13 tháng này, trong cung xảy ra hỏa hoạn. Thần nghĩ rằng tai dị xảy ra ắt có nguyên nhân. Từ xưa các bậc thánh đế minh vương, dù đức hạnh rất thịnh, thế nước rất yên, vẫn luôn lo sợ tu tỉnh, kính cẩn tuân theo lời trời răn. Vì vậy từ thời tổ tông đến nay, đức thánh đã rất thịnh, phép trị nước đã rất đầy đủ, nhưng mỗi khi gặp biến cố, vẫn thường lo lắng không kịp, trong thì cẩn thận xét lại mình, ngoài thì hạ chiếu cầu lời nói thẳng. Thần mong bệ hạ noi theo đó mà làm, trên đáp lại thiên biến, dưới thấu hiểu dân tình. Nếu lời ngu muội của thần có chút gì đúng, may ra có thể bổ ích phần nào cho thánh chính, thật là may mắn vô cùng.”
[55] Trung thư xá nhân Kiển Tự Thần tâu: “Lại bộ gửi đến từ đầu về việc bổ nhiệm Thái Triệu làm Thái thường bác sĩ. Xét Thái Triệu vốn theo học Vương An Thạch, đến thời Nguyên Hựu, bọn gian thần nắm quyền, những gì An Thạch bàn luận và xây dựng đều bị chê bai phá hủy. Thái Triệu lúc ấy không giữ được tiết tháo, bèn a dua theo Tô Thức, Tô Triệt, quên mất học vấn cũ. Tô Thức, Tô Triệt vui mừng vì hắn bội phản thầy cũ theo mình, bèn đề bạt vào Hoàng bản thư cục, từ đó bị dư luận chê bai. Đầu niên hiệu Thiệu Thánh, cùng với Thư Hoán, Lý Cách Phi đều được bổ nhiệm làm quan ngoài, sau đó lại chỉ dùng Thái Triệu làm Chính tự, rồi vì bị người ta bàn tán nên bãi chức. Nay lại bổ nhiệm, thứ bậc lại cao hơn Chính tự, không nên trước sau khác nhau như vậy. Huống chi Thái thường là cơ quan phụ trách lễ nhạc, Bác sĩ tham gia bàn luận, từ đó có thể tiến lên địa vị cao, nên chọn người có đạo đức thuần nhất, giữ vững chính nghĩa để xứng với chức vụ.” Thái Triệu được bổ làm Tự thừa.
[56] Lễ bộ tâu: “Từ nay về sau, khi có chức tăng quan khuyết, đề thi sẽ gồm 7 đạo đại nghị và 3 đạo mặc nghĩa, chọn người văn lý xuất sắc.” Được chấp thuận.
[57] Ngày Ất Sửu, xuống chiếu cho Hàn Gia Ngạn, người bị giáng làm Tả vệ tướng quân, Phụ mã đô úy, sau khi tham triều xong thì về phủ chủ. Theo lời thỉnh cầu của Gia Ngạn.
[58] Ngày Mậu Thìn, quyền Lại bộ Thượng thư Hình Thứ kiêm Thị độc, quyền Hình bộ Thị lang Lý Tông được bổ nhiệm làm Bảo văn các Đãi chế, Tri Hàng Châu, Thí Đại Lý khanh Chu Chi Đạo được bổ nhiệm làm quyền Hình bộ Thị lang, Bí thư Thiếu giám An Đôn được bổ nhiệm làm quyền Lại bộ Thị lang, Trứ tác Tá lang, Quốc sử viện Biên tu quan Chu Chúng được sung chức Sùng Chính điện Thuyết thư.
[59] Điện trung Thị ngự sử Trần Thứ Thăng tâu: “Chu Chúng tham ô hèn hạ, hành vi rõ ràng, gian nịnh nguy hiểm, thanh nghị không chấp nhận. Từ năm ngoái liên tục được thăng chức, không hợp với công luận, thần đã từng tấu trình, bệ hạ giao cho hữu ty xét thực, đều đúng như lời thần, đặc biệt được tha tội. Hơn nữa, thần từng làm Lang quan Hình bộ, thấy rằng theo lệ xử án của Hình bộ, người nhận gửi tài vật mà tiêu dùng bừa bãi, phạm tội đánh trượng, gặp ân xá đặc biệt thì bị cách chức. Chu Chúng tự ý sử dụng tiền cung cấp của Trương Thụ, cùng em là Trật làm giấy tờ, lấy danh nghĩa gửi trả, chi trả cho thuyền chài, lại bảo thủ phân thu giấy tờ, ba năm không báo cáo, đến khi Thụ kiện tụng sự việc mới bị phát giác, mới gửi trả về Lễ Châu. Hành vi như vậy, không khác gì trộm cắp, xét tình hình thì nặng hơn, há chỉ so với người nhận gửi tài vật mà tiêu dùng bừa bãi sao? Giả sử xử nhẹ, chỉ xét tội nhận gửi tài vật mà tiêu dùng bừa bãi, vẫn có tội đồ, so với tiền lệ, cách chức là đáng, triều đình đặc biệt tha bổng. Thần năm ngoái nhiều lần dâng tấu, sợ làm phiền thiên thính, không dám lặp lại. Huống chi hôm nay tiến giảng kinh diên, ở bên cạnh bệ hạ, nên chọn người chính trực, để bệ hạ ngày ngày nghe lời chính, thấy việc chính, mà kẻ tham lam gian nịnh, há có thể đảm nhận chức vụ này? Xin bệ hạ quyết đoán, thu hồi mệnh lệnh, để hợp với công luận[11].” Không nghe. Thứ Thăng lại tâu lần nữa, Chu Chúng cuối cùng bị bãi chức Thuyết thư.
[60] Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Gần đây căn cứ các nơi thám báo, giặc Tây đang tập hợp quân mã, muốn xâm phạm các nơi như Bạch Ba Lưu thuộc lộ này. Nên theo chỉ dụ trước đây của triều đình, xuất quân kìm chế và nhân cơ hội tiến hành xây dựng. Nay đã xác định được địa điểm Khai Quang Bảo, nằm ngay trên đường tiến quân của giặc Tây, phía dưới là sông Vô Định, cách thành Tuy Đức và trại Khắc Nhung khoảng hơn ba mươi dặm. Phía đông có thể chiếu ứng các nơi như Thiên Sơn, phía tây có thể khống chế vùng Nguyên Bình, Quyền Bả Lĩnh. Đồng thời, tại địa danh Hạnh Tử Hà Đông Sơn thuộc đối cảnh có thể xây dựng một thành, ba mặt đều có khe lớn, bốn mặt có sông lớn, phía dưới có chân đá nối liền hai trại Trại Môn và Thuận Ninh, phía tây tiếp giáp với thành Uy Nhung tại địa danh La Cừ Cốc Lĩnh, trên đó có thể xây dựng một đại trại phòng thủ. Đã cử quan viên khảo sát, xin cho bản ty tùy nghi chọn lợi thế để xây dựng.” Triều đình đồng ý.
(Ngày Nhâm Thân tháng 9, có thể tra cứu.)
[61] Ngự phê: Nhập nội áp ban Phùng Thế Ninh, Lam Tòng Hi, đêm ngày 13 tháng này, có công cứu hỏa trong cung, cùng các quan thân tòng trong bộ thống lĩnh, ra vào cấm cung không có sơ suất, đặc cách cho mỗi người thăng một bậc trên ngạch sứ. Phùng Thế Ninh được bổ làm Tuyên Chính sứ, Lam Tòng Hi được bổ làm Tuyên Khánh sứ. (Việc ngày 17 tháng 7 trong 《Ngự Tập》.) Thế Ninh, Tòng Hi từ chối, ban chiếu khen ngợi, và mỗi người được ban 500 lạng bạc và 500 tấm lụa.
(Việc ngày 21 tháng 7 trong 《Ngự Tập》, nay ghi chung.)
[62] Lại phê: Các sứ thần trong cung đều được ban ơn theo lệ này, những người đáng được thăng chức thì không bị gián đoạn xét duyệt. Lưu Hữu Đoan, Tô Khuê, Hoàng Kinh Thần, Lý Côi, Dương Nhật Ngôn, Vương Thông, Giả Tường, Lương Sướng, Doãn Cầu, Nhậm Củng {ngôn}, Hoàng Nhữ Hiền, Lương Đạo Uyên, Dương Địch, Vương Quỳ, Hà Cảnh, Vương Tồn, Lưu Vĩnh Đạt, Khang Bật, Ngô Tường, mỗi người được thăng một bậc. Trong đó, Lưu Hữu Đoan được giảm thêm ba năm xét duyệt, Hoàng Kinh Thần, Vương Quỳ, Hà Cảnh mỗi người được giảm thêm hai năm xét duyệt. Lý Dực được giảm ba năm xét duyệt; Chu Hữu Chi, Lương Chiêu Khánh, Giang Hữu Độ, Lý Thạch, Lưu Quỳ được đặc cách giảm năm năm xét duyệt; Trương Thích, Từ Ngạn, Lý Mẫn mỗi người được giảm bảy năm xét duyệt, theo quy định giảm trừ số năm tháng; Cao Chấn, Hoàng Chu, Hoàng Thức được giảm năm năm xét duyệt, theo quy định giảm trừ số năm tháng; Chi hậu điện đầu Dương Cảnh, Chi hậu nội phẩm Đàm Chẩn mỗi người được giảm hai năm xét duyệt; Từ Ngạn được giảm năm năm xét duyệt. Những người còn lại theo chỉ dụ đã ban.
(Ngự tập ngày 21 tháng 7 ban hành.)
[63] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu bãi bỏ việc xây dựng đàn Bắc Giao, đợi khi bãi bỏ lễ hợp tế ở Viên Khâu rồi mới thi hành. Trước đó, có chỉ dụ sai người thân cận đốc thúc tu sửa cung duy Bắc Giao, hạn chế hoàn thành trước tháng 8. Tam tỉnh bèn hạ lệnh cho Hộ bộ chuẩn bị đàn Bắc Giao, sai quan đến các lộ thu gom tiền bạc và chế tạo lễ phục cùng các vật phẩm nghi lễ rất gấp. Đột nhiên ban chiếu này, Hứa Tướng nói với Tăng Bố: “Đây là do trước đó không bẩm báo trước.”
(Cuối tháng 12, Sái Đạo nói vậy.)
[64] Ngày Canh Ngọ, Thái sử tấu: Sao Hỏa vào chòm Dư Quỷ, chủ về kẻ gian nằm bên cạnh Vua, nên đề phòng. Vua sai trung nhân triệu Thái sử đến hỏi, Thái sử đáp: “Những kẻ gièm pha, đều là kẻ gian, chỉ có thân cận người chính trực tu đức mới là cách phòng bị.”
(Theo 《Tăng Bố nhật lục》. 《Thiên văn chí》 chép: Ngày Đinh Mão tháng 7, sao Huỳnh Hoặc phạm vào sao Tây Bắc chòm Quỷ, chủ về người chấp pháp lo lắng; ngày Canh Ngọ, vào chòm Dư Quỷ; ngày Bính Ngọ, phạm vào khí Tích Thi, chủ về tướng thần lo lắng. Khác với 《Tăng Bố nhật lục》, cần xem xét lại.)
[65] Quang lộc khanh Trình Tự Cung được bổ nhiệm làm Trực bí các, tri châu Dương Châu.
[66] Ngày Nhâm Thân, Quyền Binh bộ Thị lang Hoàng Thường được thử chức Binh bộ Thị lang, Hồng lư Khanh Lữ Ôn Khanh được bổ làm Trực Bí các, Quyền Phát khiển Giang Hoài đẳng lộ Phát vận sứ.
[67] Tần Phượng lộ Đề hình Trần Đôn Phu tâu: “Việc bắt trộm cướp để ban thưởng, các quan cố ý gây khó khăn, xin tăng trách nhiệm. Đại Lý tự đã quy định rằng nếu có việc báo cáo bắt được cướp mạnh để ban thưởng, thăng chức, mà các quan vô cớ gây khó khăn, thì phạt trượng một trăm.” Được chấp thuận.
[68] Chiếu rằng: “Các quan lớn nhận phát nội giáng và nhập tiến, cùng những văn thư đã được chỉ dụ ghi chép ở Tam tỉnh, nếu chuyển phát riêng hoặc đem cho người khác xem, thì phạt tù một năm, đày đi 500 dặm; nếu tham nhũng nặng thì xử theo tội không uổng pháp, cho phép người khác tố cáo bắt, thưởng 30 quan tiền.” (Tân lục không ghi.) Trước đó, Xu mật viện tâu việc, Vua nói: “Trung thư ghi chép văn thư màu vàng, các quan lớn đem cho người khác xem, có quy định phòng ngừa không?” Tăng Bố và Lâm Hi đáp: “Những người này thường lấy việc thăng chức, bổ nhiệm, sai phái để báo tin cho người khác nhằm cầu lợi. Văn thư qua lại giữa hai phủ cũng thường được niêm phong kín, nhưng e rằng không tránh khỏi việc mở riêng để cho người khác xem, nên xem xét lại, nếu chưa có quy định hình phạt, thì nên lập pháp.” Vua nói: “Nên nghiêm khắc quy định.” Tăng Bố và Lâm Hi lui ra, báo cho Tam tỉnh, rồi lập ra pháp này.
[69] Ngày Ất Hợi, Vua ngự đến Thượng Thanh Trữ Tường cung.
[70] Ngày Đinh Sửu, có lời ngự phê: “Trong cung xảy ra hỏa hoạn, các quan Câu đương Nội đông môn ty có lỗi không đề cử, nên xử lý như sau: Câu đương Nội đông môn ty Lưu Hữu Ích giáng một chức, phạt thêm 30 cân đồng; các sứ thần Hội Thông môn là Phùng Vũ, Sử Thế Khang, Dung Bành Niên, mỗi người phạt 30 cân đồng.”
(Ngự tập ngày 26 tháng 7.)
[71] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng: “Tôn Lộ tâu xin xây dựng trại Hôi Gia Chuỷ, nên cho Lộ trước tiên kiểm tra, nếu thực sự có nghìn khoảnh ruộng tốt, lợi ích lâu dài đủ chi phí phòng thủ, không làm phiền triều đình cung cấp lương thực, thì theo lời tâu mà thi hành.”
(Ngày 16 tháng 6 Mậu Tuất, Hoàn Khánh mới tâu lên.)
[72] Lại xuống chiếu cho Chung Truyền xem xét kế hoạch phòng thủ và tấn công vùng Trác La, Cai Châu.
(Xem 《Bố Lục》 ngày Giáp Thìn 22 tháng 6, ngày Nhâm Thân 22 tháng 9 để tra cứu.)
[73] Hoàng thành sứ, Thành Châu đoàn luyện sứ Vương Thù được bổ làm Đông thượng các môn sứ, sau đó bãi chức Câu đương Hoàng thành ty, sai kiêm chức Đề cử Trung Thái Nhất cung và Tập Hi quan sự. (Việc Thái Nhất và Tập Hi vào ngày mồng 8 tháng 8, nay ghi chung ở đây, hoặc có thể bỏ cả hai.) Vệ úy tự thừa Hàn Túy Ngạn được bổ làm Đề cử Kinh Đông Đông lộ thường bình, sau đó đổi làm Tư huân viên ngoại lang.
(Việc Tư huân viên ngoại lang vào ngày 24 tháng 8.)
- Thanh tự làm Giả Châu Tử, các bản 'Giả' viết là 'Mãi'. ↵
- Sách 《Tống hội yếu》 binh 22-13 chép '2.000' là '3.000', và dưới chữ 'thiên' có thêm chữ 'thất'. ↵
- Vi Châu nguyên bản là 'Vĩ Châu', theo 《Tây Hạ thư sự》 quyển 30, bản sách quyển 317, 320, 351, 490 và 《Tống sử》 quyển 348, truyện Chung Truyền đều ghi là 'Vi Châu'; 《Nhất thống chí》 quyển 204, phủ Ninh Hạ, trấn Vi Châu viết: 'Ở phía đông nam Linh Châu 220 dặm, tức là Vi Châu cũ.' Ghi là Vi Châu là đúng, nay căn cứ sửa lại. ↵
- Trịnh Văn Bảo từ Trường An đưa cây cối và chim chóc đến, chữ 'đưa' nguyên bản là 'đến', căn cứ bản các sách sửa lại. ↵
- 'Phủ' nguyên là 'Phong', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- 'Đã' trong các bản ghi là 'tự'. ↵
- Trong 'Tống hội yếu' phần Phiên di 6-31, chữ 'Thọ' có thêm chữ 'Đẳng'. ↵
- Nguyên bản ghi 'ba người', theo 'Tống hội yếu' và số liệu thực tế trong câu này sửa lại là 'hai người'. ↵
- 《Giáp Thân tạp kiến》 trong 《Tống sử》 quyển 206, phần Nghệ văn chí và 《Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu》 quyển 140 đều ghi là 《Giáp Thân tạp ký》. Dưới đây cũng vậy. ↵
- 'Cử' nguyên bản là 'dữ', theo bản khác sửa lại ↵
- 'Hợp' nguyên là 'sung', theo bản khác sửa ↵