VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 490: NĂM THIỆU THÁNH THỨ 4 (ĐINH SỬU, 1097)
Từ tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ 4 đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 8, ngày Nhâm Ngọ (mùng 1), Hoàng đế ngự tại điện Văn Đức, thiết triều.
[2] Tri Phu Châu, Sùng Nghi sứ, Thứ sử Thành Châu Vương Thuấn Thần được quyền phái khiển làm Kinh lược sứ lộ Hi Hà Lan Dân.
(Cần xem lại ngày 27 tháng 2 năm Nguyên Phù thứ 1. Chữ “Phu” nên là “Lân”, có thể xem lại cuối tháng 6.)
[3] Ngày Quý Mùi (mùng 2), hạ phẩm chức Tả Vệ tướng quân, Phò mã đô úy Hàn Gia Ngạn xuống làm Thứ sử Văn Châu, vẫn giữ chức Phò mã đô úy.
[4] Ban chiếu cho Tri Thành Đức quân Ngô An Trì được khôi phục hai chức quan. An Trì tự tâu rằng trong niên hiệu Hi Ninh, khi giữ chức Đề cử Thị dịch, đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thuế, được ban thưởng thăng chức, nhưng đến niên hiệu Nguyên Hựu lại bị cho là bóc lột nên bị tước hai chức, nay xin khôi phục.
[5] Ban chiếu cho Tuần kiểm Vương Phổ của ty Giới hà Cao Dương quan, Từ Xương Minh của trường thuế, Tuần kiểm Dương Chửng của trạm Đao Ngư Bá Châu, Tuần kiểm Cổ Nham của trại Hoàng Kim Lưu Gia Oa, Tri Bá Châu Lý Chiêu Củng, Thông phán Thị Kì Tông, Quyền thông phán Khấu Nghị đều bị thay thế ngay, và phải đến Doanh Châu để trình bày văn bản giải trình. Do người Liêu vào trường thuế Bá Châu, giết hại binh sĩ và phá hủy cầu cống, Chiêu Củng và những người khác bị xử tội vì không xử lý kịp thời, còn Phổ và những người khác không kịp cứu viện.
[6] Trước đó, Cao Dương tâu rằng: Cầu ngoài cửa Bắc ở Bá Châu, từ năm Nguyên Hựu thứ ba được tu sửa thêm[1], sau đó bị nước làm hư hỏng, Ty An phủ vùng biên lệnh cho tu sửa lại. Khi thi công, phía Bắc giới nhiều lần đem quân đến, liền lệnh phải ứng đáp ôn hòa, tăng cường phòng bị. Tháng 6, ngày Giáp Thìn, phía Bắc giới bất ngờ đem hơn nghìn người và thuyền, đêm bao vây trường thuế, hô lớn phá cầu, dùng thang leo lên thành bắn làm bị thương 46 lính canh, trong đó một người chết; trời chưa sáng liền bỏ chạy. Chiếu cho Hùng Châu chưa được gửi công văn, và lệnh Cao Dương chỉ huy tăng cường phòng bị. Lúc đó là tháng 7, ngày Quý Sửu. Sau đó, Tông tâu rằng, Chiêu Củng tỏ ra quá sợ hãi, và Tuần kiểm Giới Hà nhận công văn không báo cáo, lại đi tuần tra ở Hùng Châu. Chiếu cho Cao Dương xem xét những người có tội để xử lý. Do đó, Tông và Chiêu Củng đều bị trách phạt trước, Tông cũng lấy cớ đi tuần tra để tránh giặc.
[7] Ban đầu, Chương Đôn và Tăng Bố đều nói, địch nghe tin Tây Khương mất đất, rất lo lắng. Tin tức thám báo nhiều lần nói rằng cầu viện địch, và địch cũng tự nghi ngờ, nói rằng có hành động thu phục Yên U, do đó muốn gây sự, nhưng chỉ cần không tranh chấp sâu, thì tự nhiên sẽ không có chuyện gì. Sau đó nghe tin địch gửi công văn nói: Cầu thuộc Bắc giới, nên do Bắc giới tu sửa. Bèn chiếu cho quan lại biên giới, nếu người Bắc đến tu sửa cầu, không được tranh chấp, đợi họ đi rồi mới phá hủy. Lúc đó, Lộ Xương Hoành từ Cao Dương trở về, vào triều tâu, cũng nói rằng cầu tu sửa cao hơn trước, khiến địch nghi ngờ. Lại nói Bá Châu nhiều lần có tin tức thám báo, nhưng không có biện pháp xử lý. Tông, Chiêu Củng đã bị trách phạt, sau đó Hùng Châu tâu rằng, địch triệu Giám quân Ngưu Lan và Phó sứ An phủ đến trướng, mỗi người bị đánh ba trăm roi cát, Giám quân bị cách chức, vì tội tự ý phá cầu và giết hại lính canh Nam giới.
(Thực lục không ghi chép việc phá cầu ở Bá Châu, nay theo《Nhật lục》của Tăng Bố ngày Nhâm Tuất, Ất Sửu, Đinh Mão tháng 7 và ngày Ất Mùi tháng 8 để thêm vào. Việc trách phạt Chiêu Củng lại, vào tháng 6 năm sau, ngày Tân Mão.)
[8] Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Thái Kinh tâu rằng:
[9] Văn Đức điện thiết triều chuyển đối, thần kính nghe xưa kia Vua Nghiêu, Vua Thuấn lấy đạo trị thiên hạ, dùng chính sự để cai trị. Đạo ấy bắt đầu từ việc thông suốt bốn phương, sáng tỏ bốn hướng, rồi đến việc đề cao đức hạnh, trừ bỏ kẻ gian; chính sự bắt đầu từ việc thân thiết với chín tộc, bình trị trăm họ, rồi đến việc hòa hợp muôn nước. Bởi nghe muốn thông suốt nên phải thấu hiểu, nhìn muốn rộng rãi nên phải sáng tỏ. Chỉ vì thông suốt nên không gì không thấu, lời tà thuyết không thể lưu hành; chỉ vì sáng tỏ nên không gì không thấy, hành vi gian tà không thể dung thứ. Hành vi gian tà không dung thứ thì đức hạnh được đề cao, đạo quân tử được phát triển; lời tà thuyết không lưu hành thì kẻ gian bị trừ bỏ, đạo tiểu nhân bị tiêu tan. Vì thế, sự trị vì của họ khiến dân chúng thay đổi theo thời mà hòa thuận; sự hòa hợp của họ khiến trăm loài thú vật đều nhảy múa. Thần từng cho rằng đạo ấy rất dễ hiểu, chính sự ấy rất dễ thực hiện, nhưng các Vua chúa đương thời lại cho là cao siêu không thể với tới, chỉ vì chưa biết phương pháp mà thôi[2].
Bởi Vua đứng một mình trên vạn vật, dùng quyền uy để khích lệ muôn loài, sai khiến vạn vật, là vì có quyền sinh, quyền sát, quyền ban, quyền đoạt. Vua nắm quyền sinh sát ban đoạt, dùng đạo để xét việc thiên hạ, lấy nhân nghĩa để xem xét, dùng uy quyền để giúp đỡ. Kẻ nào coi thường mệnh lệnh, xâm phạm chính sự ắt bị trừng trị; kẻ nào cản trở công lao, hại người tài năng ắt bị đày ải; kẻ nào lật lọng, gian tà ắt bị đuổi đi; kẻ nào gièm pha, làm điều ác ắt bị trừng phạt. Như vậy, lớn nhỏ, trong ngoài, ai dám làm trái? Ai dám chống đối? Bốn phương sẽ chờ đợi ý chỉ mà đáp ứng, không cần vất vả mà thành công. Đó là lý do Cao Dao, Hậu Tắc, Khế phải kêu gọi, Hoan Đâu, Cổn phải bị đày ải. Phương pháp ấy rất đơn giản và dễ hiểu, không phải là hành vi cao siêu khó thực hiện.
[10] Thần trộm thấy Bệ hạ kính trời yêu dân, có tư chất như Vua Nghiêu, Vua Thuấn; trầm tĩnh sâu sắc, có độ lượng như Vua Nghiêu, Vua Thuấn; bao dung rộng lớn, xem xét rộng rãi, lắng nghe mọi phía, có sự thông minh như Vua Nghiêu, Vua Thuấn. Thân chính bốn năm, quyết chí một lòng, không gì lay chuyển, có thể gọi là bậc thánh vậy. Nắm quyền sinh sát, ban cho hay đoạt lấy, ngồi yên mà trị nước Trung Quốc vạn dặm thái bình vô sự, một nụ cười, một tiếng ho cũng đủ làm lay động bốn phương, thế lực chưa từng có lợi như lúc này. Thế mà bọn gian đảng bị đuổi rồi lại có kẻ được dung túng, tà thuyết bị xét rồi mà chưa dứt, phải trái phân biệt rồi mà chưa thống nhất, yêu ghét xét kỹ rồi mà chưa tuyên bố, thần ngu muội trộm nghĩ Bệ hạ nhún nhường khiêm tốn, chưa đem đạo thuật của Vua Nghiêu, Vua Thuấn ra thi thố với thiên hạ vậy. Quyền sinh sát, ban cho hay đoạt lấy, chỉ có Vua mới nắm giữ, không phải bề tôi có thể cùng chia sẻ, sách truyện nói “Chỉ có danh và khí, không thể cho người khác mượn” là vậy. Bệ hạ thực sự chú ý đến điều này, khuyến khích cấm đoán từ trên, làm oai phúc dưới, khiến người hiền ở ngôi mà kẻ không hiền không thể xen vào, người tài giữ chức mà kẻ bất tài không thể cướp đoạt. Lấy sự thánh minh của Bệ hạ, Vua Nghiêu, Vua Thuấn cũng không đủ sánh vậy. Như thế thì hào kiệt bốn phương đều dấy lên đáp ứng yêu cầu của Bệ hạ, dù thần rất ngu muội cũng mong được nói hết lời. Điều thần trước đây gọi là chính sự của Vua Nghiêu, Vua Thuấn, sách 《Thượng Thư》 khen Vua Nghiêu rằng: “Sáng tỏ đức cao, thân yêu chín họ, chín họ đã hòa thuận, bình định trăm họ, trăm họ sáng tỏ, hòa hợp muôn nước, dân đen thay đổi theo thời mà yên ổn.” Tức là trị nhà trước rồi mới trị triều đình, trị triều đình rồi mới trị muôn dân, đó là thứ tự của việc chính trị vậy.
[11] Thần thấy ngày nay việc đôn đốc tông tộc hòa mục, chế độ từ thời Hi Ninh được định ra, đến thời Nguyên Hựu bị cắt giảm, dần mất đi ý nghĩa ban đầu. Vì vậy, những người thân cận thì giàu sang tột bậc, kiêu xa dâm dật, làm đủ mọi việc; còn những người xa cách thì trở thành dân thường, bị xếp vào hạng cùng đinh, chịu cảnh đói rét. Huống chi, thiên hạ giàu có, dù họ hàng xa xôi cũng đều là anh em, chú bác, mà có người lại phải sống chung với dân thường, như vậy không phải là cách để hòa mục cửu tộc.
Trải qua trăm năm thái bình, sĩ tử sinh ra trong thời này rất nhiều, ba năm một lần thi cử, ước tính có đến hàng vạn người, đây là thời đại Văn Vương có nhiều hiền tài để giữ yên, cũng là kết quả của trăm năm dưỡng dục. Nhưng chức vụ thì ít mà người thì nhiều, thường phải ba đến năm năm mới được thăng một chức, sĩ tử đều sống tạm bợ; lại không có tài sản cố định, nên không có chí hướng kiên định, đành chìm đắm trong cảnh nghèo hèn, không giữ được tiết tháo và khí tiết. Phong khí tranh giành lan rộng, đạo liêm sỉ suy đồi, nhân tài vì thế mà thiếu hụt, chính sự vì thế mà lỏng lẻo, như vậy không phải là cách để làm sáng tỏ bách tính.
Người ta biết điều gì đáng trọng thì sĩ tử không phải là ít; sĩ tử không bị bỏ rơi thì nông dân không phải là không siêng năng; đồ dùng không phải là không tinh xảo thì thợ thuyền không phải là không khéo léo. Bốn nghề của dân chúng, ba nghề đã đầy đủ, chỉ có thương nghiệp không thông suốt, nên thiên hạ rộng lớn, trăm năm trôi qua, dân chúng vẫn chưa giàu có hơn, phong tục vẫn chưa thuần hậu hơn. Kinh sư là gốc của chư hạ, chư hạ là ngọn của kinh sư, chợ búa ngày càng tiêu điều, dân nghèo ngày càng khốn khổ. Thương nhân và nông dân nương tựa vào nhau để sinh sống, thương nghiệp không thông suốt thì hàng hóa không bán được, hàng hóa không bán được thì giá rẻ, giá rẻ thì nông dân bị thiệt hại. Nông nghiệp và thương nghiệp không thể hỗ trợ lẫn nhau để nuôi dưỡng dân chúng khắp bốn biển trong thời bình, nên không tránh khỏi cảnh lưu lạc khi gặp thiên tai hạn hán, như vậy không phải là cách để hòa hợp vạn bang.
Đạo của Nghiêu, Thuấn, thực hiện ba điều này thì dân chúng sẽ thay đổi theo thời mà hòa thuận, nay ba điều này đều chưa đạt được đạo lý, đây chính là lý do thiên hạ chưa đạt đến sự thịnh trị như thời Nghiêu, Thuấn vậy! Thần ngu muội từng thở dài cảm thán, với sự thánh minh của bệ hạ, nắm giữ lợi thế của thiên hạ, mà muốn đạt đến sự thịnh trị như thời Nghiêu, Thuấn, há có gì khó khăn? Chỉ cần nắm vững quyền bính, dùng người hiền tài, thì thực hiện ba điều này trong thiên hạ, dễ như trở bàn tay. Lấy ân nghĩa để chế định thì cửu tộc có thể hòa mục, dùng chức quan để bổ nhiệm hiền tài thì bách tính có thể sáng tỏ, lấy lợi ích để phát triển thương nghiệp thì vạn bang có thể hòa hợp. Nhưng thực hiện phải có phương pháp, hành động phải có căn cứ, chi tiết có thể trình bày rõ ràng. Nếu bệ hạ may mắn nghe theo, thần ngu muội sẽ tiếp tục dâng lên điều trần, trước tiên xin trình bày đại lược, mong đáp ứng minh chiếu, xin bệ hạ lưu tâm xem xét. Sau đó, Thái Kinh vào chầu ở điện Thùy Củng, Vua nói: “Mạnh Tử nói không trình bày đạo lý nào ngoài đạo của Nghiêu, Thuấn, khanh đúng là như vậy. Trẫm sao dám mong bằng Nghiêu, Thuấn?” Thái Kinh đáp: “Thuấn là người thế nào? Người có chí cũng có thể như vậy. Cao Tông ba năm không nói, bệ hạ chín năm không nói, vượt xa Cao Tông, đây chính là sự thánh minh của Nghiêu, Thuấn. Bệ hạ chí hướng theo Nghiêu, Thuấn, thì đạt đến Nghiêu, Thuấn không khó.” Vua hỏi: “Hòa mục cửu tộc là việc gì?” Thái Kinh đáp: “Thân thuộc của bệ hạ, ân huệ không đến nơi, đến nỗi chịu đói rét. Trước đây, Hộ bộ xét việc phạm luật rượu, có hai người phải đi lính, há phải là đạo hòa mục tộc?” Vua động lòng nói: “Đợi truyền dụ Chương Đôn, bảo hắn thi hành hết.” Thái Kinh lạy tạ nói: “Đôn với thần bất đồng, ắt không thể thi hành.”
(Trần Quán đàn hặc Thái Kinh chương thứ tư nói: Chương Đôn ban đầu tin tưởng Kinh, Biện, ba người bàn luận như một. Từ tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ hai, Biện làm chấp chính, từ đó Kinh có ý bất mãn mà xa cách Đôn. Tháng 2 nhuận năm thứ tư, Lâm Hi làm chấp chính, từ đó Kinh bắt đầu oán hận lớn, mà đoạn tuyệt với Đôn. Lời Kinh nói “Đôn với thần bất đồng”, ắt là do đó. Xét Lâm Hi làm chấp chính vào tháng 2 nhuận năm thứ tư, Quán nói tháng 3, Biện làm chấp chính vào tháng 10 năm thứ hai, Quán nói tháng 9, là sai. Tân lục biện rằng: Sớ của Thái Kinh dâng lên, lời lẽ nông cạn không đáng kể. Đến khi ông ta phụ trách biên soạn thực lục, lại tự chép lời khen của Vua rằng: “Mạnh Tử nói không trình bày đạo lý nào ngoài đạo của Nghiêu, Thuấn, khanh đúng là như vậy.” Há chẳng làm tổn hại đến sự sáng suốt biết người của Triết Tông sao! Nay chọn lấy những điều bàn về tông thất, ngoài ra đều xóa bỏ, sửa lại rằng: “Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Thái Kinh tâu: ‘Đế Nghiêu trị nước, bắt đầu từ việc hòa mục tộc. Thần thấy ngày nay chế độ đôn mục tông thất, từ thời Hi Ninh được định ra, đến thời Nguyên Hựu bị cắt giảm, dần mất đi ý nghĩa ban đầu. Vì vậy, những người thân cận thì giàu sang tột bậc, có nỗi lo kiêu xa dâm dật; những người xa cách thì bị xếp vào hạng dân thường, chịu cảnh đói rét. Xin lấy ân nghĩa để chế định, thì cửu tộc có thể hòa mục.’ Sau đó, Kinh vào chầu, Vua hỏi về việc hòa mục tộc, Kinh nói: ‘Thân thuộc của bệ hạ, ân huệ không đến nơi, đến nỗi chịu đói rét. Trước đây, Hộ bộ xét việc phạm luật rượu, có hai người phải đi lính, há phải là đạo hòa mục tộc?’ Vua động lòng nói: ‘Đợi truyền dụ Chương Đôn, bảo hắn thi hành.’ Kinh lạy tạ nói: ‘Đôn với thần bất đồng, ắt không thể thi hành.'” Nay vẫn giữ nguyên bản cũ.)
[12] Hàn Lâm học sĩ kiêm Thị độc Tưởng Chi Kỳ tâu: “Khi đến lượt chuyển đối, thần xin trình bày về tệ nạn của chế độ quan chức đã tồn tại lâu nay. Danh vị và thứ bậc lộn xộn, vị trí đảo ngược. Thời Hán, Hà Vũ từng xin lập Tam công nhưng không thể định đoạt; thời Chu, Lô Biện[3] từng soạn thảo Lục quan nhưng không thể duy trì lâu dài. Tiên đế vào niên hiệu Nguyên Phong, quyết tâm thay đổi, dùng cấp bậc để quy định bổng lộc, tuy dùng văn bản cũ nhưng thêm vào ý mới, có thể nói là hoàn hảo. Tuy nhiên, vẫn còn điều chưa ổn, đó là việc gọi là ‘thí’. ‘Thí’ có nghĩa là chưa phải chính thức. Nay những người làm Thượng thư, Thị lang đều là chính thức, nhưng lại gọi là ‘thí’, điều này là sai lầm. Nguyên nhân ban đầu gọi là ‘thí’ là vì cấp bậc thấp, nếu vì cấp bậc thấp thì gọi là ‘thủ’ cũng được. Thần căn cứ theo lệnh Trinh Quán, người có chức vụ cao thì gọi là ‘thủ’, người có chức vụ thấp thì gọi là ‘hành’. Theo chế độ cũ, cấp bậc cao hơn chức vụ thì gọi là ‘hành’, cấp bậc thấp hơn chức vụ thì gọi là ‘thủ’, cấp bậc và chức vụ ngang nhau thì không gọi là ‘hành’ hay ‘thủ’, ba điều này đủ để bao quát, không cần gọi là ‘thí’ cũng rõ ràng.
Làm sao biết cấp bậc thấp hơn chức vụ có thể gọi là ‘thủ’? ‘Thủ’ không phải là chính thức. Thần căn cứ chú giải trong 《Lý Cố truyện》: ‘Theo lệ cũ thời Hán, trước hết làm ‘thủ’ một năm, sau đó mới chính thức.’ Lại có chú giải trong 《Mã Viện truyện》: ‘Người làm ‘thủ’, một năm sau mới chính thức, hưởng toàn bộ bổng lộc.’ Vì vậy, Tiết Tuyên nhậm chức ‘thủ’ Tả Phùng Dực, đủ năm xứng chức thì chính thức; Trương Xưởng làm ‘thủ’ Thái Nguyên, đủ năm thì chính thức; Vương Tôn làm ‘thủ’ Kinh Triệu Doãn, sau đó chính thức. Lại có chú giải về Doãn Công làm ‘thủ’ lệnh Mậu Lăng: ‘Làm ‘thủ’ lệnh Mậu Lăng, chưa chính thức.’ Căn cứ vào đây, thì cấp bậc thấp hơn chức vụ gọi là ‘thủ’ là đủ, không cần gọi là ‘thí’. Ví như Chính Nghị đại phu ngang với Thị lang Lục tào, Quang Lộc đại phu ngang với Tả Hữu thừa, Thông Nghị đại phu ngang với Cấp sự trung, nay Thị lang Lục tào từ Chính Nghị đại phu bổ nhiệm, thì quan chức và cấp bậc ngang nhau, không gọi là ‘thủ’ hay ‘hành’; từ Quang Lộc đại phu trở lên bổ nhiệm, thì cấp bậc cao hơn chức vụ, gọi là ‘hành’ cũng được; từ Thông Nghị đại phu trở xuống bổ nhiệm, thì cấp bậc thấp hơn chức vụ, gọi là ‘thủ’ cũng được, cần gì phải gọi là ‘thí’! Ba loại này đều là chế độ cổ xưa[4].
Nay Trung đại phu làm Thượng thư Thị lang thì gọi là ‘thí’, làm Tả Hữu thừa thì gọi là ‘thủ’, mà theo chế độ mới, Tả Hữu thừa là phụ thần, đứng trên Thượng thư, lẽ nào Trung đại phu có thể làm ‘thủ’ Tả Hữu thừa mà không thể làm ‘thủ’ Thượng thư Thị lang? Đây có thể nói là đảo ngược. Thần xin tham khảo điển cố, đặc biệt sửa đổi, phàm là chính thức, đều đổi ‘thí’ thành ‘thủ’, để hợp với danh nghĩa, tạo nên thịnh điển một thời. Có người bàn rằng nếu đổi ‘thí’ thành ‘thủ’, thì chênh lệch bổng lộc thế nào? Thần đáp: ‘Định chênh lệch bổng lộc, để ‘thủ’ như ‘thí’, không có gì không thể.’ Thần nghe nói bậc minh thánh tô điểm sự nghiệp tổ tiên, truyền lại mãi mãi. Tiên đế khảo cứu phục hồi quan danh, quy mô rộng lớn, thì việc tu sửa và tô điểm, chính là ở Bệ hạ, xin lưu tâm quyết định!”
[13] Kinh lược ty Hà Đông tâu: “Ngày 15 tháng 2 nhuận, giặc Tây 6 vạn người xâm phạm các đồn Thần Đường, tướng thứ ba là Nội điện thừa chế Lý Ẩn đã dùng ít đánh nhiều, tướng thứ nhất là Cung uyển sứ Cổ Nham xông pha tên đạn, khiến giặc Tây hoảng loạn, đầu đuôi không cứu ứng được, chém được 7 thủ lĩnh cấp cao, vì thế khí thế giặc suy sụp, khóc lóc bỏ chạy. Quân ta thừa thắng tu bổ Gia Lô[5], tiến đánh khắp nơi, không đâu không thắng lợi, xin ban thưởng đặc biệt.” Chiếu rằng Lý Ẩn chém được ba cấp trở lên, theo quy định được giảm hai năm khảo khóa, đặc cách thăng hai bậc; Cổ Nham đặc cách thăng một bậc, lại giảm ba năm khảo khóa; các tướng sĩ còn lại tùy theo thứ bậc mà ban ơn.
[14] Ngày Ất Dậu, Hồ Châu quan sát sứ Thế Khai được làm Phụng Quốc lưu hậu, phong làm An Định quận vương. Tư nông thiếu khanh, Triều tán đại phu Đỗ Thân làm Tri châu Thương Châu. Thừa nghị lang, Chủ bạ Ngự sử đài Tạ Văn Quán làm Chính tự.
[15] Ngày Bính Tuất, Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu rằng, sai tướng quan Vương Mẫn đánh phá thành Hựu Châu, đốt cháy vô số trại lều của các bộ tộc, chém giết hơn năm trăm người, thu được hàng vạn trâu dê. Chiếu ban thưởng đặc biệt cho quân sĩ xuất trận tùy theo mức độ.
(Sách 《Huệ Khanh gia truyền》 chép: Tháng 7, sai Phó Tổng quản Vương Mẫn thống lĩnh các tướng tiến vào địa giới, ngày 29 đến Hựu Châu. Tổng Đô thống quân của ba châu Hồng, Hựu, Vi là Hạ Lãng La dẫn quân ra nghênh chiến. Vương Mẫn đánh bại chúng, truy kích hơn 20 dặm, chém hơn năm trăm thủ cấp. Tiến vào Hựu Châu, đốt cháy hơn 50 gian nhà cửa, kho tàng, nhà tù, dân cư, cùng các sổ sách, văn án của ngụy hành cung và quân ty, đào phá kho tàng, phá hủy mùa màng, san bằng trại lều không kể xiết. Vương Mẫn đóng quân ở Xước Hà, Hạ Lãng La dẫn quân đến tập kích, còn thủ lĩnh Di Bốc Xước và Lăng Cát Ngoa Ngộ dẫn vài nghìn kỵ binh ra, một nửa tiến vào Kê Xuyên, định chặn đánh quân quan. Vương Mẫn dẫn các tướng đánh úp, lại đánh bại chúng, chém hơn hai trăm thủ cấp. Chuyển hướng đánh về phía nam hơn 70 dặm, đóng quân ở Tần Vương Tỉnh. Giặc lại đến đánh, Vương Mẫn sai dùng thần tí cung bắn lui chúng, toàn quân chỉnh đốn đội ngũ rút về, giặc đứng trên cao không dám đuổi theo, thu được hơn 50 bộ khí giới, hơn mười lăm nghìn con trâu dê. Tháng 8, lại sai Binh mã đô giám Lưu An đánh Hạ Châu, đến Lãng Sấm Sa gặp giặc, đánh bại chúng, chém hơn năm trăm thủ cấp. Việc này xem ngày 25 tháng 8.)
[16] Ngày Đinh Hợi, Triều thỉnh đại phu Thiệu Tài được bổ làm Viên ngoại lang Hình bộ. (Cuối tháng 9, Lý Thâm có nói đến việc này.) Triều thỉnh lang Hoàng Mẫn Dụng được cử làm Đồng quản câu Thành Đô phủ, Lợi Châu, Thiểm Tây đẳng lộ trà sự, kiêm Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ mua ngựa công sự.
[17] Ngày Kỷ Sửu, chiếu khôi phục lại cách bắn thần tí cung. Trước đây bắn xa 120 bước, thời Nguyên Hựu giảm xuống 80 bước, nay khôi phục như cũ.
[18] Ngự phê: “Các quan lại Đại Lý tự xét xử binh sĩ Hùng Vũ của Tu Nội ty là Khâu An phạm tội trộm cắp trong cung, bản tự không tâu xin xử lý, chỉ dựa vào điều luật trộm cắp trong kinh thành để xử đoán xong. Việc phạm tội của người này nặng nhẹ khác thường pháp, không chỉ xử phạt không thích đáng, mà còn không có tác dụng răn đe. Ngoài việc xử lý riêng, quan bản tự là Lý Hiếu Bác bị phạt 20 cân đồng, Chu Mục, Tưởng Chi Mĩ, Đỗ Tông Đán, Đằng Hữu mỗi người bị phạt 30 cân đồng, các lại thuộc ty pháp tham gia xử án đều bị đưa đến Khai Phong phủ, mỗi người đánh 20 trượng vào mông rồi tha.”
[19] Ngày Tân Mão, Hộ bộ tâu: “Theo chỉ dụ trước đây, đồng Quản câu Thiểm Tây lộ về việc khai thác mỏ bạc, đồng và đúc tiền là Hứa Thiên Khải, nếu có mỏ đồng phát hiện ở Kinh Tây, Xuyên lộ, cho phép đến kiểm tra. Chỉ vì Kinh Tây và Xuyên lộ tiếp giáp với Thiểm Tây, nên bản ty cử quan đến tận giới hạn Lộ Châu để kiểm tra. Nhưng những nơi không tiếp giáp với Thiểm Tây, lại gần biên giới, e gây phiền phức, xin ban hành rõ ràng, các châu quân không tiếp giáp với Thiểm Tây, không được phép đến.” Được chấp thuận.
(Ngày 10 tháng 8 năm thứ 4 có thánh chỉ, ngày 23 tháng 11 năm thứ 2 cho phép kiểm tra.)
[20] Ngày Nhâm Thìn, Kinh Nguyên lộ Kinh lược An phủ sứ Chương Tiết tâu: “Thần thấy cố Phạm Dục khi làm Kinh lược sứ Hi Hà, trong thời kỳ Nguyên Hựu bỏ đất vẽ biên giới, một mình chống lại ý chỉ triều đình, nhiều lần trình bày lợi hại; lại từng dâng sách lược tiến cử xây dựng, lập luận kiên định, không ai bác bỏ được, đặc biệt được tặng chức Bảo Văn các Trực học sĩ. Kính nghĩ Thần Tông hoàng đế vì Phạm Tường xây dựng Cổ Vị trại mà chết, tặng chức Bí thư giám, lại bổ nhiệm một cháu trai. Tường và Dục là cha con, đều nhờ xây dựng thành công mà được ban thưởng khác nhau, mong xét lại bổ nhiệm thêm một con hoặc cháu của Dục.” Chiếu ban cho Phạm Dục đặc biệt được bổ nhiệm một con hoặc cháu làm Giao Xã Trai lang.
[21] Trước đây, con rể của Thái Thạc là Văn Khang Thế từng nói với Thạc rằng Lưu Đường Lão bảo Văn Cập Phủ rằng: “Thời cuộc đang biến đổi, những người ở trên sẽ bị tru di, những kẻ khác đang nắm quyền chấp chính sẽ bị chém đầu, còn các quan theo hầu sẽ bị đày xuống Lĩnh Nam.” Lại nói: “Lã Đại Phòng đã chết, Lưu Chí và Lương Đào đều già yếu, Tô Triệt, Phạm Tổ Vũ, Lưu An Thế, Hàn Xuyên sẽ trở lại nắm quyền chấp chính.” Vì trong chiếu thư ngày 18 tháng 5 có câu “may mắn thời cuộc đang biến đổi”, nên Đường Lão mới nói như vậy. Thạc nghe lời Khang Thế, liền bảo Khang Thế ghi chép lại, đặc biệt trình lên Thái Kinh, Kinh đem tâu lên Vua. Lại có người tố cáo Đường Lão cùng Cập Phủ âm mưu làm phản, muốn giết Chương Đôn, Thái Biện, lại bí mật liên kết với những người bị giáng chức thời Nguyên Hựu ở Lĩnh Nam. Việc này liên quan đến Tri Hà Nam phủ Lý Thanh Thần, Kinh Tây chuyển vận phán quan Chu Thuần. (Theo 《Vương Củng Giáp Thân tạp kiến》 sửa chép, phụ vào sau lời của Kinh.) Vua nghi ngờ việc này, hỏi Tam tỉnh nên xử lý thế nào? Lúc đó, Hoài Nam chuyển vận phó sứ Chu Trật được điều về Kinh Tây nhưng chưa đến nơi. (Trật từ Hoài Nam đổi về Kinh Tây vào ngày 16 tháng 6.) Trật từng công kích Văn Ngạn Bác, không thuộc đảng Nguyên Hựu, Tam tỉnh bèn xin giao cho Trật điều tra, nếu có chứng cứ thì giao cho ngục lại. (Việc Chu Trật điều tra, theo 《Tăng Bố nhật lục》 là ngày 13 tháng 8 Giáp Ngọ, nay phụ vào ngày này.) Sau đó có chiếu lệnh Trật đi ngựa trạm về kinh, vào chầu rồi nhận chức. (Trật về kinh, theo lục của Bố là ngày 13 tháng 8, cùng ngày với việc điều tra.)
Mấy ngày sau, Đồng tri Xu mật viện Lâm Hi vào chầu, Vua nhắc đến việc của Đường Lão, bảo Hi rằng: “Khanh vì soạn chế thư, cũng nằm trong số người bị giết.” Hi nói: “Thần cùng Tăng Bố chỉ nghe lỏm mà thôi, chưa từng dám hỏi Tam tỉnh.” (Lục của Bố ngày 23 tháng 8.) Hi lui ra, nói lại với Bố. Một hôm Bố gặp Hình Thứ, Thứ nói: “Việc điều tra Đường Lão sao không dừng lại?” Bố nói: “Đây là lời của bậc trưởng giả. Đường Lão tuy có lời phỉ báng, nhưng không nhằm vào bề trên, chỉ chê trách đại thần mà thôi! Nên khoan dung.” Thứ nói: “Nô tỳ bị chủ đánh đập, cũng tất oán hận, người oán hận, há chỉ có Đường Lão? Đường Lão có lời ấy, sao đủ để xét nét!” Bố nói: “Việc đã thế, chỉ mong nhỏ nhẹ thì may lắm rồi.” (Theo lục của Bố ngày 11 tháng 10 Tân Mão.) Thứ rất tán đồng. Lúc đó Chương Đôn đang muốn tiến cử Thứ làm Trung thừa, để đả kích những người bị giáng chức thời Nguyên Hựu, nhưng Thứ lại nói với Bố như vậy, cuối cùng Đường Lão được xử nhẹ.
(1) Lời nói của Thứ và Bố vào ngày Tân Mão 11 tháng 10, việc làm Trung thừa vào ngày Nhâm Dần 21 tháng 10, việc Đường Lão bị cách chức và giám đương vào ngày Đinh Dậu 17 tháng 12. Sách 《Vương Củng Giáp Thân tạp kiến》 chép: Chu Trật (tự Trọng Thực), vào tháng 9 năm Đại Quan nguyên niên, được bổ làm Thái thú Cát Châu, khi đi qua Cao Bưu, kể rằng vào niên hiệu Thiệu Thánh, có người Lạc cáo buộc rằng Văn Cập Phủ, Lưu Đường Lão cùng Lý Bang Trực (tức Lý Thanh Thần) mưu phản, định giết Chương Tử Hậu (tức Chương Đôn), Thái Nguyên Độ (tức Thái Độ) cùng những người khác, từ cấp Lưỡng chế, Thị tòng đều bị liên lụy. Triều đình triệu Trọng Thực làm Kinh Tây chuyển vận sứ để điều tra, vì ông từng công kích Văn Lộ công (tức Văn Ngạn Bác). Triều chỉ lệnh trước hết phải điều tra thăm dò, nếu có chứng cứ thì xử lý. Lại cho rằng Vận phán Chu Thuần biết tình hình mà không báo cáo, nói rằng sẽ dùng những người bị giáng chức ở Lĩnh Nam từ thời Nguyên Hựu để cùng nhau hành động[6].
Triết Tông triệu Trọng Thực vào hỏi, nói: “Nếu muốn giết hết tộc các đại thần trở xuống, thì sẽ đặt Trẫm vào đâu?” Lại triệu Lữ Thăng Khanh đến cửa thành nghe chỉ dụ[7], nếu có chứng cứ thật thì sẽ sai người đến Lĩnh Nam giết những người đó[8]. Trọng Thực đến Tây Kinh, bắt Văn, Lưu giam riêng ở Vận ty, lại mời Trình Công Tôn làm Quản câu Sát phỏng bên ngoài[9]. Sau một thời gian không có chứng cứ, nhưng lời nói về việc giết đại thần thì có, Văn Cập Phủ ba lần xin tự xử[10].
Không lâu sau, Lý Bang Trực bị cách chức Lưu thủ, đi làm Tri phủ Thành Đô, và Triều đình bí mật dụ Trọng Thực, nếu có chứng cứ thì lập tức bắt giữ. Sau một thời gian, Công Tôn bỗng nhận được tin mật từ hai người họ Trương rằng: “Kế hoạch ban đầu là chờ ý Vua thay đổi, tất sẽ dùng lại người Nguyên Hựu.” Từ đó mới có việc định giết hết tộc. Trọng Thực lập tức tâu lên, và nói rằng không liên quan đến hoàng đế. Chỉ vài ngày sau, có chỉ dụ cho Văn, Lưu được tự do[11], mỗi người trở về bộ cũ[12], và không điều tra thêm nữa.
Sự sáng suốt và nhân từ của Triết Tông, người đời nay không ai biết, vì nguyên chỉ và công án cực kỳ bí mật cùng với nguyên trạng[13], đều không lưu tại các cơ quan, ngay cả triều đình cũng không ai biết, công án được cất giữ tại nhà, cuối cùng sẽ dâng lên, xin được ghi vào thực lục. Công Tôn là người thích dò xét việc người. Chu Trật vào ngày 24 tháng giêng năm thứ 4, trước từ Chiết Hiến được bổ làm Kinh Tây chuyển vận sứ, ngày 17 tháng 2 nhuận đổi làm Hoài Nam, ngày 16 tháng 6 lại từ Hoài Nam đổi về Kinh Tây. Lữ Thăng Khanh vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 4, từ Kinh Đông chuyển vận phó đổi làm Hà Bắc, ngày 17 tháng 2 năm Nguyên Phù nguyên niên cùng Đổng Tất đi Sát phỏng Quảng Nam, ngày 4 tháng 3 bãi chức Sát phỏng. Đổng Tất vào ngày 29 tháng 11 năm thứ 4, trước từ Hồ Nam đề cử đi Quảng Tây thể lượng Tô Thức. Chu Thuần vào tháng 11 năm thứ 3, từ Giang Tây đề cử làm Kinh Tây vận phán, đến tháng 5 năm Nguyên Phù thứ 2 vẫn tại chức. Lý Thanh Thần vào ngày 25 tháng giêng năm thứ 4, từ Trung thị ra làm Tri phủ Hà Nam, ngày 3 tháng 12 năm thứ 4 đổi làm Thành Đô, ngày 9 tháng giêng năm sau lại làm Tri phủ Hà Nam.
Sách 《Lưu Xí biện báng lục》 chép: Lưu Đường Lão kể vào ngày 7 tháng 3 năm Tĩnh Quốc nguyên niên, Xí đến nhà Đường Lão gặp ông, kể rằng vào tháng 6 năm Đinh Sửu, Văn Khang Thế cáo với cha vợ là Thái Thạc, nói rằng Cập Phủ cùng Đường Lão bí mật bàn bạc thời sự, nói rằng không lâu nữa tất có biến, Đôn tất bị diệt tộc, các chấp chính khác tất bị đày; lại nói Khang Thế gặp Lưu Đường Lão, thân nói với Thạc để Khang Thế viết thành văn bản, mang đến gặp Thái Biện, từ đó có chỉ dụ giao cho Giám ty Chu Trật điều tra. Việc này chưa xong, đến giữa tháng 9 lại xảy ra vụ Đồng Văn, bèn bắt Cập Phủ giam vào ngục Đồng Văn, sau đó mới khởi phát vụ Lạc ngục. Xí gặp Tăng Hữu Tương, nói rằng trước vì việc Lưu Đường Lão, sau mới có việc Văn Cập Phủ, phù hợp với chuyện này. Nhưng không hỏi được vụ Lạc ngục sau đó kết thúc thế nào, tất có người biết, nên hỏi thêm.)
[22] Điện trung thị ngự sử Trần Thứ Thăng tâu: “Thần trộm nghĩ, nơi xa giá đến, các cơ quan cung cấp đồ dùng cần phải đầy đủ và chắc chắn. Nghe nói Ty Tịch Điền tu sửa điện Tư Văn chưa được mấy tháng mà mái hiên trước đã bị sập. Dù bệ hạ có đức lớn, trời đất phù hộ, khi ngự giá đi qua chắc không lo lắng, nhưng nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra thì sẽ ra sao? Các quan coi việc xây dựng nếu không bị trách phạt rõ ràng, e rằng khi xây cung Bắc Giao cũng sẽ lơ là, cẩu thả. Xin đặc biệt trừng phạt để răn đe.” Chiếu cho một viên lang quan Lễ bộ cùng một viên sứ thần Nội thị tỉnh đến kiểm tra, tâu rõ sự thật.
[23] Ngày Ất Mùi, Phụng nghị lang, Hiệu thư lang Thương ỷ được quyền thông phán Bảo Châu, theo lời xin của ông.
[24] Ngày Bính Thân, xuống chiếu ngừng cấp lịch cho nước Hạ.
(Ngày Tân Dậu tháng 10 năm thứ 3, xem 《Bố Lục》 để tra cứu.)
[25] Triều phụng đại phu Hứa Giới Khanh làm Viên ngoại lang Hình bộ. Hữu triều nghị đại phu, Tri châu Thường Châu Lữ Công Nhã làm Thiếu phủ thiếu giám.
(Ngày 5 tháng 10, vừa được bổ làm Đề tiền lại đổi làm Tri châu Tề Châu, xem lời Trần Thứ Thăng; lại xem ngày 15 tháng 9, Chu Ngạn Truyền được bổ làm Đề tiền, lời Thái Đạo để tra cứu.)
[26] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu truy tặng Thái sư Thái Xác bị giáng chức oan mà chết, em ông bị tước danh hiệu và cách chức; lại cho Tiền triều phụng lang Thạc được đặc cách phục chức Nội điện sùng ban.
[27] Thừa phụng lang, Thiếu phủ giám chủ bạ Thái Vị tâu: “Chú thần là Thạc, trước đây ở nhà Hình Thứ thấy thư của Văn Cập Phủ gửi cho Thứ vào năm Nguyên Hựu, trong đó nói rõ âm mưu đại nghịch bất đạo của bọn gian thần. Cập Phủ là con yêu của Văn Ngạn Bác, ắt biết rõ tình trạng bọn gian thần lúc đó.” Chiếu cho Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Thái Kinh cùng Quyền Lại bộ thị lang An Đôn đến Đồng Văn quán tra hỏi.
[28] Ban đầu, Văn Cập Phủ viết thư cho Hình Thứ, tự nhận rằng: “Sau khi mãn tang, sẽ xin ra ngoài làm quan, việc vào triều chưa chắc đã thành, nghe nói đã bị đặt bẫy để chặn đường.” Lại nói: “Tâm ý của Tư Mã Chiêu, ai cũng biết, lại thêm có phấn côn (anh em phấn), bè phái chồng chất, muốn lấy thân này làm nơi thỏa mãn ý đồ.” Cập Phủ từng nói với Thái Thạc rằng: “Tư Mã Chiêu chỉ Lưu Chí, phấn côn chỉ Hàn Trung Ngạn, còn diệu cung là tự chỉ mình.” Bởi tục gọi Phò mã đô úy là phấn hầu, người ta vì Vương Sư Ước nên gọi cha ông là Khắc Thần là phấn đa, Trung Ngạn là anh của Gia Ngạn. Cập Phủ được bổ làm Đô ty, bị Lưu Chí bàn tới. Lại có việc Chí từng bàn rằng Văn Ngạn Bác không thể làm Trưởng quan Tam tỉnh, nên chỉ làm Bình chương sự. Khi Ngạn Bác về hưu, Cập Phủ từ chức Quyền Thị lang, lấy chức Tu soạn giữ quận, mãn tang mẹ, Cập Phủ viết thư cho Hình Thứ bàn việc xin bổ ngoài, nên có lời lẽ nóng nảy phỉ báng. Đến khi đối chất, lấy Tư Mã Chiêu ví với Lưu Chí, mưu phế lập, diệu cung là chỉ Vua, còn phấn côn là chỉ Vương Nham Tẩu và Lương Đào. Nham Tẩu mặt trắng như phấn; Đào tự là Huống Chi, lấy Huống làm anh. Khi Cập Phủ mới vào ngục, Kinh (Thái Kinh) nói với ông: “Việc này rất lớn, Thị lang không dính líu, chỉ cần khai thật là sẽ được tha.” Cập Phủ vừa tự giải thích sai lệch bức thư, lại nói: “Cha là Ngạn Bác lúc lâm chung đuổi tả hữu, chỉ bảo rằng Chí (Lưu Chí) mưu phế lập, nên vội bãi chức Bình chương sự.” Khi hỏi chứng cứ, thì đều không có. (Dựa theo Tân lục, Cựu lục và tham khảo sách khác biên soạn riêng, ngày 4 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ nhất kết thúc vụ án.)
Thời đầu niên hiệu Thiệu Thánh, mẹ của Thái Xác là Minh thị có đơn kiện Hình Thứ rằng Lương Đào từng nói với Lý Tuân, người về hưu ở Hoài Châu, rằng nếu không giết Xác, thì làm sao yên ổn được ở Từ đệ! Triều đình niêm phong đơn ấy, không xử lý. Khi vụ Lưu Đường Lão và Văn Cập Phủ xảy ra, Thái Vị báo với Chương Đôn: “Đường Lão có đáng gì, sao không trị Lương Đào?” Đôn bèn kiểm đơn của Minh thị tâu lên, rồi giao cho Thái Kinh và An Đôn tra xét. (Theo ghi chép của Tăng Bố ngày 2 tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất, tham khảo thêm Thực lục ngày 4 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ nhất kết thúc vụ án[14].
Tân lục chép: Thừa phụng lang, Thiếu phủ giám chủ bạ Thái Vị tâu: “Chú của thần là Thạc, trước đây ở chỗ Hình Thứ, thấy thư của Văn Cập Phủ gửi Thứ thời Nguyên Hựu, kể rõ mưu đồ đại nghịch bất đạo của gian thần. Cập Phủ là con yêu của Ngạn Bác, ắt biết rõ tình trạng gian tà lúc ấy.” Chiếu cho Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Thái Kinh, cùng Quyền Lại bộ Thị lang An Đôn đến Đồng Văn quán tra hỏi. Ban đầu, Cập Phủ viết thư cho Hình Thứ, tự nhận: “Sau khi mãn tang, sẽ xin ra ngoài làm quan, việc vào triều chưa chắc đã thành, nghe nói đã bị đặt bẫy để chặn đường.” Lại nói: “Tâm ý của Tư Mã Chiêu, ai cũng biết, lại thêm có phấn côn, bè phái chồng chất, muốn lấy thân này làm nơi thỏa mãn ý đồ.” Cập Phủ từng nói với Thái Thạc rằng Tư Mã Chiêu chỉ Lưu Chí, phấn côn chỉ Hàn Trung Ngạn, diệu cung là tự chỉ mình. Bởi tục gọi Phò mã đô úy là phấn hầu, người ta vì Vương Sư Ước nên gọi cha ông là Khắc Thần là phấn đa, Trung Ngạn là anh của Gia Ngạn. Cập Phủ được bổ làm Đô ty, bị Lưu Chí bàn tới, lại có việc Chí từng bàn rằng Ngạn Bác không thể làm Trưởng quan Tam tỉnh, nên chỉ làm Bình chương trọng sự. Khi Ngạn Bác về hưu, Cập Phủ từ chức Quyền Thị lang, lấy chức Tu soạn giữ quận, mãn tang mẹ, Cập Phủ viết thư cho Hình Thứ, bàn việc xin bổ ngoài, nên có lời lẽ nóng nảy phỉ báng. Đến khi đối chất, lấy Tư Mã Chiêu ví với Lưu Chí như cũ, diệu cung là chỉ Vua, còn phấn côn là chỉ Vương Nham Tẩu và Lương Đào. Nham Tẩu mặt trắng như phấn[15]; Đào tự là Huống Chi, lấy Huống làm anh. Sau mẹ của Thái Xác lại nói, Lương Đào từng nói với Lý Tuân, người về hưu ở Hoài Châu, rằng nếu triều đình còn để Xác, thì làm sao yên ổn được ở Từ đệ! Lý Tuân căm ghét gian tà, từng báo với Hình Thứ. Chiếu lệnh cho Thứ tường tận tâu lên.
Bản mới sửa lại bản cũ, đại để dựa vào việc Lưu Phòng và những người khác làm về hành trạng của Lưu Chí và việc Thiệu Bá Ôn biện bạch những lời vu cáo. Tuy nhiên, hành trạng nói rằng Tư Mã Chiêu là chỉ Lã Đại Phòng, khác với lời biện bạch, nên lấy lời biện bạch làm chuẩn. Thái Vị dâng thư lên và phủ, Thiệu Bá Ôn cho rằng việc này xảy ra vào đầu năm Thiệu Thánh. Nếu vậy, không nên đến năm thứ tư mới khởi tố, có lẽ đầu năm Thiệu Thánh chỉ tố cáo việc làm thơ ở An Châu, sau đó bị Hình Thứ xúi giục, mới dâng thư lên và phủ.
《Thực lục》 ghi chép việc khởi tố cùng văn, tức là ghi lại việc đó, có lẽ là vào tháng 7 hoặc đầu tháng 8 năm thứ tư.
《Nhật lục của Tăng Bố》: Ngày Tân Hợi mùng 2 tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất, Bố đã nói Lữ Huệ Khanh không thể sai đi, tối hôm đó nghe tin Lương Đào chết, Bố nói với Lâm Hi: “Nếu sớm biết thế này thì đã không tranh cãi nữa.” Hi nói: “Không phải vậy, những điều khác ông trình bày đều có ích, không phải là nói suông.” Bố lại nói: “Đối đáp lâu, mọi người đều nói chưa từng thấy ai đối đáp như Trung thừa.”
Trước đó, đầu năm Thiệu Thánh, mẹ của Thái Xác là Minh thị có đơn, nói rằng Hình Thứ bảo Lương Đào từng nói với Lý Tuân, người đã về hưu ở Hoài Châu, rằng nếu không giết Xác, thì ở Từ đệ sao có thể yên ổn! Sau đó không thi hành. Rồi vì việc của Cập Phủ và Đường Lão, Thái Vị báo với Chương Đôn: “Việc của Đường Lão không đáng trị, sao không trị Lương Đào?” Đôn bèn kiểm tra đơn của Minh thị và dâng lên. Chiếu chỉ xuống tra hỏi việc truy cứu, tra hỏi Hình Thứ, Thứ nói: “Nghe từ Thượng Chu.” Bèn triệu Chu về kinh. Chu khai báo giống như Thứ, nói “nghe từ Lý Tuân”, lại hỏi Tuân, Tuân nói “thực sự nghe Đào nói thế”, bèn muốn xét Đào.
Vì Thái Thạc nói Văn Cập Phủ từng có thư gửi Hình Thứ: “Lưu Chí có lòng như Tư Mã Chiêu, người đi đường đều biết.” Bèn bắt Thứ lấy thư của Cập Phủ, Thứ báo lên. Bèn giao cho Thái Kinh và An Đôn xử lý việc tra hỏi, ở nơi khảo thí bắt Cập Phủ hỏi, Cập Phủ nói: “Nghe từ cha là Ngạn Bác.” Nhưng cuối cùng không có bằng chứng rõ ràng. Thái Kinh lại bảo Cập Phủ liệt kê những người trong phe Lưu Chí, dâng lên Vua, Cung Nguyên và Tôn Ngạc đều bị liệt kê. Vì lời của Cập Phủ không thể thi hành, cho rằng Lưu Chí và những người khác thông đồng có ý phế lập, bèn triệu Trương Sĩ Lương đang an trí ở Liễu Châu về tra hỏi. Sĩ Lương cùng Diễn đều là ngự dược, chủ trì việc văn tự trong các của Thái hậu, nhưng lời khai cũng không có bằng chứng rõ ràng, chỉ nói: “Diễn thường biết trước việc tam tỉnh tấu lên ngày hôm sau, làm bản ghi chép, cùng Thái mẫu đối đáp với chấp chính, Thái mẫu mỗi lần buông rèm chỉ đọc lại mà thôi.”
Lại nói: “Khi Thái mẫu hấp hối, Diễn phê duyệt việc của nhị phủ, vẽ chữ y hay chữ khả, cùng dùng ấn ngự bảo, đều do Diễn quyết định, không cần bẩm báo lên Vua.” Sau đó vụ án vẫn chưa kết thúc, Cập Phủ biết ở Tây Kinh, Sĩ Lương bị giam ở phủ ty, dù đã quyết định xử tử Trần Diễn nhưng vẫn còn nghi ngại giữa thắt cổ hay chém, thật đáng cười.
《Hành trạng của Lưu Chí》nói: Ban đầu ông mất ở Lĩnh Biểu, người thân thuộc xin cho ông được đưa về chôn cất ở triều, nhưng không được chấp thuận. Sau đó các con ông bị phế truất và đày đi nơi khác mà không nêu rõ tội trạng, ngay cả gia đình ông cũng không biết. Nay Vua lên ngôi, đại xá thiên hạ, ông được đưa về chôn cất. Văn Cập Phủ và Thái Vị đều bị biếm ra ngoài.
Lời cáo của Cập Phủ viết: “Nói lời bất thuận, đến nỗi ghi chép, nếu có thực, sao không báo lên, nếu không có thực, khác gì vu cáo!” Do Xá nhân Trương Thương Anh soạn, từ đó mọi người dần biết việc này bắt đầu từ đây. Năm Nguyên Hựu, Cập Phủ đang chịu tang ở Lạc Dương, Hình Thứ bị biếm đến Vĩnh Châu chưa đi, cũng đang chịu tang ở Hoài Châu, thường xuyên trao đổi thư từ, phần nhiều là lời ẩn ý.
Cập Phủ lại vì Lưu Chí làm Trung ty, từng đàn hặc bãi chức Tả ty lang quan của mình, nên càng oán hận Lưu Chí, gửi thư cho Hình Thứ, đại ý nói: “Đến tháng sau hết tang, kế hoạch vào triều chưa chắc thực hiện được. Những kẻ nắm quyền tích oán với kẻ có chí hùng mạnh càng sâu, đồ đảng của họ thực sự nhiều. Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người đi đường đều biết, lại thêm phấn côn, nhất định muốn lấy thân này làm nơi thỏa mãn, thật đáng lo lắng.” Đại ý là sau khi hết tang chắc chắn không được làm quan ở kinh sư, phải tìm chức ngoài, nên mới chỉ trích nặng nề những kẻ nắm quyền. Nhưng ý chỉ “Tư Mã Chiêu” không rõ ràng.
Đến đầu năm Thiệu Thánh, Thứ bí mật đưa cho con của Thái Thạc là Thái Vị, Vị bèn dâng thư tố cáo các đại thần thời Nguyên Hựu, từ Thừa tướng Lã Đại Phòng đến Lưu Chí và hơn mười người khác hãm hại cha mình là Thái Xác, có ý bất lợi với Vua, mưu nguy tông xã, có bằng chứng rõ ràng, dẫn thư của Cập Phủ làm chứng. Triều đình nghe thấy đều kinh hãi, giao cho Hàn lâm học sĩ và Ngự sử trung thừa tra xét. Bèn bắt Cập Phủ giao cho lại, nhưng lời khai mơ hồ, ban đầu không có bằng chứng, chỉ nói nghe từ cha đã mất.
Khi tra hỏi Tư Mã Chiêu là ai, Cập Phủ trả lời là chỉ Lưu Chí, hỏi bằng chứng thì nói không có. Chỉ vì làm chấp chính năm năm mà chưa làm tướng[16], ắt có oán hận, nghi ngờ tình thế sẽ như vậy. Lại hỏi “phấn côn” là ai, Cập Phủ trả lời “phấn” là Vương Nham Tẩu, mặt trắng như phấn, “côn” là Lương Đào, tự Huống Chi, huống có nghĩa là anh.
Ban đầu, những người bàn luận nghe đồn rằng Văn Cập Phủ có lời oán trách, đã biết là không đúng sự thật, nhưng lại cho rằng Tư Mã Chiêu (ám chỉ Lã Đại Phòng) vì một mình nắm quyền lâu ngày, nên có người cho là lời vu cáo, nhưng lời khai của Cập Phủ trong ngục lại chỉ vào Lưu Chí. Lại nói đến “phấn côn”, tục gọi Phò mã đô úy là “phấn hầu”, nên Vương Khắc Thần nhờ con là Sư Ước mà người ta gọi là “phấn đa”, nay Hàn Gia Ngạn lấy công chúa, tất nhiên gọi anh là Trung Ngạn là “phấn côn”, mà Cập Phủ lại chỉ vào Lương Nham Tẩu và Lương Đào. Xét ra, Cập Phủ cuối thời Nguyên Hựu được thăng chức, Lã Thừa tướng bổ nhiệm làm Quyền Thị lang, trong lòng rất cảm kích, còn Trung Ngạn lúc đó tuy bị cách chức Xu phủ, nhưng ân sủng của Vua chưa suy giảm, Vương, Lương hoặc bị giáng chức hoặc chết, dễ bị chèn ép, nên Cập Phủ âm thầm thay đổi ý định ban đầu, uốn nắn tình thế, chỉ vào Lưu Chí và Vương, Lương.
Mọi người đều biết là sai, triều đình cũng giác ngộ, việc ngục án tạm lắng. Khi nghe tin Lưu Chí mất, triều đình cho rằng không kịp tra xét, chỉ trị tội các con của ông mà thôi, sau đó các con đều được phục chức. Lại bàn việc đưa tang về quê, con trai nối dõi của Lưu Chí là Lưu Kỳ, liền đến cửa khuyết dâng sớ lên hòm thư, lại mang bản phó đến đô đường gặp tể tướng, nay Thừa tướng Hàn Trung Ngạn cùng Thừa tướng Tăng Bố, Trung thư tướng Hứa Tương, đều lấy bản chính án tịch ra xem, thấy rõ sự sai trái rõ ràng như vậy.
Ngày 25 tháng 2 năm Kiến Trung Tĩnh Quốc thứ nhất có chiếu chỉ, những điều Văn Cập Phủ và Thái Vị trình bày, rõ ràng không có bằng chứng, đã bị giáng chức trách phạt; Chỉ thị ngày 4 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 5 không thi hành nữa, sau đó những lời vu cáo sau khi chết đều được giải oan. 《Lưu Chí tân truyền》 chép: Mùa xuân năm thứ 4, bị giáng làm Đoàn luyện phó sứ châu Đỉnh, an trí ở châu Tân, tháng 12 mất tại nơi bị giáng, không cho đưa tang về quê. Năm đó, Thái Vị nói Văn Cập Phủ từng viết thư cho Hình Thứ, có câu “Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết”, ý chỉ Lưu Chí từng có ý định phế lập. Do đó bắt giam Cập Phủ, Thứ vào ngục Đồng Văn. Chiếu sai Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Thái Kinh, Trung thư xá nhân Kiển Tự Thần cùng tra xét, cuối cùng không có bằng chứng, Cập Phủ và Thứ đều bị tội. Vẫn theo tấu của Thái Kinh, tháng 5 năm sau, Lưu Chí đã chết, chiếu rằng những lời khai trước đây của Thượng Chu đều đã mất, không kịp tra xét, minh chính điển hình. Bèn miễn quan chức các con của Lưu Chí, gia quyến đày đến châu Anh.”
Thiệu Bá Ôn trong 《Biện vu》 nói: Chương Đôn, Thái Biện đày ải các quan thời Nguyên Hựu. Biện ban đầu cùng Đôn xin đào mộ Tư Mã Quang, Vua không nghe, Đôn không vui, Biện bèn triệu Hình Thứ từ Thanh Châu về làm Hình bộ thị lang, rồi thăng Lại bộ thượng thư. Thứ cùng Đôn, Biện bịa đặt chuyện các quan thời Nguyên Hựu không ngừng, Biện thăng Thứ làm Ngự sử trung thừa, dùng mưu kế của hắn, muốn giết Lưu Chí, Lương Đào, Vương Nham Tẩu hơn mười người. Thứ lại bịa ra lời Tuyên Huấn, lại dụ dỗ con của Cao Tuân Dụ là Sĩ Kinh kể công cha, lại dạy con của Thái Xác là Thái Vị đem thư của Văn Cập Phủ nói việc “phấn côn” dâng lên. Đôn, Biện bèn dựng lên vụ án Đồng Văn quán[17], dùng Thái Kinh, An Đôn tra xét. Việc “phấn côn” là Văn Cập Phủ cùng Hình Thứ thời Nguyên Phong cùng làm quan trong quán, thân thiết với nhau, con của Hàn Ngụy công là Hàn Trung Ngạn, cùng môn khách của Ngụy công là Lưu Chí, Vương Nham Tẩu thường bất bình vì Lộ công không nói đến công lao, cho là che lấp công lao của Ngụy công. Đến khi Chương Đôn soạn bài tựa thơ ngự chế của Thần Tông ban cho Lộ công viết: “Chiếu chỉ năm Gia Hựu, chỉ tuyên đọc mà thôi.” Trung Ngạn cùng Lưu Chí càng thêm bất bình.
Năm Nguyên Hựu đầu tiên, Văn Lộ công vào triều giữ chức Bình chương trọng sự. Lưu Chí và các quan khác trước rèm bàn luận về việc Vương Đồng Lão dâng văn thư do Văn Ngạn Bác chỉ bảo, xin sửa lại sử sách. Tuyên Nhân thái hậu nói: “Ta hiểu rõ việc này. Vào năm Chí Hòa, khi Nhân Tông bệnh nặng, những người xin lập người kế vị là Thái sư Văn Ngạn Bác, Tể tướng Phú Bật, Tể tướng Lưu Hủ, Tham chính Vương Củng. Đến cuối năm Gia Hựu, việc xin lập Anh Tông làm người kế vị, khi Nhân Tông băng hà, việc sách lập Anh Tông là công của Tể tướng Hàn Kỳ. Những việc này không che lấp nhau, không cần sửa lại sử sách.”
Phạm Công đã cứu Thái Tân châu, bị bãi chức Tể tướng. Lưu Chí được phong làm Hữu bộc xạ, Hàn Trung Ngạn làm Tả thừa, Lương Đào làm Hữu thừa, Vương Nham Tẩu làm Thiêm thư Xu mật viện. Văn Lộ công xin nghỉ hưu, bãi chức Bình chương sự, về Lạc Dương. Văn Cập Phủ bị bãi chức Quyền Thị lang, nhận chức Tu soạn, làm Tri châu Hà Dương. Lúc đó, Hình Thứ đang chịu tang ở Hoài Châu, đã có lệnh giáng làm Giám tửu ở Vĩnh Châu. Hình Thứ và Văn Cập Phủ đều oán hận Lưu Chí, Hàn Trung Ngạn, Lương Đào, Văn Nham Tẩu.
Văn Cập Phủ viết thư cho Hình Thứ, trong đó có câu: “Phấn côn bằng loại thác lập, Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri.” “Phấn” chỉ Phò mã, tức là em trai của Hàn Trung Ngạn là Hàn Gia Ngạn lấy công chúa. “Côn” là anh trai của Phò mã, tức Hàn Trung Ngạn. “Bằng loại thác lập” chỉ Lưu Chí, Lương Đào, Văn Nham Tẩu. “Tư Mã Chiêu chi tâm, lộ nhân sở tri” ý nói Lưu Chí có ý định mưu phế lập. Sau đó, Hình Thứ đưa bức thư này của Văn Cập Phủ cho Thái Vị. Thái Vị là cháu rể của Tuyên huy sứ Phùng Kinh. Khi Phùng Kinh qua đời ở kinh đô, Triết Tông đến viếng, Thái Vị từ trong màn bước ra tố cáo, dâng thư lên. Sau đó khởi tố vụ án Đồng Văn Quán, từ Lạc Dương triệu Văn Cập Phủ về làm chứng, lúc đó Văn Lộ công đã qua đời.
Thái Kinh và An Đôn nói với Văn Cập Phủ: “Việc này rất lớn, Thị lang không liên quan, chỉ cần nói thật là được.” Văn Cập Phủ trả lời: “Khi cha tôi là Thái sư sắp qua đời, đuổi hết tả hữu, chỉ nói với Lưu Chí rằng muốn tôi ra ngoài, mưu việc phế lập.” Hình Thứ nói rằng Chủ bạ huyện nào đó ở Tấn Châu là Thượng Chu, quan về hưu ở Hoài Châu là Triều tán lang Lý Tuân biết việc Lưu Chí mưu đồ. Bèn bắt Thượng Chu giam vào ngục, Lý Tuân vì già yếu nên chỉ bị thẩm vấn. Lúc đầu khai là già yếu không nhớ rõ, sau lại khai lấp lửng. Không lâu sau, Lý Tuân lo lắng mà chết. Thượng Chu không khai được gì, được thả về chức cũ, Văn Cập Phủ cũng được tha về. Đây là chuyện do Thiệu Bá Ôn ghi chép.
Xét theo sử, Phùng Kinh mất ngày 3 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ nhất. Nếu như Bá Ôn ghi chép, Thái Vị tố cáo việc “phấn côn” vào tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ nhất, không rõ vì sao mãi đến tháng 8 năm thứ tư mới khởi tố vụ án Đồng Văn Quán. Theo thực lục, ngày 13 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ nhất, Thái Vị tố cáo việc oan khuất của Thái Xác, truy tặng Tả chính nghị đại phu. Lúc đó chỉ bàn về việc làm thơ, không phải là báng bổ. Việc “phấn côn” do Hình Thứ xúi Thái Vị làm, nên phải là năm thứ tư. Lại xét Văn Ngạn Bác mất ngày 4 tháng 5 năm Thiệu Thánh thứ tư, lẽ nào Thái Vị đã tố cáo việc “phấn côn” từ tháng 4 năm thứ nhất? Các quan chấp chính cho rằng Văn Ngạn Bác còn sống thì việc này không thể giả mạo được, nên phải đợi Ngạn Bác chết mới khởi tố vụ án!
Lại nữa, Thượng Chu làm Tri huyện Kỵ Thị ở Tấn Châu, không phải là Chủ bạ. Hình Thứ nói rằng Hoàng Lý vào cuối năm Nguyên Phong từng có tấu chương nói việc Tuyên Nhân thái hậu muốn lập người nhà họ Từ. Bá Ôn sau này ở Đồng Châu, tại nhà con trai Tăng Bố là Tăng Bình, thấy một tập sách tay của Tăng Bố ghi chép việc đương thời, nói rằng trong cung vốn không có văn thư của Hoàng Lý, bản thảo từ nhà Hoàng Lý đưa vào ngục làm chứng cứ. Hoàng Lý và Hình Thứ đều chưa đỗ đạt nhưng kết giao thân thiết, Hình Thứ cũng cùng Hoàng Lý mưu đồ. Vương Vực, người Kinh sư, có tài hùng biện, thích bàn luận, từng là đồ đảng trong năm Hi Ninh. Bá Ôn từng thấy Vương Vực, Thượng Chu, Lý Tuân ở nhà Hình Thứ, đều là những kẻ bịp bợm. Sau này Chương Đôn nhờ Hình Thứ tiến cử, Vương Vực được bãi chức về hưu, nhận chức Tri quân Bắc Bình. Không lâu sau Vương Vực chết, con trai là Vương Trực Phương không cho rằng cha mình đúng, thường nói với sĩ đại phu rằng cha mình lúc tuổi già bị bệnh tâm thần. Trực Phương thân thiết với Triều Tải Chi, đem toàn bộ sách vở và tranh ảnh thu thập được giao cho Tải Chi. Xem qua những sách vở và tranh ảnh mà Trực Phương thu thập, trong đó có một bức thư qua lại giữa Vương Vực và Hình Thứ, đều là những mưu đồ vu khống việc phế lập của mọi người. Tất Trọng Du nói với Bá Ôn: “Hình Thứ là người đáng sợ.”
Trước đây vào năm Nguyên Hựu, Thị ngự sử Chu Quang Đình và Tư gián Lưu An Thế nghe tin trong cung tìm người vú nuôi, cùng dâng thư lên Tuyên Nhân thái hậu, xin thêm sự bảo vệ cho chúa thượng. Tuyên Nhân thái hậu từ sau rèm dụ bảo tể tướng Lã rằng: “Ta và hoàng đế chưa từng xa cách, thực sự không có gì khác, chỉ là vì cung của Đại vương tìm người vú nuôi, tể tướng có thể bảo với đài gián, không cần bàn luận việc này.” Tể tướng Lã không có cách nào gặp các quan đài gián, nhân dịp kinh diên bèn dụ bảo Gián nghị đại phu Phạm Tổ Vũ, lệnh ông dùng lời của Thái hoàng thái hậu để chiếu dụ Lưu An Thế và những người khác[18]. Phạm Gián nghị đến hậu tỉnh truyền đạt thánh ngữ cho Lưu Tư gián, Lưu trách Phạm rằng: “Ông là đại gián, sao lại làm việc truyền tuyên vậy!” Phạm là người nhân hậu bị Lưu trách, bèn dâng chương xin ra ngoài vì không làm tốt việc khuyên giảng.
Sau đó, Thứ nói với Chương Đôn và Thái Biện, cho rằng Lưu An Thế, Chu Quang Đình và Phạm Tổ Vũ ba người dâng thư lên Tuyên Nhân thái hậu có ý định phế lập. Những lời Thứ nói, đều có thể dùng để trị tội trong vụ án Đồng Văn. Vụ án này do Chương Đôn và Thái Biện dùng Thái Kinh và An Đôn ra sức tra tấn nhưng không thành, Triết Tông nghi ngờ, nhân dịp có biến động sao bèn ban chiếu xá tội rằng: “Trẫm tuân theo di chí của tổ tông, chưa từng giết hại đại thần, việc của Lưu Chí có thể không cần trị tội.” Nếu không, hàng chục gia đình đều bị giết hại. Tuy nhiên, Lưu Chí và Lương Đào cùng lúc chết ở nơi bị đày ở Lĩnh Nam, người ta cũng nghi ngờ.
Xét chiếu xá tội vì biến động sao vào ngày mồng 5 tháng 9, hai ngày sau lại có chiếu rằng “những người còn lại của Nguyên Hựu và những người có chỉ đặc biệt khác, đều chưa được điều chuyển.” Vậy lời Thiệu Bá Ôn nói rằng Vua phê “Trẫm tuân theo di chí của tổ tông, chưa từng giết hại đại thần, việc của Lưu Chí có thể không cần trị tội”, e rằng chưa chắc đã đúng. Tân lục ở cuối truyện về Tuyên Nhân thái hậu có phụ thêm lời phê của Vua, có lẽ là dựa theo lời của Bá Ôn. Sau khi xá tội, việc xử án Đồng Văn vẫn không hề chậm trễ, nếu đã tha không trị tội, sao lại phải đợi đến ngày mồng 9 tháng 3 năm sau mới đánh chết Trần Diễn và đày Trương Sĩ Lương? Ngày mồng 4 tháng 5, lại có chiếu rằng “những người bị đuổi đều đã chết, không kịp tra xét, minh chính điển hình, các con của Chí đều bị cách chức” sao? Lời của Bá Ôn nói, cốt yếu là không đáng tin.
Thiệu Bá Ôn lại nói: Có một viên quan nội thị trong cung Tuyên Nhân đã bị biên chế đến Bạch Châu, cũng bị bắt về ngục. Thái Kinh và An Đôn dụ dỗ rằng: “Nếu ngươi có thể làm chứng việc này, không chỉ được trở về triều, mà còn được khôi phục chức vụ cũ.” Viên quan nội thị nói: “Được trở về triều và khôi phục chức vụ tuy là điều may mắn, nhưng tôi không dám nói bậy, làm liên lụy đến Thái hoàng thái hậu Tuyên Nhân Thánh Liệt, và đẩy các đại thần vào chỗ chết.” Sau đó lại bị đưa về nơi biên chế.
Vụ án ở Đồng Văn Quán tuy không thành, nhưng vẫn sai người đánh chết viên quan nội thị Trần Diễn ở hải đảo, phá hủy cung cũ của Tuyên Nhân. Lúc đó, các cung nhân bị đuổi ra ngoài, có người bị xử tử, còn có những cung nhân già từng theo hầu từ thời tiềm để cũng bị biên chế đến Túc Châu. Chương Đôn và Thái Biện thậm chí soạn chiếu phế Tuyên Nhân, khi tang phục chưa hết, xin Triết Tông đến điện linh để tuyên đọc thi hành.
Khâm Thánh Hoàng hậu đang nghỉ ngơi, nghe tin vội vàng đứng dậy, không kịp mang giày, khóc lóc trước linh cữu của Tuyên Nhân rằng: “Thái hoàng thái hậu là bà nội của hoàng đế, có gì mà hoàng đế phải phụ bạc đến thế!” Triết Tông bèn thôi. Thiên hạ nghe chuyện đều oán hận. Phạm Tổ Thuật nói với Bá Ôn rằng: “Tôi từng gặp viên quan nội thị Lương Duy Giản, ông ta kể rằng vào đầu tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 8, Tuyên Nhân bảo Duy Giản rằng: ‘Bảo nhà ngươi may một chiếc áo bối tử màu vàng cho trẻ 12, 13 tuổi.’ Lúc đó bệnh của Thần Tông đã nguy kịch, muốn chuẩn bị cho Triết Tông lên ngôi.”
Bá Ôn trước kia làm mạc quan ở Kinh Lược Ty Khánh Châu, có viên quan nội thị Tẩu Mã Thừa Thụ là Từ An Đạo rất hiểu đạo lý, từng phụng sự Tuyên Nhân, đầu niên hiệu Thiệu Thánh cũng bị biên chế đến Vĩnh Châu, gặp ân xá được tha về. Bá Ôn thường hỏi về chuyện Tuyên Nhân, An Đạo nói: “Những kẻ nói Thái hoàng thái hậu có ý đồ xấu đều là tội nhân. Triết Tông còn nhỏ, tính tình nhút nhát, mỗi khi đi dạo trong cung, Thái hoàng thái hậu thường bảo tôi cầm lọng thêu đi theo, việc ăn uống sinh hoạt không rời nhau.” Lại nói: “Tuyên Nhân tính nghiêm nghị, tiết kiệm, cười nói có chừng mực, mặc áo giặt đi giặt lại[19]. Thường hỏi An Đạo rằng: ‘Ngươi có mấy chiếc đai vàng?’ Nhưng cuối cùng không ban tặng. Mưa hai ngày liền đốt hương cầu trời, hạn hán cũng vậy, ngày ngày chỉ tụng kinh Phật. Khi nhàn rỗi thường nói, ta biết sơ qua sử sách, trong các hoàng hậu hiền đức đời trước như Trưởng Tôn hoàng hậu nhà Đường, là điều ta mong muốn.” Từ An Đạo nói như vậy. Triết Tông vốn tính nhân từ, từ nhỏ thấy người trong cung đổ nước sôi xuống đất, liền nói: “Không được, sợ giết kiến.”
Một lần đi dạo vườn sau, có vệ sĩ tránh không kịp, trốn trong mương, tả hữu tâu lên, Triết Tông không để ý, nói: ‘Ta thấy chắc bị tội.’ Sau này do Chương Đôn và Thái Biện xúi giục, trong cung giết người nhiều, đều là tội của Đôn và Biện.
Theo lời của Thiệu Bá Ôn, nội quan được nhắc đến chính là Trương Sĩ Lương, sự việc xảy ra vào ngày Mậu Ngọ, tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất. Trương Sĩ Lương từ ngày 13 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ nhất giữ chức Hoàng thành sứ giám thuế ở Dĩnh Châu, sau đó không thấy bị giáng chức lần nữa, nay vì việc bị bãi chức Hoàng thành sứ và bị bắt giam nên bị đưa đến Bạch Châu[20]. Thiệu Bá Ôn nói rằng ông ta đã bị biên quản ở Bạch Châu, có lẽ là nhầm.
Sách 《Tân Lục》 chép rằng từ Lôi Châu bắt Trương Sĩ Lương, chắc chắn là đúng. Nhưng không rõ dựa vào đâu?
Lại xem 《Nhật Lục》 của Tăng Bố ngày Ất Hợi, 25 tháng 9 chép: Trương Sĩ Lương bị an trí ở Sâm Châu, được lệnh tha cho tự do[21], triệu về kinh. Chương Đôn cho rằng Sĩ Lương từng được trọng dụng dưới triều trước, sau lại theo phe Duy Giản, biết nhiều việc mật mưu giao thiệp với đại thần thời đó, nên triệu về. Mọi người lo ngại ông ta sẽ bịa chuyện để tự giải thoát. Tuyên Nhân thái hậu băng hà vào ngày 3 tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ 8, âm mưu phế truất Tuyên Nhân của Thái Biện có lẽ xảy ra vào cuối Thiệu Thánh, đầu Nguyên Phù, lúc này tang lễ Tuyên Nhân đã xong. Ngày 30 tháng 11 năm thứ 2, tang lễ Tuyên Nhân kết thúc.
《Nhật Lục》 của Tăng Bố ngày Nhâm Thân, 19 tháng 5 năm thứ 4 chép: Thái Kinh từng nói, thời Nhân Tông, định dùng lễ thứ dân để an táng Chương Hiến; Kinh lại nói, xa giá không nên đến phủ Sở, lại nói, căn bản thiên hạ chưa chính, ý nói không giết Sở vương thì không yên. Lúc đó Sở vương chưa mất, nên mới có lời bàn này, hai việc này cũng có thể tham khảo.
Lại xem 《Nhật Lục》 của Tăng Bố ngày 14 tháng 9 chép: Từ mùa xuân năm nay, Chương Đôn, Thái Biện nhiều lần tâu rằng Tư Mã Quang có ý lật đổ, ngày 18 tháng 4, Công Trước, Quang bị giáng làm Tư hộ; lại nói Phạm Tổ Vũ, Lưu An Thế muốn gây ảnh hưởng với Vua, đều có lòng gian, dần dần lâu ngày nên đều bị giáng chức nặng. Ngày 15 tháng 2 nhuận, Phạm, Lưu lại bị giáng, sau đó lại giáng Vương Khuê, Cao Sĩ Anh, ngày 24 tháng 4, Khuê, Sĩ Anh bị giáng, lời bàn của Tam tỉnh dần liên quan đến Tuyên Nhân. Theo đó, trước đó chưa từng nhắc đến Tuyên Nhân. Nhưng lời của Bố cũng chưa chắc đáng tin, cần xem xét thêm.
《Tân Lục》 sau phần truyện Tuyên Nhân ngày 7 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ nhất, chép việc Đôn, Biện truy phế, đại thể dựa vào lời biện bạch của Thiệu Bá Ôn, cần xem xét kỹ, tìm hiểu kỹ lại. Âm mưu phế truất Tuyên Nhân của Đôn, Biện có lẽ xảy ra sau khi giáng Vương Khuê, Cao Sĩ Anh vào tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 4. Việc Triết Tông đốt chiếu thảo của Đôn, Biện và ném tấu chương xuống đất có lẽ xảy ra sau khi có biến tinh vào tháng 9. Chiếu tha cho đại thần không trị tội, có lẽ lúc có biến tinh chưa có việc này, thêm nữa vụ án Đồng Văn tự dưng không có chứng cứ nên thôi, không liên quan đến biến tinh, chắc chắn Thiệu thị nhầm, 《Tân Lục》 lại theo đó. Nếu nói chỉ dừng âm mưu phế truất Tuyên Nhân vì biến tinh, thì có thể.
《Tục tư trị thông giám trường biên》 chép: Trước đây, vào tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 7, trong cung tổ chức yến tiệc lớn, Diên An quận vương đứng hầu, Vương Khuê dẫn trăm quan chúc mừng. Khi lên điện, Thần Tông lại dụ Diên An quận vương cùng Vương Khuê và các quan gặp mặt, rồi chia ban tạ ơn. Mùa đông năm đó, Thần Tông dụ các phụ thần rằng: “Năm sau sẽ lập thái tử, nên lấy Tư Mã Quang và Lữ Công Trước làm thầy bảo.” Khi Thần Tông lâm chung, Thái hậu sai cung nhân Lương Duy Giản: “Bảo vợ ngươi may một chiếc hoàng báo, vừa với đứa trẻ 10 tuổi, bí mật mang vào đây.” Đó là để chuẩn bị cho việc hoàng đế lên ngôi trong tình thế gấp rút. Thái mẫu đã sớm quyết định ý định lập hoàng đế, không có chút nghi ngờ nào.
Hình Thứ là kẻ xảo trá, từng quen biết Tư Mã Quang và Lữ Công Trước. Thái Xác biết được lời nói về thầy bảo, tìm cách kết thân với hai người này, và kết giao sâu với Hình Thứ. Khi Thái Xác làm Hữu bộc xạ, liên tục thăng Hình Thứ làm Khởi cư xá nhân. Một hôm, Thái Xác sai Hình Thứ mời cháu của Thái hậu là Quang châu đoàn luyện sứ Công Hội và Ninh châu đoàn luyện sứ Công Kỷ, nhưng họ từ chối không đến. Hôm sau, lại sai người đến Đông phủ mời, Thái Xác nói: “Nên đến gặp Hình xá nhân.” Hình Thứ nói: “Nhà tôi có cây đào nở hoa trắng, có thể chữa bệnh cho hoàng đế, lời này xuất phát từ đạo tạng, xin hãy ở lại xem.” Khi vào trong sân, thấy hoa đào màu đỏ, họ kinh ngạc hỏi: “Hoa trắng đâu?” Hình Thứ nắm tay hai người nói: “Hữu thừa tướng bảo tôi bày tỏ tấm lòng. Hoàng đế bệnh chưa khỏi, Diên An còn nhỏ, nên sớm định kế, Kỳ vương và Gia vương đều là hiền vương.” Công Hội và Công Kỷ sợ hãi nói: “Ông muốn hại nhà ta!” rồi bỏ đi.
Sau đó, Hình Thứ lại nói rằng Thái hậu và Vương Khuê thông đồng, muốn bỏ Diên An mà lập con trai của bà là Hạo, nhờ có ông và Chương Đôn, Thái Xác mới không xảy ra biến cố. Thái Xác đi sứ Sơn lăng, Hàn Chẩn trước rèm kể rõ việc Hình Thứ vu cáo Thái hậu. Khi sứ về, người tố cáo bộc lộ âm mưu của hắn, Hình Thứ bị giáng làm Tri Tùy châu, sau đó đày đến Tân châu. Lưu Chí được bái làm Hữu bộc xạ, Hình Thứ vì tội đồng đảng bị giáng làm Giám Vĩnh châu tửu. Năm Thiệu Thánh thứ 2, Hình Thứ được bổ làm Đãi chế, Tri Thanh châu. Chương Đôn và Thái Biện nắm quyền, tìm cách trả thù các cựu thần thời Nguyên Hựu, biết Hình Thứ là kẻ xảo quyệt, dám bịa đặt, lại oán Lưu Chí đã giáng chức mình, nên muốn nhân cơ hội này trả thù cho Thái Xác bị đày. Họ triệu Hình Thứ làm Ngự sử trung thừa, ngày đêm tố cáo Lưu Chí, Lương Đào, Vương Nham Tẩu có âm mưu phế lập.
Hình Thứ còn bịa chuyện Tư Mã Quang tiễn Phạm Tổ Vũ đi nhậm chức, nói rằng: “Vua trẻ nước nghi, việc Tuyên Huấn đáng lo”, để chứng minh Thái hậu có ý lập con trai mình. Hình Thứ còn dụ Cao Sĩ Kinh dâng thư, tố cáo Vương Khuê từng sai Cao Sĩ Sung hỏi cha mình là Tuân Dụ về ý định của Thái hậu muốn lập ai. Tuân Dụ quát mắng đuổi đi, Cao Sĩ Sung bỏ đi. Hình Thứ còn dạy con trai Thái Xác là Vị dâng thư của Văn Cập Phủ có lời lẽ mập mờ, trong đó có câu: “Tâm của Tư Mã Chiêu, người đường ai cũng biết”, để chỉ trích Lưu Chí có âm mưu phế lập. Chương Đôn và Thái Biện mở ngục Đồng Văn quán, sai Thái Kinh và An Đôn tra xét kỹ. Lúc này, hoạn quan Hác Tùy ngày đêm xúi giục việc xưng chế, mê hoặc tả hữu; Chương Đôn và Thái Biện bàn bạc, soạn chiếu truy phế Thái hoàng thái hậu, xin hoàng đế đọc trước linh điện. Khâm Thánh Hiến Túc hoàng thái hậu và Khâm Thành hoàng hậu khẩn thiết khuyên hoàng đế, nói rất bi thương: “Hai chúng tôi hầu hạ Thái hậu, trời cao chứng giám, lời này từ đâu mà ra? Nếu hoàng đế nhất định làm việc này cũng được, nhưng chúng tôi có tội gì?” Hoàng đế cảm ngộ, lấy tờ tấu của Chương Đôn và Thái Biện đốt trước đèn. Trong cung vui mừng, nhưng Hác Tùy và những người khác không vui.
Ngày hôm sau, Đôn và Biện lại đến xin, Vua giận dữ nói: “Các khanh không muốn Trẫm vào điện thờ Thần vị của Anh Tông sao!” rồi ném tờ tấu xuống đất. Vụ án Đồng Văn, truy bắt quan Ngự dược của điện Hậu điện là Trương Sĩ Lương, dùng đao cưa, vạc dầu uy hiếp nhưng không thu được gì, lại gặp lúc có biến động về sao, Vua hạ chiếu rằng: “Trẫm tuân theo di chí của tổ tông, chưa từng giết đại thần, tha cho và không trị tội.” Thứ chỉ vì mưu cầu tiến thủ, buông lời bịa đặt, thù ghét kẻ chấp chính để thỏa mãn ý mình.
Đúng lúc Đôn và Biện nắm quyền, tính hung ác hợp lại, nếu không có mưu đồ bất lợi thì không thể kích động được nhà Vua. Nguy cơ bị phế truất và làm nhục, trên đã đến cả Vua và cha mẹ, mà họ cũng không kiêng sợ, huống chi là gia đình của bề tôi? Truy xét nguồn gốc lời gièm pha, mở đầu cho họa loạn, dù là Giang Sung hay Tức Phu Cung cũng không thể hơn được!
《Tân Lục》 phần lớn dùng lời biện bác của Thiệu Bá Ôn để chỉnh sửa, chỉ có việc Hình Thứ nói “đào nở hoa trắng” để vu cáo Tuyên Nhân, cùng với việc Hác Tùy xúi giục, và việc Khâm Thành cùng Khâm Thánh can gián, Vua đốt tờ tấu, ném tờ tấu, không muốn vào miếu, những lời này đều không được Thiệu Bá Ôn ghi chép.
《Tân Lục》 vừa kể việc này sau truyện Tuyên Nhân, lại còn nhắc lại khi Trương Sĩ Lương bị giáng làm Bạch Châu, nên bỏ một chỗ, giữ một chỗ. Hình Thứ vào tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 2 từ Thanh Châu vào làm Hình bộ thị lang, tháng giêng năm thứ 4 đổi làm Lại bộ thị lang, tháng 5 quyền Lại bộ thượng thư, tháng 7 kiêm Thị giảng, tháng 10 thăng làm Trung thừa. Tư Mã Quang bị giáng chức lần nữa vì việc Tuyên Huấn là ngày 18 tháng 4 năm thứ 4; Cao Sĩ Kinh dâng thư là tháng 2 năm thứ 4; vụ án Đồng Văn khởi phát là tháng 8 năm thứ 4. Khi Thứ làm ba việc này đều chưa thăng làm Trung thừa[22], Thiệu Bá Ôn ghi chép sự việc trước sau có chỗ sai, 《Tân Lục》 không xét kỹ, nên theo đó, cần phải sửa lại mới tốt.
《Tân Lục》 ngày 23 tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ 4 sau khi Lưu Phụng Thế bị giáng làm Sâm Châu, lại kể việc Hình Thứ lúc mới lên ngôi, Thứ cùng Thái Xác tự cho mình có công định sách, sau đó Xác chết nơi bị giáng, Thứ cũng bị cách chức không dùng, trong lòng oán hận. Sau đó Thứ nhân làm tướng ở Trung Sơn, gặp con của Cao Tuân Dụ là Sĩ Kinh làm tướng. Sĩ Kinh ngu muội, một hôm Thứ bày tiệc rượu, thong thả hỏi Sĩ Kinh: “Ngài có biết năm Nguyên Hựu chỉ có cha ngài không được ban ơn không?” Sĩ Kinh nói: “Không biết.” Lại hỏi: “Có anh em không?” Sĩ Kinh nói: “Có anh là Sĩ Sung, đã chết.” Thứ nói: “Đó chính là người truyền lời của Vương Khuê. Lúc đó Vương Khuê làm tể tướng, muốn lập Từ Vương, sai anh ngài là Sĩ Sung truyền lời vào trong cung, ngài có biết không?” Sĩ Kinh nói: “Không biết.” Thứ bèn dụ Sĩ Kinh bằng quan tước, nói: “Ngài không thể nói không biết, ta sẽ làm việc này cho ngài, nhưng đừng nói với ai.” Bèn sai người thân tín là Vương Vực thêu dệt lời vu cáo, làm tờ tấu cho Sĩ Kinh dâng lên, Vương Khuê vì thế mà mắc tội. Đến lúc này, Thứ làm Ngự sử Trung thừa, trước dâng chương xin truy tặng cho Cao Tuân Dụ, sau đó mới lấy cớ năm Nguyên Hựu phụ họa Lưu Chí hãm hại đại thần định sách mà luận tội giáng chức Phụng Thế.
《Thái Thao Quốc Sử Hậu Bổ Đảng Tịch Thiên》 nói rằng, xem riêng ngày mùng 4 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ nhất.
《Chu Vô Hoặc Bình Châu Khả Đàm》 nói: Tôn Khánh, Đề cử Thường bình Quảng Đông, nói với cha tôi rằng, năm Nguyên Phù thứ 2, triều đình muốn bắt Văn Cập Phủ tra hỏi một việc, không biết là việc gì. Lại sợ Văn tự sát, bèn ở Bộ Lại chọn cử Tôn đến Tây Kinh đốc thúc việc này. Tôn đến Đô đường trình bày với chấp chính rằng: “Muốn hắn không nghi ngờ, xin nơi đến bày biện linh đình.” Tôn trước đến Trịnh Châu, gặp nhà vợ Văn xin thư, sau đó đến Lạc Trung, thong thả vài ngày, mới đến cửa Văn truyền đạt thư nhà. Sau đó đưa danh thiếp xin gặp, Văn quả nhiên không nghi ngờ, ra đón. Tôn nói rõ ý mình, liền nói: “Triều đình sai tôi mời ngài, không có việc gì khác.” Quan lại xông đến, Văn không biết làm sao, cùng đến trạm dịch, thấy đồ đạc bày biện sang trọng, trong lòng hơi yên. Bèn đưa về kinh đô, đến cửa thành ngày 12 tháng giêng, Thái Lăng băng hà, việc cũng dừng, Văn không được xét mà về. Tôn từ đó nổi tiếng, được bổ làm sứ giả.
Xét ngày mùng 5 tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ 4, 《Thực Lục》 chép Thông phán Ứng Thiên phủ Tôn Khánh làm Đề cử Thường bình Quảng Nam Đông lộ. Vô Hoặc ghi chép việc này chắc chắn sai, việc bắt Văn Cập Phủ, nên là năm Thiệu Thánh thứ 4, không phải năm Nguyên Phù thứ 2, tạm ghi lại, cần xem xét thêm.
Vụ án Văn Cập Phủ, 《Lưu Xí Biện Báng Lục》 chép việc này rất chi tiết, chú thích ngày Tân Hợi tháng 5 và ngày Canh Ngọ tháng 7 năm Nguyên Phù thứ nhất, cần tham khảo trước sau, quy về một thuyết.
[29] Xu mật viện tâu: “Các châu quân dọc biên giới Hà Bắc và các ty An phủ đều đặt gián điệp, bí mật theo dõi tình hình động tĩnh ở phương bắc. Nghe nói các châu quân tuy dò biết được việc trong địch, nhưng từ lâu theo lệ không báo qua Hùng Châu, lại giấu đi không tâu lên. Từ trước đến nay, những việc tâu lên từ Hùng Châu chỉ hơi giống nhau, thực ra chỉ là một việc mà tâu báo trùng lặp, triều đình không thể biết được mức độ khẩn cấp, dễ làm lỡ việc lớn.” Chiếu cho ty An phủ lộ Định Châu Cao Dương Quan: Phàm những việc do người dò thám báo cáo, đều phải thống nhất tâu lên, không được do dự sợ hãi mà giấu giếm.
(Bố lục ngày Đinh Dậu.)
[30] Bảo Văn Các Trực học sĩ, Tri Hà Nam phủ Tạ Cảnh Ôn xin về hưu, được thăng một chức rồi về hưu, chưa nhận mệnh thì mất.
[31] Ngày Mậu Tuất, chiếu lập miếu Hiển Linh Thuận Ứng Thần Phi bên sông Ngự, lại ban áo mũ.
(Theo 《Lý Đức Thập Triều Cương Yếu》, ngày này xây thành Uy Nhung[23].)
[32] Ngày Kỷ Hợi, Tả Trung Tán đại phu, Tri Dĩnh Châu Triệu Lệnh Thước được làm Thái Bộc khanh.
[33] Ngày Canh Tý, đặt chức Đề cử Kinh Nguyên lộ duyên biên tân cung tiễn thủ, lấy Triều phụng lang An Sư Văn làm chức ấy, xin cấp bổng lộc và người theo hầu đều theo lệ của Hứa Thiên Khải, Đề điểm Thiểm Tây khanh dã. Việc này theo lời tấu xin của Chương Tiết. Mấy ngày sau, Tăng Bố dâng việc An Sư Văn xin vào chầu, trình lên Vua. Vua nói: “Đây là người Chương Đôn ưa thích, nhưng lại là thân đảng của Lã Đại Phòng, Chương Tiết tiến cử chức vụ, ắt là do hắn sai khiến.” Tăng Bố nói: “Thần vốn không quen biết người ấy, trước đây từng hỏi qua, nghe nói vợ của Đại Phòng là họ An đã mất trước đó năm năm, cùng họ cách nhau bảy tám đời, không có quan hệ thân thuộc. Nhưng Sư Văn với anh em Đại Phòng cũng có chút liên hệ.” Vua nói: “Nếu không phải thân đảng và người hắn ưa thích, sao lại muốn tiến cử làm chức Sơn lăng tiên tấu?” Tăng Bố nói: “Người này tài năng khác không rõ, nhưng chắc chắn thông thạo việc Thiểm Tây, Phạm Hi ở Tây, bàn việc biên cương nhiều điều hợp lý, Sư Văn lúc ấy đang ở trong mạc phủ.” Vua nói: “Dục chính là thân đảng của Đại Phòng.” Tăng Bố nói: “Sư Văn vốn được lệnh Đề cử tân cung tiễn thủ, nhưng phép cũ của cung tiễn thủ đã hỏng, cũng muốn cho chỉnh đốn lại.” Vua nói: “Cho vào chầu.” Nhưng rất miễn cưỡng.
(Hứa Thiên Khải làm Đề cử khanh dã, vào tháng 9 năm Thiệu Thánh nguyên niên. An Sư Văn ban đầu dùng chức Triều phụng lang bàn việc biên cương Hi Hà Lan Dân, xem ngày 11 tháng 5, ngày Giáp Tý. Tháng 7, ngày Nhâm Tuất, Vua nói với Tăng Bố: Chương Đôn nói An Sư Văn là môn hạ sĩ của Đại Phòng, lại rất tầm thường. Tăng Bố nói: Thần không quen biết, chỉ từng gặp một lần. Vua hỏi đã từng nói chuyện chưa? Tăng Bố nói: Chưa, chỉ nghe nói là người Trường An, có thể là thân cũ của Đại Phòng. Tháng 8, ngày Kỷ Hợi, Kinh Nguyên xin cho An Sư Văn làm Đề cử cung tiễn thủ, theo lời tấu. Tháng 9, ngày Ất Mão, Tăng Bố nói: Đôn tiến cử Sư Văn, cùng Thái Triệu, Kinh, Biện tiến cử Gia Sâm, Thạch Tự Khánh, đều là người họ ưa thích. Ngày Đinh Tỵ, lại vào chầu, trình việc An Sư Văn sắp xếp tân cựu cung tiễn thủ, Vua cuối cùng vẫn nghi ngờ Sư Văn, miễn cưỡng đồng ý.)
[34] Tả Tàng khố phó sứ, quyền phát khiển Định Châu lộ binh mã kiềm hạt, quyền tri Bảo Châu Trương Phó làm Tây thượng các môn phó sứ, tri Hùng Châu kiêm Hà Bắc duyên biên an phủ phó sứ. (Cuối tháng 9, Lý Thâm nói vân vân.) Lễ tân sứ, đề điểm tả sương chư giám công sự Lâm Dự làm Hà Bắc duyên biên an phủ phó sứ, vẫn quyền kiêm đề điểm tả sương chư giám công sự.
[35] Hôm đó, Chương Đôn nói với Tăng Bố rằng Trung thư lại bỏ qua việc nội phê hành đạo lạc mà không thông qua tam tỉnh bàn bạc. Khi vào chầu, Chương Đôn đem nội phê trình lên, nói rằng pháp độ thời tiên triều có thể khôi phục đều đã khôi phục, chỉ có việc này không thể khôi phục. Vua chưa đồng ý. Tăng Bố vào chầu xong, Chương Đôn hỏi: “Vua có hỏi về việc này không?” Tăng Bố đáp: “Không.”
Chương Đôn dẫn Tăng Bố đến Đô đường, đưa ra tờ tấu của Lam Tòng Hi, Đề cử Kinh thành sở, xin khôi phục việc Đạo lạc ty: Hàng hóa của quan viên, thương nhân đều chở bằng thuyền quan, hàng hóa của quan viên dưới 100 quan thì cho phép chở bằng thuyền riêng, miễn nửa tiền cước; trên 100 quan thì xử theo tội vi chế. Còn lại đều phải chuyển sang thuyền quan, ở Tứ châu và kinh sư Lạc Khẩu đều đặt kho chứa, mỗi năm thu lợi 20 vạn quan. Lại xin thuế chợ bánh mì 3 vạn quan, khôi phục thuế chuồng trâu bò 7 vạn quan. Nội phê giao Thượng thư thi hành, nhưng chưa từng bàn với chấp chính. Lại có tờ tấu của Kinh thành sở xin sai nội thần mua gỗ tu thành ở Ôn châu, Minh châu, điều 300 thuyền về sở để sử dụng, giao Trung thư. Trung thư phê chỉ, theo lệnh đã có giao Môn hạ, nhưng Môn hạ giữ lại không chuyển, nên cùng bàn luận.
Tăng Bố nói với Chương Đôn: “Việc này sao không bàn với chấp chính? Như thế là thất chức rồi.” Chương Đôn đáp: “Không chỉ thất chức, ăn đòn, phạt đồng cũng được.” Tăng Bố nói: “Tứ hải giàu có, 20 vạn không khó kiếm, mỗi năm cung cấp số đó là được.” Chương Đôn và Thái Biện đều cho là phải. Chương Đôn lại nói: “Trường trà Thủy ma đủ cung cấp chi phí này.” Tăng Bố nói: “Tiên triều kinh doanh tài lợi, chí hướng ở biên cương, con cháu kế thừa, dám quên chí ấy? Nên bỏ qua tiểu tiết để làm việc lớn. Nay may không có ý đồ đó, cần gì phải thế.” Chương Đôn nói: “Cũng không cần nói thế, chỉ là việc không tốt thời tiên triều, lúc đó làm rồi, cả đời hối hận, nay sao có thể làm?” Tăng Bố nói: “Như thế thì quá nghịch tai.” Chương Đôn nói: “Nghịch tai nhiều rồi.” Tăng Bố nói: “Chí hướng ở biên sự còn cho là không được, huống chi không phải biên sự!”
Tăng Bố bèn nói với Hoàng Lí: “Đây là chánh luận, sao không giúp?” Hoàng Lí đáp: “Đúng là nên thế.” Trong phòng chỉ có Chương Đôn, Thái Biện tranh luận, Hứa Tướng rất xấu hổ, còn lại đều im lặng. Hoàng Lí nói: “Cứ từ từ trình bày, may ra có thể thay đổi.” Sau đó Hứa Tướng cáo ốm không ra, Hoàng Lí khuyên Chương Đôn đợi Hứa Tướng ra cùng trình. Tăng Bố nói: “Cứ giữ lại không xuống, chậm cũng không sao.”
Ba ngày sau, tam tỉnh tấu việc, Vua hỏi: “Văn kiện đạo lạc sao lâu không trình?” Chương Đôn đáp: “Đang thu thập văn kiện để trình.” Vua nói: “Nghe nói việc này thật bất tiện, cứ nộp lên.” Chương Đôn nói: “Ngày mai xin chỉ.” Vua nói: “Không cần, hôm nay nộp cũng được.” Tam tỉnh lui ra nói với Tây phủ.
Bốn ngày sau, Tăng Bố tâu với Vua: “Gần đây nghe bàn việc đạo lạc, lúc đầu nghe thánh ý không theo, thần bèn nói bệ hạ thánh chất cao minh, lời nói đúng mực, việc bất tiện ắt không làm. Rồi lấy việc tiên đế dùng Tống Thủ Ước nói với tam tỉnh. Sau đó thánh ý đổi lại, không cần trình bày đã bãi, thần đều vui mừng khen ngợi không thôi.”
Vua nói: “Cứ nói bất tiện.” Tăng Bố nói: “Chợ thịt, chợ bánh đều tranh lợi với dân, sông Biện trước dẫn nước Hoàng Hà, dữ dội đáng sợ, thuyền bè công tư nhiều vụ chìm đắm, chỉ có Thanh Biện không còn nỗi lo này. Nhưng hàng hóa thương nhân đều chở bằng thuyền quan, thuyền tư không được vào Biện, người ta thực sự lo lắng.”
Vua nói: “Nội thần cũng nhiều người nói bất tiện, nói chợ bánh dù mưa bùn cũng phải chở thuyền đến quan trường.”
Tăng Bố nói: “Mỗi ngày có lợi nhuận mỗi ngày, không thể không đến, nên không tránh được mưa gió. Nay thuế vụ trong thiên hạ, giết dê hay mổ lợn đều phải mang đến nộp thuế mỗi ngày, giống như vậy[24], đến như cấm bán rượu muối cũng thế, nhưng việc này làm lâu rồi, mọi người quen thuộc, lại thu hàng trăm ngàn vạn mỗi năm, chi phí quân quốc nhờ vào đó, lý không thể bãi. Còn như đạo lạc, thu được không nhiều, quốc dụng không nhờ vào đó, lại bãi bỏ mười năm, đột nhiên làm lại, người kinh thành sẽ xôn xao.
Tiên đế kinh doanh bốn phương, tích trữ tài lợi có chỗ dùng, nên bỏ qua tiểu tiết mà làm. Bệ hạ đã không có chi phí đó, thật không cần làm, nhưng đại thần chưa kịp trình bày đã bãi, bệ hạ sáng suốt sợ nghĩa, kính trọng tin tưởng đại thần, nghe lời can gián như thế, việc thiên hạ lo gì! Lại thánh ý đổi nhanh, giống như việc Tống Thủ Ước, thánh chất sáng suốt, không khác tiên đế.
Thần đều vì việc chưa thi hành, không dám tiết lộ, chỉ nhị phủ chấp chính biết, nhưng việc này ắt ghi vào thời chính ký, bệ hạ thánh minh nghe lời như thế, muôn đời không mất, thiên hạ may mắn lắm thay!”
[36] Ngày Nhâm Dần, Tăng Bố vào chầu lần nữa, trình bày việc Đổng Đôn Dật tâu rằng vùng biên giới phía tây mở rộng, quân địch phương bắc đang nghi ngờ nguy hiểm, lại mở rộng đất đai gần Thanh Đường, xin răn dạy quan lại biên giới giữ yên tĩnh, không để dân biên giới nghi ngờ sợ hãi. Nhưng lời tâu trình bày không rõ ràng, Vua đã từng nói với hai phủ rằng lời tâu của Đôn Dật không thể hiểu được, đến nay lại nhắc lại. Tăng Bố bèn giải thích rằng lời Đôn Dật vốn như vậy, chỉ là văn tự không rõ ràng. Vua gật đầu. Đôn Dật nhiều lần bí mật công kích hai họ Thái, Thái Kinh và Thái Biện rất ghét ông, nên ý Vua cũng không vui.
[37] Ngày Quý Mão, Tây thượng các môn sứ, Đoan Châu thứ sử, quyền Hoàn Khánh đô kiềm hạt Trương Tồn bị giáng làm Dao quận thứ sử, giáng chức Kiềm hạt bản lộ. Vì khi chỉ huy quân kéo sang Kinh Nguyên tiến đánh, nhân đó phá tan Diêm Châu, gặp giặc Tây giao chiến, tổn thất nhiều, nên có lệnh này.
[38] Ngày Ất Tỵ, Thừa nghị lang Hàn Túy Ngạn được bổ làm Tư huân viên ngoại lang.
(Ngày 9 tháng 7, Túy Ngạn được dẫn vào yết kiến, ngày 27 tháng 7, Kinh Đông thường bình ty, đều nhập vào đó.)
[39] Ngày Bính Ngọ, Phu Diên tâu rằng, phái Đô giám Lưu An đánh Hạ Châu, đến Lãng Sấm Sa gặp giặc, đánh tan quân địch, chém được hơn 500 thủ cấp, bắt được hàng nghìn trâu dê.
(Sách 《Tăng Bố lục》 ngày Đinh Mùi tháng 8 chép rằng bắt được 200 thủ cấp. Nay lấy sách ngày Nhâm Tý tháng 9 và ngày Đinh Mùi tháng 8, lại dùng 《Huệ Khanh truyện》 thêm vào; 《Gia truyện》 chú thêm ngày Bính Tuất tháng 8.)
[40] Ngày Mậu Thân, Tô Châu quan sát sứ, Ngô Quốc công Tông Nhương được làm Chiêu Khánh quân lưu hậu.
[41] Ngày Kỷ Dậu, sao chổi xuất hiện ở khoảng sao Đê, hướng chếch về phía Thiên Thị Viên, ánh sáng dài khoảng hơn ba thước, đến ngày Mậu Thìn tháng 9 thì biến mất.
(Sách 《Thiên văn chí》 chép: Ngày Kỷ Dậu tháng 8, sao chổi xuất hiện ở độ sao Đê, giống như sao Thổ, có ánh sáng, màu trắng, khí dài ba thước, hướng chếch về phía Thiên Thị Viên. Sao chổi chủ về binh đao, tang tóc, lũ lớn và có ân xá. Ngày Nhâm Tý tháng 9, ánh sáng dài năm thước, di chuyển vào trong Thiên Thị Viên, chủ về ngũ cốc đắt đỏ; ngày Kỷ Mùi, xâm phạm sao Hoạn Giả trong Thiên Thị Viên, chủ về thị thần có lo lắng; ngày Canh Thân[25], xâm phạm sao Đế Tọa trong Thiên Thị Viên, chủ về dân chúng loạn lạc, đại thần lo lắng, dự đoán trong ba năm; ngày Mậu Thìn, sao chổi tan biến không thấy nữa.)
[42] Xu mật viện tâu: “Giặc phương Tây đang tập hợp quân mã, định tiến đánh Kinh Nguyên. Lo ngại giặc phương Tây âm thầm nuôi dưỡng âm mưu xấu, lợi dụng sự sơ hở của ta, tiến sâu vào vùng nội địa, đến các khu vực đông dân cư như Long Đức, Tĩnh Biên, Trị Bình Trại, hoặc các thành trại phòng thủ yếu kém để cướp bóc và tấn công.” Chiếu chỉ cho Kinh Nguyên lộ kinh lược ty xem xét kỹ các sự việc trên, chuẩn bị nhiều phương án ứng phó. Nếu gặp tình huống khẩn cấp, quân giặc tiến sâu vào nội địa, cần cử tướng tá nào, điều động binh mã ra sao, kiểm soát các vị trí then chốt để ngăn chặn đường tiến của giặc, chuẩn bị phòng thủ, không để các thành trại nội địa và khu vực đông dân cư bị cướp bóc, tấn công, rơi vào tay giặc, đồng thời vẫn đảm bảo phối hợp với đại quân, hợp lực tiêu diệt quân giặc, nhất định giành thắng lợi hoàn toàn. Trước tiên phải báo cáo các phương án đã chuẩn bị, chọn cử các tướng lĩnh chỉ huy, chức vụ, tên tuổi, số quân mã được điều động, vị trí đóng quân và các kế hoạch ứng phó cụ thể.
(Theo tấu nghị của Chương Tiết ghi chép trong mật trát ngày 25 tháng 7. Tiết đã báo cáo rất chi tiết, đến ngày 11 tháng 9, văn bản dài nên không chép hết.)
[43] Tháng này, Xu mật viện tâu rằng Thái bộc xin sửa chữa hai ngự điện ở Tả, Hữu Thiên tứ giám để chuẩn bị cho việc xa giá đi Bắc giao vào giám xem ngựa. Vua cười nói: “Không cần thiết.” Tăng Bố nhân đó tâu rằng cung khuyết, đàn duy ở Bắc giao đều đã chuẩn bị xong, nghe nói sang năm sẽ tổ chức Nam giao, có đúng không? Vua nói: “Có người bàn rằng chưa từng chuyên tế ở Viên Khâu, nên trước hết bãi bỏ hợp tế ở Nam giao, sau đó mới tế Bắc giao, như vậy có gì trở ngại không?” Bố nói: “Như vậy cũng không trở ngại gì, nhưng bên ngoài đều cho rằng trời nóng nực, không thể xem Bắc giao, nên bãi bỏ.” Vua nói: “Làm gì có lý như vậy!” Bố nói: “Các sĩ đại phu đều nói như vậy, vì họ xa cách không hiểu thánh ý. Nhưng tiên đế đã từng bãi bỏ hợp tế ở Nam giao, bệ hạ năm ngoái lại hợp tế ở Nam giao, nay chuyên tế ở Viên Khâu cũng không sao, chỉ cần không bỏ hẳn lễ này để hoàn thành chí nguyện của tiên đế thì tốt. Thần từng nói với người khác, nóng nực không gì bằng ngày yến tiệc Khôn Thành tiết, quân thần trên dưới suốt ngày mũ áo chỉnh tề, chưa từng vì nóng mà bỏ. Tháng năm khí nóng chưa dữ dội, năm canh hành lễ, rạng sáng đã xong, có gì nóng nực?” Vua rất tán thành.
(Sách 《Bố lục》 chép việc này vào ngày Bính Ngọ tháng tám, nay phụ vào cuối tháng tám.)
[44] Sai Lễ bộ Thị lang Phạm Thang, Tả tàng khố sứ kiêm Cáp môn Thông sự Xá nhân Hướng Tể sang chúc mừng sinh thần Bắc triều, Thái thường Thiếu khanh Lâm Thiệu, Cung bị khố sứ kiêm Cáp môn Thông sự Xá nhân Trương Tông Tiết sang chúc mừng chính đán Bắc triều.
(Việc này căn cứ theo 《Quốc tín danh ngự lục》, còn 《Thực lục》 thì nói không có.)
- Năm Nguyên Hựu thứ ba tu sửa thêm 'tu sửa thêm', bản các làm 'từng tu sửa'. ↵
- Chỉ vì chưa biết phương pháp mà thôi, bản các bản có thêm chữ 'khủng'. ↵
- Lô Biện nguyên bản là 'Lô Biện', căn cứ theo 《Chu thư》 quyển 24, 《Bắc sử》 quyển 30, Lô Biện truyện sửa lại. ↵
- Ba loại này đều là chế độ cổ xưa, chữ 'tam' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 chức quan 56-22 và ý văn bổ sung. ↵
- Quân ta thừa thắng tu bổ Gia Lô, trên dẫn 《Tống hội yếu》 chữ 'tu' có thêm chữ 'phục'. ↵
- Lĩnh Nam giáng chức người Nguyên Hựu cùng nhau hành động, sách 《Vương Củng Giáp Thân tạp ký》 chữ 'giáng' có thêm chữ 'nhân' ↵
- 'Lệnh quốc môn nghe chỉ dụ', chữ 'quốc môn' nguyên bản là 'quốc dân', theo sách trên sửa lại ↵
- 'Sai người đến Lĩnh Nam giết những người đó', chữ 'giết' nguyên bản là 'tộc', theo sách trên và ý văn sửa lại ↵
- 'Lại mời Trình Công Tôn làm Quản câu Sát phỏng bên ngoài', chữ 'sự' trong sách trên viết là 'chuyên' ↵
- 'Ba lần xin tự xử', sách trên có thêm chữ 'Văn' ↵
- 'Có chỉ dụ cho Văn, Lưu được tự do', sách trên có thêm hai chữ 'có chỉ' ↵
- 'Mỗi người trở về bộ cũ', sách trên chữ 'mỗi' viết là 'Lữ' ↵
- 'Nguyên chỉ và công án cực kỳ bí mật cùng với nguyên trạng', chữ 'cực mật' nguyên bản là 'Xu mật', theo sách trên và ý văn sửa lại ↵
- Ngày 4 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ nhất kết thúc vụ án, chữ 'ngũ' nguyên là 'cửu', theo các bản và chú thích nhỏ ở trên sửa. ↵
- Mặt trắng như phấn, chữ 'phó' nguyên là 'truyền', theo các bản và chú thích nhỏ ở trên sửa. ↵
- 'Chấp' nguyên là 'Báo', theo các bản khác sửa. ↵
- Chữ 'ngục' nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 471 truyện Chương Đôn và văn dưới bổ sung. ↵
- lệnh dùng lời của Thái hoàng thái hậu để chiếu dụ Lưu An Thế và những người khác 'ngữ chiếu', các bản khác chép là 'Thánh ngữ'. ↵
- Các bản khác chép 'áo' dưới có thêm chữ 'chín mươi'. ↵
- Chữ 'nay' nguyên bản là 'lệnh', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại ↵
- Chữ 'lệnh' nguyên bản là 'nay', theo các bản khác sửa lại ↵
- Chữ 'nguyệt' nghi là thừa ↵
- Thành Uy Nhung nguyên bản viết là 'Uy Vũ thành', xét thời Tống không có 'Uy Vũ thành', căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 87, 《Địa lý chí》, 《Tống hội yếu》 phương vực 18/7, 《Tục thông giám》 quyển 85 và sách này quyển 487, điều Thiệu Thánh năm thứ 4 tháng 5 ngày Kỷ Mùi sửa lại ↵
- giống như vậy 'giống' nguyên là 'thuyền', do hình gần mà sai, theo bản khác sửa. ↵
- Nguyên văn là 'Canh Thìn', căn cứ theo các bản khác, bản in hoạt tự và sách 《Tống sử》 quyển 56, 《Thiên văn chí》 sửa lại. ↵