"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 496: NĂM NGUYÊN PHÙ THỨ NHẤT (MẬU DẦN, 1098)

Bắt đầu từ ngày Quý Hợi tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất đời Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Ngày Quý Hợi tháng 3, Viện Xu mật tâu: “Viên ngoại lang Tư huân Hàn Túy Ngạn và các quan khác tâu rằng: Sứ giả đi qua các châu, quân trên đường, các khoản rượu thịt và lương thực đã được quy định, đồ dùng bày biện cũng đều mới sắm đủ, chỉ có những người phục vụ ở các trạm trong phủ giới được điều từ kinh đô đến, cùng với rượu thịt chưa được dồi dào. Ở các trạm nghỉ trong phủ giới và các điểm quản lý dọc đường, đều cử hai hoạn quan phụ trách, rõ ràng khó quản lý chu toàn. Xin từ nay áp dụng theo quy định của các châu, quân dọc đường, mỗi trạm thêm một quan chức chuyên trách, và lấy quy định về rượu thịt lương thực của các trạm dọc đường để cung ứng đồng nhất. Đồ dùng bày biện cũng xin giao cho các cơ quan liên quan sửa chữa, thay mới và bổ sung.” Chiếu chỉ: “Không cần điều hoạn quan và người phục vụ từ kinh đô nữa, chỉ giao cho các quan lệnh, tá tại địa phương quản lý và sắp xếp, giao cho quan ty đề điểm phủ giới đốc thúc và kiểm tra. Những người phục vụ cần thiết, cho phép tuyển chọn từ quân cấm trong huyện bản xứ và các huyện lân cận, bất kể thuộc tướng hay không thuộc tướng. Đồ dùng và vật dụng bày biện cần thiết, giao cho ty đề điểm phủ giới đặc biệt chế tạo, lập kho tại địa phương để quản lý. Các quy định về sắp xếp và quản lý đều áp dụng theo quy định của các châu, quân thuộc Hà Bắc và Kinh Tây lộ.”

(Bản mới đã bỏ, cần thay thế đoạn này.)

[2] Ngày Ất Sửu, Triều tán đại phu, Trực bí các, Quyền Thiểm Tây chuyển vận sứ Trương Tuân được bổ nhiệm làm Trực long đồ các, Quyền tri Hi Châu. Chung Truyền, người bị giáng làm Thông trực lang, Quyền quản câu Hi Châu sự, lại bị giáng tiếp làm Tuyên đức lang, thêm chức Giám thuế Vĩnh Châu.

[3] Trước đó, Chung Truyền lại hẹn với Lục Sư Mẫn hội quân, nhưng chưa đến nơi lại rút lui, khiến quân mã Tần Phượng mệt mỏi không chịu nổi. Dù không tham gia tiến đánh, nhưng vẫn được đặc cách chiếu cấp. Chung Truyền vì làm quân Tần Phượng mệt mỏi và tấu báo phản phúc, lừa dối, không gì khác ngoài việc lừa gạt. Chương Đôn ban đầu định cho làm tản quan, nhưng Thái Biện nói Hoàng Lý từng nói: “Truyền tuy đáng tội, nhưng là người đầu tiên khởi xướng việc biên giới, công lao cũng không thể quên.” Tăng Bố cho rằng điều đó là đúng. Hơn nữa, đức âm cũng từng khen: “Công lao tiến đánh, Truyền đứng đầu”, nên mới có mệnh lệnh này.

(Trịnh Cư Trung viết bia thần đạo của Chung Truyền ghi: “Có việc tố cáo thảo nguyên mạo thưởng, bị giáng làm giám thuế Vĩnh Châu”, khác với nhật lục của Tăng Bố. Ngày 21 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4 có thể tra cứu. Bản truyện của Chung Truyền ghi: “Vì bàn luận khác biệt, đắp giếng cạn không thành, bị cách chức giáng quan. Lại có việc tố cáo thảo nguyên mạo thưởng, bị giáng làm Tuyên Đức lang, giám thuế Vĩnh Châu[1], Biệt giá Liên Châu, an trí ở Thiều Châu.” Theo nhật lục của Tăng Bố, việc Chung Truyền bị cách chức giáng quan không chỉ vì bàn luận khác biệt, đắp giếng cạn không thành. Ngày 5 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 3, Chung Truyền vì tiến đánh thành An Tây, được thăng làm Thông Trực lang. Ngày 11 tháng 4 năm Thiệu Thánh thứ 4, Chung Truyền vì tiến đánh Kim Thành quan, được thăng làm Thừa Nghị lang, Trực Long Đồ các. Ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Phù thứ nhất, Chung Truyền vì xuất quân đánh dẹp, được thăng làm Tập soạn. Ngày 11 tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất, bị cách chức Tập soạn, giáng làm Thông Trực lang. Ngày 16 tháng 3 năm Nguyên Phù thứ nhất, giáng làm Tuyên Đức lang, giám đương Vĩnh Châu. Ngày 22 tháng 2 năm Nguyên Phù thứ hai, bị giáng làm Biệt giá Liên Châu, an trí ở Thiều Châu. Cuối năm Nguyên Phù, với tư cách tản quan an trí ở Thiều Châu, được phục chức Thừa Nghị lang, tri quân Tín Dương. Sau đó đổi làm Tri châu Mật, có người bàn luận, đổi làm Tri châu Lễ.)

[4] Cùng bàn về việc chọn tướng ở Hi Châu, Chương Đôn nói: “Thần dám bảo đảm Trương Tuân có thể dùng được. Nếu có việc thất bại, thần xin nhận trách nhiệm một mình.” Vua nhìn mọi người hỏi: “Thế nào?” Tăng Bố nói: “Thần không hiểu rõ về Tuân, chỉ thấy Đôn nói Tuân trầm tĩnh, cẩn thận, có quyết đoán, có thể giao việc; và Chương Tiết trước đây xin từ chức, cũng xin dùng Tuân thay thế. Đôn là tể tướng, nên nghĩ đến kế sách lớn về an nguy nơi biên cương, nếu dẫn dắt người thân thích, không lo lắng cho kế sách biên cương, thì tội không thể tha thứ. Đôn đã nhận trách nhiệm, hãy thử dùng Tuân, như Tôn Lộ thuần thực, ổn định, cẩn thận, hoặc có thể làm được việc, cũng chưa biết chừng.” Vua nói: “Như vậy thì dùng Trương Tuân.” Vì Đôn hai ngày trước đã từng tâu kín, nên Vua đồng ý mà không khó khăn.

[5] Trước đó, Vua nhiều lần nói Tuân không phải là tài năng làm tướng. Vì Đôn tiến cử trong nội bộ, lại xin nhận trách nhiệm một mình, cùng với việc bỏ Tuân cũng chưa có người nào xuất sắc hơn, nên thử dùng.

[6] Chiếu cho Thân vương Tất, Đoan vương Cát mỗi người hàng năm được cấp thực tế 8.000 quan tiền công sứ.

[7] Tam tỉnh tâu: Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Thái Kinh cùng các quan tâu rằng:

[8] “Vâng chiếu bàn định việc xác minh ngọc tỷ mà dân Hàm Dương là Đoàn Nghĩa dâng lên. Thần đã lấy lời khai của Đoàn Nghĩa, xác nhận rằng vào tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 3, khi đào đất xây nhà ở thôn Lưu Ngân, huyện Hà Nam[2], đã đào được ngọc tỷ, không phải từ trong khu mộ. Khi ấy có ánh sáng chiếu đầy nhà, và có chữ triện trên ngọc tỷ. Chữ triện này phù hợp với chữ triện của tướng nhà Tần là Lý Tư, có hình rồng, phượng, chim, là loại chữ trùng triện cổ. Xét về thể thức, từ thời Hán, Đường trở về sau, các văn bản khắc trên đá, đồng, không có cái nào tinh xảo như thế này. Lại có thợ ngọc nói rằng, cách chế tác ngọc tỷ này không phải là thợ ngày nay có thể làm được. Thần đã lấy sách ghi chép về ngọc tỷ trong Bí các để đối chiếu với sử sách các đời, đều không khớp. Nay chỉ căn cứ vào chính sử các đời, bỏ qua những sai lầm trong các sách và chú giải của các nhà, để xác minh sự thật về việc truyền thụ ngọc tỷ.”

[9] Xét ngọc tỷ được dâng lên, màu sắc xanh như lam, mềm mại và bóng loáng, trên đó khắc chữ: “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương.” Mặt sau có hình rồng năm vòng, giữa các vòng có lỗ nhỏ[3], dùng để xỏ dây. Lại có được một đầu rồng bằng ngọc, ngọc này trắng như sữa, cũng mềm mại, mặt sau cũng có hình rồng năm vòng, giữa các vòng cũng có lỗ nhỏ để xỏ dây[4], mặt trước không có chữ, khớp với ngọc tỷ, kích thước vuông vắn, không sai lệch chút nào. Chữ triện và cách chế tác đều không phải là của thời gần đây.

[10] Thần nay xét chữ trên ngọc tỷ, chữ “Hoàng đế thọ xương” là ngọc tỷ của nhà Tấn; chữ “Thụ mệnh vu thiên” là ngọc tỷ của nhà Hậu Ngụy; chữ “Hữu đức giả xương” là ngọc tỷ của nhà Đường; chữ “Duy đức doãn xương” là ngọc tỷ của nhà Thạch Tấn; vậy chữ “Ký thọ vĩnh xương” chắc chắn là ngọc tỷ của nhà Tần. Nay tìm được ngọc tỷ ở Hàm Dương, ngọc có màu Lam Điền, chữ triện là thể chữ tiểu triện của Lý Tư, chữ khắc nổi chứ không chìm, chữ được trang trí bằng hình rồng, phượng, chim, cá, theo phép chữ trùng thư và điểu tích, cách chế tác mang phong cách cổ xưa mà không hoa mỹ như hiện nay, những sách cổ truyền lại không thể so sánh được, và người khéo tay chế tác chữ triện cũng không thể bắt chước được, rõ ràng không phải là tác phẩm của thời Hán về sau!

[11] Nay Bệ hạ kính nhận phúc trời, nối giữ ngôi báu của tổ tông, mà thần tỷ tự nhiên xuất hiện, chữ trên đó viết: “Thụ mệnh trời, vừa thọ vừa thịnh”, thì đó là vật trời ban, sao có thể coi thường! Xưa các vị Vua thiên hạ, thịnh vượng không ai bằng nhà Chu, chỉ có đao đỏ, ngọc bích lớn, ngọc quý, ngọc lớn, cầu trời, đồ sông, áo múa, giáo của Đoài, cung của Hòa, tên của Thùy làm báu vật trọng yếu. Từ Hán, Tấn về sau, được bảo đỉnh, vật lành còn báo miếu, đổi niên hiệu, xá tội, chúc thọ, huống chi là vật truyền quốc! Có người nói: “Vật nhà Tần làm, có gì đáng quý!” Nhưng Hán Cao Tổ phá Tần mà được nó, Quang Vũ hàng Bồn Tử mà nhận nó, dùng làm vật dụng[5], gọi là “Truyền quốc”, rồi tế miếu Cao, ban tước cho dân. Như Đông Tấn vượt sông, đời sau chê là không có tỷ, bèn dùng mưu kế, khởi binh để lấy nó. Xem ra nó quý trọng như vậy. Kính nghĩ Hoàng đế Bệ hạ lòng thành kính trời, hiếu thảo đất, sáng suốt rõ ràng, đức lớn ngày càng cao, sẽ hợp với sự biến hóa của trời đất, nên linh phù hiện điềm lành, thần bảo xuất hiện ứng nghiệm, để tỏ rõ mệnh trời, nếu không hết lòng hết lễ thì không xứng đáng. Bọn thần vâng chiếu chỉ, được thảo luận, bỏ các thuyết giả của các nhà, mà dựa vào chính sử, khảo nghiệm rất rõ. Ngọc tỷ này, đúng là báu vật truyền quốc từ trước nhà Hán. Pháp vật lễ nghi, xin giao cho bộ phận liên quan thi hành. Chiếu lệnh Lễ bộ, Thái thường tự khảo cứu việc cũ, định rõ rồi tâu lên.

(Ngày 17 tháng giêng được ngọc ấn, ngày mùng một tháng 5 nhận. Tháng 4 năm Sùng Ninh thứ 5, Lý Công Lân truyền chép, Công Lân cho là tỷ nhà Tần, bàn rất kỹ. Cốt yếu cũng không cần chép đủ.)

[12] Ngự sử trung thừa Hình Thứ tâu: “Trương Thuấn Dân được bổ làm Trực Long Đồ các, quyền Thanh Châu. Xét Thuấn Dân tư chất và danh vọng còn non nớt, chưa nên vội được giữ chức Thanh Châu. Huống chi Thuấn Dân trong khoảng thời Nguyên Hựu, hành tung lẫn lộn, nay được bổ dụng không theo thứ tự, thực sự làm kinh động dư luận. Vì nghĩa không thể không làm, nên phải tâu lên, mong bãi bỏ.” Quyền điện trung thị ngự sử Đặng Phỉ tâu: “Trương Thuấn Dân trước đây trong thời Nguyên Hựu, khi các đại thần thay đổi và làm rối loạn hiến pháp, mà Thuấn Dân từng giữ chức Ngự sử, thuộc quan của Tể tướng, chỉ nghe nói giúp kẻ gian, không thấy có chính kiến[6], xét theo pháp luật hiện nay[7], cũng nên bị đày, không biết vì lý do gì lại được thăng chức? Xin thu hồi mệnh lệnh đã ban.” Chiếu rằng mệnh lệnh bổ nhiệm Trương Thuấn Dân không được thi hành.

(Ngày 13 bổ nhiệm.)

[13] Xu mật viện tâu: Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ Tôn Lộ tâu xin đặt tên cho trại Tây (Tâm Tế) (Khẩu Di) sau khi hoàn thành việc xây dựng. Chiếu ban tên là Hoành Sơn trại.

(Ngày 7 ban thưởng đặc biệt cho quân xây dựng.)

[14] Kinh lược sứ Kinh Nguyên lộ Chương Tiết tâu:

[15] Theo tờ trát của Xu mật viện ngày 27 tháng 2, có đoạn văn về chỉ thị của thánh chỉ. Thần xét thấy Cửu Dương Cốc đã khởi công xây dựng trại 800 bước, sắp hoàn thành, còn Thạch Môn, Sàng Địa Chưởng thì chưa chọn địa điểm để khởi công.

[16] Từ ngày 26 tháng 2, sau khi quân mã tiến vào địa giới Phiền, đã dò xét được Cửu Dương Cốc, cách Bình Hạ thành khoảng 30 dặm, đi qua Hậu Thạch Môn, gần Dã Cầm Xuyên, chính là con đường mà quân Tây tặc thường qua lại. Nếu không xây dựng pháo đài, thì quân dân qua lại, người làm ruộng và đốn củi sẽ không tránh khỏi nạn cướp bóc và giết chóc. Lại nữa, phía bắc Sàng Địa Chưởng có nơi gọi là Nê Bằng Chướng, cũng là con đường trọng yếu. Cửu Dương Cốc cách Trấn Khương Trại khoảng 30 dặm, phía tây tiếp giáp với vùng đất hoang, núi sông hiểm trở, đều là đường đi của giặc. Nếu không xây dựng pháo đài, không chỉ quân dân qua lại gặp khó khăn, mà cả những người được chiêu mộ làm cung thủ cũng không dám canh tác, khiến thành trại xây dựng tốn kém mà không có lợi ích thực tế, lại thêm nỗi lo tăng thêm quân phòng thủ, chia lực lượng yếu đi. Thần vì thế mà âm thầm muốn bổ sung hoàn chỉnh hệ thống phòng thủ, bảo vệ và tập hợp nhân dân, biến đất hoang thành ruộng tốt, quân phòng thủ nhờ vào người canh tác, như vậy thì quốc dụng có thể tiết kiệm, binh lực có thể mạnh lên, đất Thiên Đô đã là của ta, dù địch có cố chấp, chúng cũng sẽ tự diệt vong.

[17] Trước đây từng tâu xin xây dựng trại và đắp lũy ở Hậu Thạch Môn và Sàng Địa Chưởng, các địa danh này đều nằm trong vùng đất mới khai phá, chỉ nghe qua lời đồn, chưa từng cử quan viên đến khảo sát, nay mới thấy rõ lợi hại. Xét về địa lý, Hậu Thạch Môn cách Dã Cầm Xuyên, Sàng Địa Chưởng cách Nê Bằng Chướng đều rất gần. Thần đã mở rộng bờ cõi, lại đặc biệt chú trọng việc này, vì muốn tạo lợi thế vững chắc và tăng cường quân sự cho quốc gia, chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Nay theo chỉ dụ triều đình, đình chỉ việc xây dựng các lũy đã tâu trước. Xét lại, núi Thiên Đô nằm ở phía tây bắc Cửu Dương Cốc, cách Trấn Khương Trại hơn một trăm dặm, còn Sàng Địa Chưởng và Nê Bằng Chướng thực sự nằm ở phía tây. Phía nam Trấn Khương Trại đến Hoài Viễn Trại có thêm Mộc Ngư Xuyên, cũng là đường giặc thường qua lại. Dù sau này có tiến hành xây dựng, chiếm cứ Thiên Đô, thì phía tây Cửu Dương Cốc và Trấn Khương Trại cũng cần phải có phòng thủ, mà Dã Cầm Xuyên hiện là đường giặc thường xuyên qua lại. Theo ý kiến của thần, những việc cấp bách này, triều đình lại cho là không quan trọng. Thần muốn im lặng không nói, nhưng việc xây dựng thành trại, mở rộng đất đai như đã trình bày trước đây, nếu cứ tranh luận nhiều, sẽ trái ý triều đình, ắt bị trừng phạt. Tuy nhiên, thân đang gánh vác trọng trách ngoài biên cương, lo toan việc biên phòng, nếu không được triều đình tin tưởng, còn mặt mũi nào nhìn tướng sĩ nữa! Từ nay về sau, nếu có làm gì, mong tướng sĩ tuân theo hiệu lệnh, giữ kỷ luật, cũng đã khó lắm rồi! Kính xin triều đình trước hãy cách chức thần, sau đó cử quan thị tòng hoặc thân tín đến khảo sát thực tế. Nếu lời thần sai lầm, xin trừng phạt nặng để răn đe tướng soái. Thần hiện đang chờ hoàn thành việc xây dựng Cửu Dương Cốc, phân bố quân mã, rồi sẽ lên đường đến Vị Châu nghe chỉ thị.

[18] Hoàng thiếp tử:

[19] Thần năm ngoái vào mùa đông được bệ hạ triệu từ phương xa về, giao phó việc kinh lược Kinh Nguyên. Triều đình đang bàn việc tiến hành xây dựng, thần cũng từng đến Xu mật viện xem qua các kế hoạch mà các quan tấu trình, cũng như những bàn luận của triều đình, nhưng chưa thấy ai đề cập đến việc xây dựng ở Hồ Lô Hà, Biển Giang Xuyên, Tiền và Hậu Thạch Môn, chỉ có Chung Truyền muốn xây dựng ở Nam Dương Xuyên, Ngõa Hòa Thị, Thiện Chinh Bạc Bá. Triều đình đã hạ chỉ, lệnh cho Chung Truyền hợp binh mã ba lộ Hi, Tần, Kinh Nguyên để tiến hành xây dựng. Thần lập tức tại Tam tỉnh và Xu mật viện, trước mặt các quan, dâng sớ bác bỏ việc này, nhờ đó được chỉ huy, lệnh cho thần tự nhận trách nhiệm một nơi. Thần đã nhận chức vụ, xem xét kỹ lưỡng những điều Chung Truyền tấu trình, cân nhắc lợi hại, nhưng chưa thấy có lý do gì để thực hiện. Sau khi nhậm chức được tám ngày, thần đề xuất xây dựng ở Tiền Hậu Thạch Môn Hạp, Hảo Thủy Hà, Cổ Cao Bình, Biển Giang và các nơi khác. May nhờ uy linh của bệ hạ, thần mới hoàn thành được việc.

Nhưng vùng đất mới khai phá, từ trại Hi Ninh phía bắc đến thành Bình Hạ chỉ khoảng bốn mươi dặm; từ Cổ Cao Bình phía tây đến trại Trấn Khương hơn năm mươi dặm; từ Hoài Viễn phía bắc đến Cửu Dương Cốc khoảng sáu mươi dặm; từ Cửu Dương Cốc phía đông đến bờ Hồ Lô Hà[8], chỉ khoảng năm mươi dặm. Các thành trại xây dựng trên vùng đất mới, phía bắc có núi lớn ngăn cách, đường quân địch đến chỉ có năm sáu chỗ. Còn từ bờ Hồ Lô Hà đến Cổ Cao Bình, chính là mười con sông, và từ Hoài Viễn đến Cửu Dương Cốc sáu mươi dặm, đường quân địch đến rất nhiều. Nếu không xem xét kỹ những nơi trọng yếu, tăng cường xây dựng các bảo trại, thì tương lai chắc chắn sẽ có nguy cơ bị cướp bóc, gây hại cho khách thương đi lại. Hai trại không thể hỗ trợ lẫn nhau, chỉ dùng biện pháp trừng phạt các quan trại và tuần kiểm địa phương, dù có trách phạt hàng ngày, cũng không thể ngăn chặn được sự thất thoát. Những người bàn luận cho rằng thần già yếu và nhút nhát. Thần năm nay đã bảy mươi hai tuổi, đầu óc lẫn lộn, không dám từ chối lời chê trách về sự nhút nhát. Chỉ mong bệ hạ chọn người không nhút nhát thay thế thần, để việc biên cương sớm được ổn thỏa.

[20] Lại nói, tháng 3 năm ngoái, tiến hành xây dựng và khai khẩn hơn 40 dặm, dựng hai trại thành, ruộng tốt gần mười nghìn khoảnh. Tuy đã chiêu mộ được các tay cung tên, nhưng nay thần đích thân đến nơi, chỉ thấy gần các trại thành và xung quanh pháo đài Cổ Cao Bình mới xây, mới có người canh tác, chỉ khoảng một phần trăm. Còn từ phía đông bắc thành Bình Hạ đến bờ sông Hồ Lô, không một người nông dân nào dám ra đồng làm việc. Đất đai nơi ấy không phải không màu mỡ, người dân cũng không phải không muốn, chỉ vì giặc phương Tây ngày đêm ẩn nấp, rình rập cướp bóc, nếu ra đồng sẽ có nguy cơ mất mạng, nên người canh tác há chẳng sợ hãi! Thần nghe các tướng bàn luận, đang muốn xây thêm các pháo đài bảo vệ nông dân, để ai nấy đều có kế sinh nhai, sau khi mùa màng thu hoạch, quan phủ sẽ tính toán thu mua lương thảo, không để lãng phí quốc dụng. Đã được triều đình chỉ thị, thần không dám bàn luận thêm. Nhưng lời nói điên rồ của thần lại liên quan đến việc nhàn rỗi, đây là do thần quá ngu muội, không dám tự lừa dối để cầu hợp ý triều đình. Kính mong bệ hạ suy xét kỹ lưỡng[9], chọn người tài năng mẫn tiệp, có thể thực hiện ý chỉ của triều đình thay thần, để thần sớm được về quê, thật may mắn biết bao! Thật may mắn biết bao!

[21] Lại nữa, thần ở bản lộ quan sát việc Lý Kế Hòa, Tào Vĩ xây dựng trại, đặt đồn, ý đồ của họ đại khái có thể khảo chứng. Hai trại Tam Xuyên và Định Xuyên cách nhau chỉ mười tám dặm, mà các đồn trại ngoài núi đều nhìn thấy nhau, địa lý rất gần. Giặc Tây vẫn thỉnh thoảng cướp bóc, nhưng không thể gây họa lớn, nhờ phòng thủ kiên cố, đến nay vẫn được lợi. Nhờ đó mới có thể yên ổn tuyển dụng dân bắn cung, khai khẩn đất đai, cày cấy chăm chỉ, trở thành vùng đất giàu có, có quân đội thiện chiến. Như vậy thì có lợi cho quốc gia, có ích cho dân chúng. Nay nghe nói các lộ đua nhau xây dựng, lấy việc tiến sâu vào xa làm tài. Sau khi thành lũy xây xong, quân mã theo số cũ của các lộ tất phải chia nhau đi canh giữ, thành trại cách xa nhau, ngày sau ắt có hậu họa. Các lộ chỉ có quân số cũ, đã phải phân bố phòng thủ các lũy mới, nếu giặc Tây đột nhiên tập trung toàn lực tấn công một lộ, không biết lấy gì để chống đỡ? Bởi việc lớn không làm từ từ, thánh nhân có lời răn “muốn nhanh thì không đạt”. Thần mỗi lần nghĩ đến, thật lấy làm lo lắng. Lại xin bệ hạ thấu suốt lòng thành của kẻ ngu này.

[22] Lại nữa, thần cũng biết rằng các lộ tiến hành xây dựng, tự dùng binh lực của một lộ, trong thời gian ngắn đã hoàn thành ở từng nơi, không chỉ nhờ vào việc đắp cao, cắt gọt thành thành, mà công việc xây dựng cũng rất tiết kiệm, bởi vì đó không phải là địa điểm trọng yếu của nước Hạ, nên họ cũng không đến tranh giành. Tháng ba năm ngoái, bản lộ xây dựng hai thành trại, mà quân Tây tặc tập trung toàn lực lượng đông đảo. Nay tại Cửu Dương Cốc khởi công ba ngày sau, đã có hơn sáu vạn kỵ binh phân bố hai bên Thiên Đô Sơn, chỉ chờ quân mã ở trại trung tâm tập hợp đầy đủ, sẽ đến đánh úp, thì việc hành động của bản lộ không thể so sánh với các lộ khác. Thần năm ngoái từng ủy thác cho Chủng Phác tiến hành xây dựng ở Biển Giang, Phác kiên quyết muốn mượn quân từ lộ lân cận, tự nói rằng bộ binh và kỵ binh không đủ tám vạn, lại không tập hợp bảo giáp, không dám hành động. Mùa xuân năm nay, Chủng Phác ở Hoàn Châu xây dựng Hôi Gia Chuỷ, chỉ dùng hơn hai vạn quân, cũng đã thành công. Thần nghĩ rằng một Chủng Phác, ngày trước không phải là nhút nhát, ngày nay không phải là dũng cảm, mà là vì việc có khó dễ, lý có thể làm và không thể làm, đó là lý do khiến Phác khi thì nhút nhát, khi thì dũng cảm. Mong bệ hạ rộng xem xét, lắng nghe nhiều, xem xét kỹ tình thế, suy xét việc quân địch có tranh giành hay không, thì sự thực khó dễ sẽ rõ ràng.

[23] Lại nữa, Nê Bằng Chướng, Đại Chướng Loan, Thượng Hạ Mộc Ngư Xuyên đều là đường quân Tây tặc đến. Nay xây dựng Cửu Dương Cốc, cách Trấn Khương Trại không xa, lại thần phân bố binh mã dọc đường chặn đánh, nên họ không dám đến cắt đứt đường vận chuyển lương thực. Nếu sau này tiến hành xây dựng Thiên Đô, hoàn toàn dựa vào xe lớn vận chuyển đến Cửu Dương Cốc. Từ Cửu Dương Cốc trở đi không thể dùng xe, phải dùng nhân phu và súc vật vận chuyển. Từ Trấn Khương Trại đến Thiên Đô hơn trăm dặm, đường quân địch nhiều, thần cũng không dám đảm bảo đường vận chuyển lương thực không bị quân Tây tặc cắt đứt. Vạn nhất cứu đông đánh tây, đánh đầu ứng đuôi, há chẳng nguy hiểm sao? Xin triều đình xem xét kỹ.

[24] Ba tỉnh và Xu mật viện xem xét: “Triều đình trước đây đã ra chỉ thị, chỉ vì ở Cửu Dương Cốc đã xây dựng thành trại, nên sau đó ở Thạch Môn và Sàng Địa Chưởng không cần tiến hành xây dựng thêm, lo ngại sẽ lãng phí tài lực của công và tư. Nếu ở các nơi đó cần xây dựng các pháo đài bảo vệ đường đi và canh tác ở giữa đường, thì việc này cũng giống như việc ở Cổ Cao Bình và Tháp Tử Chủy. Hai nơi này trước đây chưa từng tấu xin chỉ thị của triều đình, nay tại sao lại không tiến hành xây dựng? Hơn nữa, triều đình ở xa, nếu ở biên giới có những lợi hại chưa rõ ràng, thì nên trình bày chi tiết, sao có thể tấu xin từ chức và yêu cầu cử quan đi khảo sát, chưa muốn có hành động gì khác?”

[25] Chiếu lệnh Chương Tiết xem xét kỹ lưỡng hơn, nếu ở những nơi như Nê Bằng Chướng cần xây dựng các pháo đài bảo vệ đường đi, có thể bảo vệ được người qua lại và việc canh tác của các cung thủ. Nếu binh lính chưa được giải tán, thì nên tùy nghi xây dựng ngay. Nếu đã giải tán, thì chỉ thị Diêu Hùng một mặt lo liệu, đợi khi có thời gian rảnh thì xây dựng. Đồng thời nhanh chóng trình bày các biện pháp đã thực hiện và thứ tự tiến hành. Không để sau này quân giặc cướp bóc người qua lại và cản trở việc canh tác của các cung thủ.

[26] Lại có chiếu rằng: Chương Tiết tấu báo sơ suất, đặc cách giáng làm Long đồ các trực học sĩ.

(Tiết vào ngày 5 tháng 3 dâng tấu này, chiếu không rõ là ngày tháng nào. Sách cũ chép vào ngày 16 tháng 3 tóm tắt lời tấu của Tiết, liền bị tội tấu báo sơ suất mà giáng chức. Xét trước có nói “chưa muốn làm gì khác”, như vậy giáng chức chắc không cùng ngày. Nay căn cứ theo sách cũ, vẫn chép đầy đủ lời tấu của Tiết. Sách cũ chép: Kinh Nguyên lộ kinh lược sứ Chương Tiết tâu: “Trước đây theo chỉ dụ triều đình, sau đó Thạch Môn, Sàng Địa Chưởng không được khởi công, nếu đã khởi công thì phải ngừng ngay. Xét rằng Thiên Đô Sơn nằm ở phía tây bắc Cửu Dương Cốc, cách trấn Khương Trại hơn trăm dặm, còn Sàng Địa Chưởng, Nê Bằng Chướng thực sự nằm ở phía tây. Trấn Khương Trại phía nam đến Hoài Viễn Trại, lại có Mộc Ngư Xuyên, cũng là đường giặc đến. Dù sau này tiến hành xây dựng, chiếm cứ Thiên Đô, thì Cửu Dương Cốc, phía tây Trấn Khương Trại cũng cần phải phòng bị. Mà Dã Cầm Xuyên hiện là đường đi của giặc. Xin chọn quan thị tòng hoặc thân tín đến xem xét. Nếu thần sai lầm, xin xử phạt.” Chiếu rằng Chương Tiết tấu báo sơ suất, đặc cách giáng làm Long đồ các trực học sĩ.)

[27] Trước đó, Tăng Bố nói: “Gần đây biên thần tấu báo, đại để tự ý. Như Chương Tiết trước đây bàn việc tiến hành xây dựng, có chút khác biệt, liền xin từ chức, lại nói rằng người bàn luận cho rằng thần già yếu. Đây là lời trong thư của Chương Đôn gửi cho Tiết, sao có thể dễ dàng viết vào tấu chương!” Vua cũng cho là không nên, lệnh giáng một chức, mọi người đều cho là phải. Thái Biện lại nói: “Trước đây tiến hành xây dựng Cửu Dương Cốc, không dự tính sắp xếp sổ sách, lại tâu rằng vận chuyển gấp, cũng đáng tội.” Bố nói: “Điều này chưa đáng nói. Chỉ vì tấu báo sơ suất mà giáng chức, thì các lộ đều biết cảnh giác.” Mọi người đều đồng ý. Do đó có lệnh này.

(Ngày 19 lại giáng một chức.)

[28] Thượng thư tỉnh Hộ bộ tâu xin rằng các châu, huyện nếu có nhân viên thu nhận tiền vật của dân như thường bình, miễn dịch mà nhận hối lộ, thì xin xử tội theo pháp luật về việc công nhân hưởng lộc cao mà nhận hối lộ trong khi thi hành công vụ. Nếu thư lại ở làng mà nhận hối lộ, thì xin áp dụng theo luật gần đây về việc nhận hối lộ trong thu nạp tiền vật thường bình, miễn dịch thời Thiệu Thánh. Triều đình chấp thuận.

(Phần này bị bỏ trong bản mới.)

[29] Ngày Bính Dần, Thượng thư tỉnh tâu: “Viện Tiến tấu khi nhận được văn thư phong kín từ Thượng thư tỉnh, Xu mật viện hoặc các văn thư cần chuyển gấp, phải lập tức gửi đi. Các văn thư về bắt cướp, cứu tế, thiên tai, phòng chống lũ lụt khẩn cấp, cùng chiếu chỉ và văn thư triều đình cần chuyển nhanh, phải gửi đi trong ngày. Các chiếu chỉ và văn thư triều đình chuyển thường, hạn trong một ngày. Các văn thư khác không được quá ba ngày. Nếu trong hạn có việc chưa xong, quan giám tùy tình hình gia hạn thêm.” Triều đình chấp thuận.

(Phần này bị bỏ trong bản mới.)

[30] Hộ bộ tâu: “Các ty rượu ở các lộ, xin đến cuối năm so sánh số tiền thu được với mức định trước. Nếu thiếu, thì lấy số tiền thu được từ các ty so sánh để bù vào chỗ thiếu của ty lớn. Nếu còn dư, thì theo mức định trước của ty lớn, lấy mười phần làm chuẩn, trừ hai phần, số còn lại tính theo quy định để chi thưởng, chỉ cấp cho các quan giám và chuyên viên so sánh, còn ty lớn thì được miễn coi là thiếu. Nếu ty lớn thu được lợi nhuận đến cuối năm vượt mức, thì các ty so sánh cũng phải thu được ít nhất hai phần ngoài mức định, số tiền vượt còn lại sẽ tính chung với số tiền vượt của ty lớn, tiền thưởng của ty so sánh vẫn theo chỉ dụ triều đình giảm một nửa so với quan giám chính. Nếu các ty so sánh đến cuối năm không đạt được hai phần[10], thì không cấp tiền thưởng. Nếu ty lớn theo quy định phải điều chỉnh mức mới, thì theo mức mới mà thi hành.” Triều đình chấp thuận.

(Phần này bị bỏ trong bản mới.)

[31] Ngày Mậu Thìn, Lữ Gia Vấn, Bảo văn các đãi chế, được bổ nhiệm làm Thị lang Hộ bộ.

[32] Chiếu rằng: “Gần đây nghe nói các quan ở tỉnh, tự phần nhiều là riêng đến nhà hậu tộc, hoặc lấy cớ tình cờ gặp gỡ, khắp nơi yến tiệc tụ tập, nên trách phạt nhẹ để răn đe.” Lại bộ Lang trung Phương Trạch, Hộ bộ Thị lang Lưu Tông Kiệt, Hộ bộ Viên ngoại lang Trịnh Cận, mỗi người phạt 30 cân vàng; Vệ úy khanh Trần Hoành, Thủy bộ Viên ngoại lang Triệu Tủng, mỗi người phạt 20 cân vàng. Phương Trạch làm Tri châu Kiền Châu, Trịnh Cận làm Tri châu Kiến Châu, Triệu Tủng làm Tri châu Nhiêu Châu, Trần Hoành làm Đề cử cung Sùng Phúc, Lưu Tông Kiệt làm Quản câu quán Thái Bình, đều được tùy ý cư trú.

[33] Tam tỉnh tâu: Nhận được trạng của Triều phụng lang, Quốc tử giám Thừa Tô Quynh, trong lời khai có chỗ không thống nhất. Chiếu sai An Đôn cùng quan trưởng ngục hữu trị của Đại Lý tự điều tra tận gốc, tâu lên sự thật. Quynh là con của Tụng.

[34] Trước đó, Đồng tri Xu mật viện Lâm Hi tâu mặt: “Tô Quynh từng đến gặp thần, nói rằng gặp Trung thừa Hình Thứ, bảo rằng sẽ dạy thần qua Tam tỉnh” v.v… Sau đó lại dâng tờ tâu nói: “Thứ bảo Quynh, muốn Hi qua Tam tỉnh. Thái Kinh ở Tam tỉnh có điều hiềm khích, chỉ có Tây Xu có thể xử lý. Quynh bảo Thứ rằng Trung thừa được ưu ái đang lúc thịnh, người khác chắc chắn chưa thể đi trước. Thứ nói: ‘Thứ với Kinh quen biết, nên tạm để Kinh đi trước. Thứ trong việc này sớm muộn cũng không so đo.'”

Thượng nói: “Lời này thật kỳ lạ.” Chương Đôn nói: “Nên triệu Quynh đến Đô đường để hỏi rõ.” Thượng ra lệnh triệu Hi đến tâu lại, Hi lại nói: “Thần không dám không báo lại lời của Thứ, vì sợ người ta nghi ngờ thần có ý muốn vào Tam tỉnh. Thần với Thứ vốn không có gì, chỉ vì thần làm Trung thư xá nhân, từng soạn lời biếm chức của Lữ Công Trước, kịch liệt chỉ trích tội ác của ông ta. Thứ vốn là môn khách của Công Trước, xuất thân từ cửa nhà ông, Hi Thuần và các anh em trách Thứ phải báo ân, Thứ không thể làm gì, nên từ khi ở ngạch gián quan, luôn muốn công kích thần để báo thù cho họ Lữ.”

Thượng im lặng. Hi lại nói: “Thứ ngày đêm tuyên bố muốn bài xích thần, hôm qua Lý Huệ công khai nói với người khác rằng từng thấy gián quan có văn bản công kích thần. Lại còn xướng lên lời này, muốn làm lung lay thần.” Tăng Bố nói: “Huệ nói năng bậy bạ, đáng tội không nghi ngờ gì. Làm sao có chuyện An Đôn muốn đả kích chấp chính, lại dám ở điện lư đưa văn bản cho Huệ xem trước? Thần cũng nghe người ta nói, Thứ bảo không đánh Hi, chỉ để Hi tự quyết định đi ở.”

Thượng nói: “Những lời này không cần hỏi, nhưng như Quynh nói, thì không phải việc Thứ nên can dự.” Bố lại nói: “Thái Kinh với Chương Đôn bất hòa, cũng bắt đầu từ đây. Kinh có anh em cùng tiến cử, mà Đôn công khai nói với người rằng: ‘Từ thời Tam đại đến nay, chưa từng có chuyện như vậy.’ Nên Kinh rất oán hận.”

Thượng nói: “Triều đình muốn dùng Thái Kinh, thì Chương Đôn cũng không quản được. Việc thăng giáng chấp chính, há do người khác quyết định!” Bố nói: “Không chỉ việc thăng giáng chấp chính không phải do đại thần tự quyết, mà ngay cả thị tòng cận thần, cũng phải do bệ hạ quyết định, há đại thần có thể chuyên quyền! Nếu bàn luận nhân vật và lý lẽ, e rằng cũng không có gì không thể.”

Thượng nói: “Bàn luận nhân vật thì không sao.” Bố nói: “Nếu bàn luận nhân vật, thì ngay cả tiểu thần xa cách nói cũng không có tội. Nhưng lý lẽ Chương Đôn nói là đúng, chỉ là Đôn nói nhanh, không nên công khai trước mặt người khác. Theo thần đoán, Đôn chưa chắc dám nói trước mặt bệ hạ. Nhưng Kinh nghi ngờ Đôn ngăn cản mình, nên oán hận sâu sắc. Hình Thứ cũng từng nói với người rằng: ‘Người ta cho rằng Thứ phụ thuộc hai họ Thái, nhưng Thứ thực sự không phụ thuộc ai, chỉ là vướng vào thế sự, tình người khó tránh khỏi.’ Lời Thứ nói trước long án, là công luận, ý nói trước mặt bệ hạ là hết sức công bằng. Nhưng người ngoài chỉ thấy Thứ với Thái Kinh và Kiển Tự Thần rất thân thiết, nên không thể không nghi ngờ. Thứ đại để nói nhiều dùng mưu, ai cũng muốn được lòng ông ta, hễ chỗ tụ hội, ắt mọi người kéo lại, thì thầm bên tai, nhưng người ta cũng ít khi tin.”

Thượng nói: “Chương Đôn nói, người ta gọi ông ta là ‘Hình Huấn’, vì thích dạy người khác.” Bố nói: “Từ thời Nguyên Phong đã có tên này, chỉ là muốn điều hòa người khác biệt, mỗi người có chỗ giữ, sao có thể điều hòa được? Thứ từ đầu Nguyên Hựu làm vậy đã vô hiệu, nhưng vẫn làm không ngừng.”

Thượng nói: “Mỗi lần đến đây bàn việc, nói đi nói lại, không lần nào không kéo dài mấy khắc, những điều nói chỉ là những điều thường bàn. Nhưng mỗi việc đều phải nói lại từ đầu, thật đáng chán.” Bố nói: “Bên ngoài cũng thường nghi ngờ ông ta tâu đối quá lâu.” Thượng nói: “Rất lâu!” Hi nói: “Phải hơn nửa giờ.”

[35] Chương Đôn tìm cách triệu Trần Quynh đến đô đường để hỏi tình hình. Hôm đó, Đôn đem tờ khai của Quynh dâng lên, thấy có nhiều điểm khác biệt so với lời tâu của Lưu Hi. Đôn lại nói: “Lưu Thứ nói rằng: ‘Việc bổ nhiệm hay cách chức các chức vụ quan trọng phải do hoàng đế quyết định, dù là tể tướng cũng không được can dự.'” Đôn nhân đó nói: “Lúc đầu hỏi Quynh thì không đề cập đến việc này, nhưng khi khai báo lại nói đến.” Hoàng đế nói: “Lời khai của Quynh lại khác biệt như vậy sao?” Hi lại tự biện hộ, hoàng đế nói: “Xét xử rồi sẽ thấy rõ thực hư.” Vì thế mới có chiếu chỉ này.

[36] Cùng ngày, Lưu Thứ cũng vào điện Diên Hòa tâu sớ hạch tội Lưu Hi: “Hi là kẻ xảo quyệt, nguy hiểm, thiên hạ đều biết. Trước đây phụng sự tiên đế, được cử đi sứ Cao Ly, nhưng khi gặp việc khó thì từ chối, từng bị khiển trách. Sau đó nhờ Vương Khuê đề bạt, lại được vào làm việc ở văn quán. Tiên đế nhiều lần có lời phê phán, cho rằng Hi là kẻ gian tà, điều này đã được truyền khắp nơi, thời tiên triều Hi chỉ làm đến chức lang quan Lễ bộ mà thôi. Khi Tuyên Nhân Thánh Liệt hoàng hậu buông rèm nhiếp chính, Vương Khuê đã chết, Hàn Chẩn đứng đầu tể tướng, Hi và em là Đán liền nương theo Hàn Chẩn. Hi được thăng làm Tả ty lang trung, Khởi cư xá nhân, Đán làm Khảo công lang quan Công bộ. Sau đó, Lương Đào lộng quyền, hai anh em âm thầm tiếp tay, trong vòng một năm, Đào đã hai lần tiến cử Đán và Hi để thay thế mình, đều có bằng chứng rõ ràng để kiểm chứng. Đến khi Lý Thanh Thần nắm quyền, Hi được bổ nhiệm làm Bảo văn các trực học sĩ, tri phủ Thành Đô. Chương Đôn đến, Hi chưa đi nhậm chức, lại được giữ lại làm Trung thư xá nhân, Hàn lâm học sĩ, từ đó leo lên địa vị cao. Xét lại toàn bộ quá trình của Hi, những kẻ mà Hi dựa dẫm đều là bề tôi gian tà, dấu vết rất rõ ràng, chỉ bị chế ngự đôi chút vào thời tiên đế và những năm đầu Nguyên Hựu, còn lại thì không việc gì là không có lợi, từ đó có thể thấy sự xảo quyệt của Hi.

Thêm vào đó, Hi còn dùng người thân tín, họ hàng nội ngoại đều được bố trí khắp triều đình, hiếm có ai bị bỏ sót. Ý đồ của Hi là muốn thao túng triều đình để mưu lợi riêng, trong ngoài những người có hiểu biết đều biết Hi là kẻ tiểu nhân thực sự. Hi khéo nịnh hót các đại thần quyền thế, phụng sự họ như nô bộc, muốn gì được nấy, thế lực ngày càng lớn, không thể để tiếp tục như vậy, thần e rằng cuối cùng sẽ gây hại cho quốc gia. Kính mong thánh thượng đưa ra quyết định, lập tức cách chức Hi.”

[37] Thượng dụ Thứ rằng: “Có phải vì Hi tâu rằng khanh cùng Tô Quynh nói chuyện, đợi giáo Hi qua ba tỉnh và Thái Kinh làm Tây Xu không?” Thứ tạ rằng không biết. Thượng lại lấy tờ khai của Quynh ra dụ, Thứ nói: “Chỉ là tình cờ nói chuyện với Quynh về mệnh số, nhân đó mà đề cập đến việc này, không có ý gì khác.” Thượng nói: “Như vậy chỉ là chuyện vặt thôi, đã sai quan điều tra kỹ càng.”

Thứ lui ra, lại dâng sớ nói: “Thần sáng nay đã từng tâu mặt đối mặt[11], thần là người được bệ hạ bổ nhiệm làm Ngự sử trung thừa, giao phó trọng trách làm tai mắt. Còn Lâm Hi là người được tể tướng Chương Đôn tiến cử, nhờ thế mà lên đến chức chấp chính[12], được coi là tâm phúc. Hi với Tô Quynh là thông gia chính thức, anh của Quynh là Di lại là con rể của Hi, Quynh lại nhờ Hi tiến cử với Chương Đôn, được bổ làm Quốc tử giám thừa. Hi thường dẫn Quynh đến, lúc nhàn rỗi cùng thần đối diện nói chuyện, bên cạnh không có người chứng kiến, lại không có văn tự ghi chép, chỉ dựa vào lời nói, muốn vu cáo thần có ý định thay đổi đại thần.

Việc thay đổi đại thần là do bệ hạ quyết định, dù là tể thần cũng không dám can dự, phải đợi hỏi ý kiến rồi mới dám nói, lẽ nào thần có thể làm được! Lý lẽ rất rõ ràng. Nhưng e rằng Hi với Quynh cấu kết, muốn lấy việc này vu cáo thần, đã giao cho quan lại bàn bạc, mà Chương Đôn là thượng tướng, cùng Lâm Hi là đồng đảng, quần thần sợ họ như hổ, e rằng quan được sai điều tra sẽ do dự, hoặc dựa vào lời nói không có chứng cứ, bắt thần phải theo, hậu quả sẽ không nhỏ. Nay thần là tai mắt của bệ hạ, Hi là tâm phúc của Chương Đôn, thiên hạ không ai không biết. Nếu thần không bị Hi vu cáo, thần ở lại mà Hi bị cách chức, thì quyền lực thuộc về nhà Vua; nếu Hi vu cáo được thần, Hi ở lại mà thần bị cách chức, thì quyền lực thuộc về tể tướng. Cơ hội an nguy họa phúc, ở ngay việc này, mong bệ hạ xem xét kỹ trong số cận thần những người không phải là đồng đảng của Chương Đôn, sai họ điều tra sự việc.

Thần với Quynh nói chuyện, đều không có người chứng kiến hay văn tự ghi chép, chỉ có thể dựa vào lý lẽ mà thôi. Thần sau này nếu bị hỏi đến, sẽ từng bước trả lời xong, phải kín đáo tâu lên, mong thánh từ xem xét kỹ. Nếu lời thần vô lý, không thể qua được ánh mắt thánh thượng, thần xin chịu tội chờ bị giáng chức; nếu lời thần có lý, chỉ mong thánh từ chủ trương, thì thần may mắn tránh được việc bị quan lại bức cung, bị đại thần có quyền thế chèn ép. Việc này liên quan trực tiếp đến quốc thể, không chỉ là thân phận nhỏ bé của thần mà thôi, mong minh chủ lưu tâm xem xét!”

[38] Thứ Tầm lại dâng sớ nói: “Thần đã đàn hặc Lâm Hi, nhưng e rằng các đại thần ngầm kết bè đảng, mong bệ hạ sáng suốt xét rằng Lâm Hi có lời vu cáo thần, muốn không thi hành tờ sớ của thần. Vì thần muốn đàn hặc Lâm Hi không phải chỉ hôm nay, những tội ác của Lâm Hi mà thần đã luận bàn, đều đã từng tâu trình trước, không phải vì Lâm Hi bị vu cáo mới đàn hặc trị tội. Hơn nữa, trước ngày 19, thần hoàn toàn không biết Lâm Hi từng có lời vu cáo. Nguyên do Lâm Hi dám kết bè đảng, dùng những lời nói vu vơ không có chứng cứ để vu cáo nặng nề quan ngự sử của thiên tử, muốn bịt miệng thần, khiến thần không thể nói ra, đó chính là âm mưu gian trá của Lâm Hi. Các đại thần theo phe Lâm Hi, muốn chứng minh việc đó là thật, thì ý đồ giúp đỡ của họ đã rõ ràng. Nay nếu thuận theo yêu cầu của họ, thu lại tờ sớ của thần không thi hành, tức là âm mưu gian trá của Lâm Hi đã đạt được, ý đồ giúp đỡ của các đại thần đã thành công, mà tai mắt của thiên tử bị bịt kín, kỷ cương triều đình bị hủy hoại! Hơn nữa, những tội ác của Lâm Hi mà thần đã luận bàn, hoàn toàn không liên quan đến lời vu cáo của Lâm Hi đối với thần. Thần nghĩ rằng các quan đài gián khác cũng có tờ sớ đàn hặc Lâm Hi, lời nói của họ tự nhiên phải được thi hành trước, sau đó mới xử lý những lời vu cáo, hai việc không hề cản trở nhau. Kính mong bệ hạ đặc biệt dùng uy quyền quyết đoán, sớm ban chỉ dụ.”

[39] Thiếp hoàng: “Thần e rằng các đại thần có thể cho rằng đài gián kết bè đảng, muốn bãi bỏ lời nói của họ, như vậy chính là các đại thần kết bè đảng. Nếu cả hai bên đều có thể chỉ trích nhau là bè đảng, thì xin bệ hạ xem xét ai đúng ai sai, ai tà ai chính, ai công ai tư. Nếu lý lẽ đúng, hành vi chính trực, tâm hướng về công lý, thì không phải là bè đảng; nếu lý lẽ sai, hành vi tà ác, tâm hướng về tư lợi, thì mới là bè đảng. Xét theo điều này, không biết đài gián là bè đảng hay các đại thần là bè đảng? Tâm ý không thể thoát khỏi sự soi xét của bệ hạ!”

(Xem thêm ngày 14 tháng 4, ngày Nhâm Thìn.)

[40] Thân vương Tất, Đoan vương Cát dâng biểu xin từ chối chức Thủ Tư không, chiếu chỉ đều không chấp thuận.

[41] Hộ bộ tâu: “Sở châu tấu rằng Giám thuế Liên Thủy quân, Phụng chức Trịnh Thọ, vợ con gái của ông vì mẹ chồng bị bệnh tiêu khát lâu ngày, đã cắt thịt đùi để dâng cho mẹ chồng ăn, nay bệnh đã khỏi. Xin đặc biệt ban khen, truyền bá khắp thiên hạ.” Chiếu ban cho 100 tấm lụa, 10 con dê, 10 bình rượu, 10 thạch bột.

[42] Đại Lý tự tâu: Xin rằng những việc công do Đại Lý tự và Khai Phong phủ nhận được từ nội giáng, đều theo chỉ mà xét xử, không được tâu xin chuyển giao. Theo lời tâu.

[43] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu về việc đánh dẹp các bộ lạc người và ngựa vùng Hạ Châu có công. Chiếu ban thưởng theo thứ bậc: thăng chức, giảm năm khảo hạch, ban thưởng vật phẩm. Trong đó, những người được giảm năm khảo hạch mà thời hạn khác nhau, thì theo điều lệ mà tính toán[13]. Từ chức Hoàng thành sứ trở lên được thăng chức, giảm năm khảo hạch, và chuyển ban cho con trai có chức tước. Quan người phiên nếu không có thời hạn khảo hạch, cho phép tạm ghi nhận, khi lập thêm công sẽ tính chung để ban ân.

(Bản mới sửa chép rằng: Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu về việc đánh dẹp các bộ lạc vùng Hạ Châu có công[14]. Chiếu thăng chức, giảm năm khảo hạch, ban thưởng vật phẩm có sai biệt[15]. 《Bố lục》 chép: Thưởng cho các tướng tá đánh dẹp vùng Hạ Châu thuộc Phu Diên lộ.)

[44] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ tâu rằng việc xây dựng thành Hưng Bình đã hoàn thành. Chiếu rằng: “Tây thượng các môn sứ Trương Tồn, Hoàng thành sứ, Thông châu thứ sử Trương Thành, Hoàng thành phó sứ kiêm các môn thông sự xá nhân Chủng Phác làm thống chế binh mã tiến hành xây dựng thành Hưng Bình và trại Hoành Sơn đã hoàn thành, kiêm tiếp nhận Lý Ngoa (Khẩu Di) cùng đoàn người quy thuận nhà Hán[16]. Trương Tồn thăng làm Đông thượng các môn sứ, lĩnh chức Thành châu đoàn luyện sứ, thăng sung chức bản lộ đô kiềm hạt; Trương Thành thăng làm Tần châu đoàn luyện, thêm một bậc quan chức để phong cho con trai có chức tước; Chủng Phác thăng làm Văn tư sứ. Những người khác theo thứ tự được ban ân.”

(Ngày 29 tháng 2, thành Hưng Bình được ban tên; ngày 16 tháng 3, trại Hoành Sơn được ban tên. Lý Ngoa đến hàng vào ngày 11 tháng 3. 《Bố lục》 chép: ban thưởng việc xây dựng trại Hưng Bình ở Hoàn Khánh. 《Bố lục》 ngày Mậu Thìn lại chép: Hoàn Khánh xây dựng bảo Thông Tắc, Phu Diên sửa chữa bảo Khai Quang. Xét việc hoàn thành bảo Thông Tắc vào ngày 24 tháng 3, ngày Quý Dậu.)

[45] Chiếu rằng, Kinh nguyên lộ kinh lược sứ Chương Tiết xin tiến hành xây dựng và bố trí vận chuyển không hợp lý, đặc cách giáng một bậc quan chức.

(Ngày 16, giáng chức Long trực. 《Bố lục》: ngày Mậu Thìn, Chương Tiết tấu xin lệnh cho Hi Tần vận chuyển lương thực để ứng phó việc xây dựng, đặc cách giáng một bậc quan chức.)

[46] Lại chiếu rằng, Mãn Chí Hạnh ở trong quân, khi Chung Truyền có hành động phản phúc, không hề tâu báo, trách phạt trước đó quá nhẹ, đặc cách cách chức.

[47] Ngày Canh Ngọ, đến phủ Thân vương.

[48] Ngày Tân Mùi, đến phủ Đoan vương.

[49] Ngày Quý Dậu, ba tỉnh tâu: “Đề cử Kinh Hồ Nam Lộ thường bình đẳng sự Đổng Tất tấu: ‘Thể lượng được việc Tri châu Lôi Châu, Triều thỉnh lang Trương Phùng, cùng quan lại bản châu đến cửa đón tiếp Tô Thức, Tô Triệt. Ngày hôm sau tổ chức hội, triệu tập Tô Thức, Tô Triệt ở nha môn giám ty an trí, lại cho thuê nhà của Ngô Quốc Giám, người đã tiến nạp làm Thái miếu trai lang. Trương Phùng mỗi tháng thường một hai lần dời bếp đến tiếp đãi, sai bảy người bạch trực giúp việc. Lệnh huyện Hải Khang của bản châu là Trần Ngạc sai tạp trực gọi thợ thuyền đến giúp Ngô Quốc Giám sửa nhà, lại bắt dân dẹp hàng rào, mở rộng ngõ nhỏ để người ngựa đi lại, tránh cửa ngõ của Tô Triệt, cùng việc mượn nhân công.'” Chiếu cho Tô Triệt dời đến Tuần Châu an trí, Trương Phùng bị cách chức, Trần Ngạc bị thay thế. Đề điểm hình ngục bản lộ là Lương Tử Mĩ vốn có quan hệ hôn nhân với Tô Triệt[17], không báo cáo tránh né, cùng các giám ty khác không phát hiện, mỗi người bị phạt ba mươi cân vàng.

(Ngày 29 tháng 11 năm ngoái, Đổng Tất nhận mệnh thể lượng. Trần Thiên Nghê viết trong 《Tô môn hạ ngữ lục》 rằng: “Ông bị biếm đến Lôi Châu, trong chợ không có nhà để thuê, chỉ có một nhà giàu còn vài gian nhà cũ có thể cho thuê, bèn làm giao dịch, văn khế rõ ràng. Chủ nhà muốn sửa sang một chút, khi giao nhà, Chương Tử Hậu hỏi thăm xuống châu phủ, phát hiện việc này, nói rằng Thị lang Tô cưỡng đoạt nhà đất của họ Lôi. Chủ nhà bị tra hỏi, hợp đồng thuê rõ ràng, nên thôi. Mấy năm sau, Chương Tử Hậu bị biếm đến Lôi Châu, cũng gọi người kia đến bàn, người ấy nói: ‘Không được. Thị lang Tô đến, suýt làm tôi chết khiếp, nay không dám cho Tể tướng Chương thuê nữa.’ Tự làm tự chịu như vậy.” Xét lúc đó sai Đổng Tất thể lượng, điều Trần Thiên Nghê nghe được chưa rõ.)

[50] Kinh Nguyên lộ Kinh lược sứ Chương Tiết tâu rằng, việc xây dựng xong trại Cửu Dương Cốc đã hoàn thành, chiếu ban tên là Cửu Dương Trại. Lại tâu việc tu sửa xong bảo Tháp Tử Chuỷ phía đông Thạch Môn Hạp, chiếu ban tên là Thạch Môn Bảo.

(Ngày 28 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ 4 đề nghị. Sách 《Bố Lục》 chép: Ngày Quý Dậu, Chương Tiết, Diêu Hùng, Lưu Hà, Lý Huệ, Lý Quang đều tâu rằng lương thảo và sức lực chưa đủ, chưa thể tiến hành xây dựng[18]. Việc này của Chương Tiết được ghi chép kèm, cần xem xét thêm.)

[51] Kinh lược ty Hà Đông lộ tâu rằng, Sùng Nghi sứ Trương Thế Vĩnh và các tướng lĩnh thống lĩnh binh mã vượt biên giới đến khu vực Tinh La Mặc Long, Hoành Xuyên tiến hành đánh dẹp, chém giết hơn một nghìn tên, bắt sống hơn hai mươi thủ lĩnh lớn nhỏ. Chiếu ban cho Trương Thế Vĩnh và những người dưới quyền các mức ban thưởng khác nhau bằng hộp bạc, trà và thuốc.

[52] Hoàn Khánh lộ tâu rằng, việc tu sửa xong Thông Tắc Cốc đã hoàn thành, chiếu ban tên là Thông Tắc Bảo.

[53] Xu mật viện tâu rằng: “Gần đây quân Tây Hạ đã suy yếu, vào mùa cày cấy, chúng tất phải đến gần biên giới để cư trú và canh tác. Nếu các lộ đối diện và khu vực Hoành Sơn cùng những nơi khác, vốn là đất canh tác của giặc, có thể thăm dò chính xác nơi chúng cư trú và canh tác, biết được số lượng quân địch nhiều ít, địa hình xa gần, khi có thể chắc chắn thắng lợi, hãy phái binh mã đến đánh úp, khiến giặc không thể yên ổn canh tác, tránh việc mùa thu tới chúng lại càng hung hãn, thực là lợi ích cho biên phòng.” Chiếu ban cho các lộ Thiểm Tây, Hà Đông[19], chọn trước các quan Thống chế và tướng tá có năng lực, binh mã tinh nhuệ, đủ vũ khí và lương khô, thăm dò nơi quân Tây Hạ đóng trại canh tác, tiến hành đánh úp, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn, không để xảy ra thất bại.

(Sách 《Bố Lục》 chép: Chiếu cho các lộ thường xuyên xuất quân quấy rối việc canh tác. Cuối tháng 6, Chương Tiết tâu, có thể xem xét.)

[54] Kinh Nguyên lộ Kinh lược sứ Chương Tiết tâu rằng, bộ lạc đầu hàng là Đô La Mạn Đinh và Đô La Mạn Nương Xương đều được phong làm Tam Ban Phụng chức, ban thưởng hậu hĩnh lộ phí, đưa về kinh đô.

[55] Hùng Châu tâu rằng, Trác Châu gửi công văn nói: “Vì nước Hạ cáo báo kế hoạch hội đàm với Nam triều, lại yêu cầu trả lại những vùng đất và thành trại đã chiếm trước đây.” Triều đình ra chiếu cho Xu mật viện soạn thảo công văn gửi Hùng Châu, để trả lời Trác Châu.

[56] Trước đó, Phạm Thang đi sứ Bắc triều, người tiếp đón hỏi về việc nước Hạ, và nói rằng người Hạ nhiều lần cử sứ đến xin viện trợ, muốn cầu xin ngừng chiến, lại nói rằng nhiều vùng đất quan trọng đã bị nhà Hán chiếm giữ, và còn nói rằng đã từng gửi công văn. Thang trả lời rằng không biết. Hôm nay trình lên công văn của Trác Châu, triều đình ra chiếu lệnh trả lời vào trung tuần tháng tư, nhưng Chương Đôn nói rằng chưa thể trả lời, sau đó việc này bị bãi bỏ.

[57] Một hôm, Vua bảo Tăng Bố rằng: “Phía bắc lại có thư thúc giục về việc nước Hạ.” Tăng Bố tâu: “Thư này đến đã lâu, không thể không trả lời.” Vua cũng cho là phải. Tăng Bố lui ra nói với Chương Đôn, Chương Đôn nói: “Phải đợi đến tháng mười mới có thể trả lời.” Bố nói: “Theo lệ cũ đều trả lời ngay, nếu cứ không trả lời, vạn nhất họ muốn cử sứ giả đi, lấy gì để từ chối?” Đôn nói: “Chỉ cần bảo Hùng Châu trả lời rằng không có lệ đó.” Bố nói: “Cuối cùng có ngăn được không?” Đôn nói: “Nếu trả lời nhanh, họ thấy ta vội vàng, thường sẽ cử sứ giả ngay. Nếu không trả lời, họ chắc chắn không dám cử. Nếu theo ý của Tử Tuyên, tháng mười hai năm ngoái đã trả lời rồi.” Bố nói: “Trả lời có hại gì! Năm Nguyên Phong, thư đến là trả lời ngay, chưa từng nghe nói họ cử sứ giả, đó là hiệu quả đã thử nghiệm, sao biết được việc không trả lời thư mà họ không dám cử sứ giả?” Đôn nói: “Giống như Tiêu Hi tranh chấp biên giới, chỉ vì ứng phó quá nhanh.” Bố nói: “Việc này có lệ cũ, không giống với việc tranh chấp biên giới.” Đôn giận dữ nói: “Đôn xử lý việc biên giới không sai.” Bố nói: “Sao biết là không sai! Nếu làm hỏng việc biên giới của họ, mình khó mà giữ được vị trí.” Đôn nói: “Mình làm hỏng việc biên giới của họ, không chỉ mất vị trí, mà còn phải chém đầu để tạ tội với thiên hạ!” Bố nói: “Bảo ai chém?” Đôn nói: “Tốt, cứ tùy ý. Nếu làm hỏng việc, Đôn không quản.” Bố nói: “Bố không đến nỗi không hiểu chuyện, mưu lược cơ trí cũng không kém ai. Phàm xử lý việc biên giới, một khi có sai lầm, nhất định phải điều chỉnh, để tuân theo quy củ, không thì sai sót nhiều lắm!” Hứa Tướng nói: “Những lời nói đều có lý, hãy bàn thêm. Tháng mười e là quá chậm.”

Thái Biện cười nói: “Thôi, thôi! Không được nói nữa!” Bố cũng cười. Sau đó, lại tra xét thư tháng giêng năm Nguyên Phong thứ năm, tháng hai trả lời, Đôn mới thôi. Lúc đó là ngày Nhâm Dần tháng sáu.

[58] Ngày hôm sau, cùng trình bản điệp. Chiếu chỉ tháng 7 giao bản điệp cho Hùng Châu, lệnh tháng 8 trả lời Bắc giới. Chương Đôn im lặng, Tăng Bố cũng không bàn lại. Đến khi đối đáp lần nữa, Tăng Bố nhân đó nói: “Bắc giới trả lời điệp đã chậm. Tháng 4 trước đây đã có chỉ, sau đó Chương Đôn lại muốn bãi bỏ, nay đã có chỉ tháng 7 trả lời, xin đừng thay đổi nữa. Bởi triều đình đối đãi với người Bắc, từ việc ăn uống, ngồi, chào hỏi, đều có quy tắc nhất định, để tỏ ra không có sự khinh trọng. Đến cả việc đốt hương ở chùa Tướng Quốc và quán bạn trước sau cũng phải tranh luận, nhưng mọi việc đều có quy tắc, nên chưa từng không khuất phục. Nay điệp văn cả năm không trả lời, chính là tỏ ý khinh mạn, e rằng không tiện.” Vua nói: “Họ không có đạo lý.” Tăng Bố nói: “Điệp văn thời Nguyên Phong cũng vậy. Việc đã qua, không có gì để nói, nhưng lần này không thể thay đổi nữa!” Vua nói: “Không!” Lui ra gặp Hứa Tướng, nói: “Vua đối với Tam tỉnh, cũng rất lo người phương xa không yên tĩnh, nên đối đãi bằng lý. Vì nghe lời tranh cãi ồn ào hôm qua.”

(Ngày 26 tháng 6, Quý Mão, Tăng Bố ghi chép, nay nhập vào đây.)

[59] Ngày Giáp Tuất, Định Vũ quân Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, Hàm Ninh quận vương Ngu đổi làm Hà Dương Tam thành Hùng Vũ quân Tiết độ sứ, tiến phong Sân vương; Tập Khánh quân Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, Phổ Ninh quận vương Tự đổi làm Hoành Hải Trấn Hải quân Tiết độ sứ, tiến phong Giản vương; Vũ Thành quân Tiết độ sứ, Khai phủ Nghi đồng Tam ty, Kỳ quốc công Tài đổi làm Vũ An quân Tiết độ sứ, tiến phong Vĩnh Ninh quận vương.

[60] Trung thư Xá nhân Phạm Thang thử làm Cấp sự trung, Quyền Hộ bộ Thị lang Đỗ Thường làm Tập Hiền điện Tu soạn, Tri Thanh Châu.

[61] Quyền Lại bộ Thượng thư Diệp Tổ Hiệp tâu: “Kính thấy Thái thường tự định việc nghị thụy cho Hàn Chẩn, trình lên Thượng thư tỉnh bộ phúc nghị[20]. Xét Chẩn ở triều trước, được cất nhắc từ chỗ tội phế, lên đến chức vị cơ mật, ơn đức của Tiên đế ban cho không phải là ít! Nhưng lúc mới buông rèm, trong thì kết giao với Trương Mậu Tắc, Lương Duy Giản để mưu cầu chức Tể tướng, ngoài thì phụ họa bọn Tư Mã Quang đuổi Thái Xác để tìm kế tự an. Đến việc thay đổi pháp độ, Chẩn từng ngầm góp sức, hành vi hung ngược tham ô, lộ rõ trong ngoài, thụy hiệu Trang Mẫn tốt đẹp, không phải là điều Chẩn nên được.” Chiếu lệnh không định thụy nữa.

(Thiệu Bá Ôn trong 《Biện vu》 nói: Hàn Chẩn có mưu kế, Chương Đôn sợ ông ta. Phàm những người từng làm chấp chính, tòng quan thời Nguyên Hựu, Đôn tất dùng việc để hãm hại, nhưng không dám đụng đến Chẩn. Lúc đày ải các quan, Chẩn đang giữ chức Tiết độ sứ tri phủ Dĩnh Xương, Quan văn điện Đại học sĩ lĩnh cung từ, ấy là vì Đôn lo Chẩn có thể hại mình. Đến khi Chẩn chết, mới sai Diệp Tổ Hiệp tâu xin không ban tặng thụy mà thôi.)

[62] Chiếu lệnh cho Lý Ngoa Đa, vừa được bổ nhiệm làm Hựu Châu Thứ sử, sung chức Hoàn Khánh lộ Duyên biên kiêm Hoành Sơn trại đến Hựu Châu một dải Phiên bộ Đô Tuần kiểm sứ, ban riêng tuyên mệnh, bỏ chữ “kiêm” ở Hoàn Khánh lộ Duyên biên[21], chỉ sung chức Hoành Sơn trại đến Hựu Châu một dải Phiên bộ Đô Tuần kiểm sứ. Quan chức trấn thủ bản lộ tâu rằng Ngoa (Khẩu Di) mới quy phụ, chưa nên để thống lĩnh các Phiên quan, e rằng tình hình Phiên nhân không yên, nên có mệnh lệnh này. (Ngày 11, Lý Ngoa

(Khẩu Di) đến hàng.)

[63] Chiếu lệnh cho Chương Tiết đợi khi việc nông nhàn rỗi, tiến hành xây dựng Một Yên Tiền Hạp.

(Việc này căn cứ theo 《Bố lục》.)

[64] Ngự phê: “Xét rằng các quan triều đình từ cấp trở lên, vốn phải mặc triều phục khi ra vào. Tuyên Đức lang Tư Mã Hoành, Thừa Vụ lang quản lý viện nhuộm Lý Vô Cữu không biết giữ phận, mặc thường phục, dám đi dạo ngoài phố, lẫn lộn với tiểu nhân, xem xe ngựa. Kẻ sĩ làm quan mà không biết liêm sỉ, nên giao cho Ngự sử đài xét xử nhanh chóng, tâu lên xin xử trí.” Tư Mã Hoành và Lý Vô Cữu đều bị cách chức.

(Việc ngày 25 tháng 3 năm thứ 5.)

[65] Ngày Ất Hợi, Bảo Văn các đãi chế, tri Quế Châu Hồ Tông Sư được bổ nhiệm làm tri Vĩnh Hưng quân. Triều Tán đại phu, quyền Quảng Tây chuyển vận phó sứ Trình Tiết được bổ nhiệm làm Trực Bí các, quyền tri Quế Châu.

[66] Chiếu rằng khi sứ thần nước Liêu đi qua, nếu gặp tri châu bị bệnh hoặc có việc, thì cử người được mời làm quyền nghênh tống sứ thần. Nếu người tiếp đón sứ thần của châu đó có sai sót, cho phép quan quyền xét xử và xử phạt. Theo đề nghị của tiếp bạn sứ Hàn Tuý Ngạn.

[67] Hộ bộ tâu: Xin rằng ở các lộ Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây, ngoài tri châu và thông phán, các quan chức khác không được phép tham gia vào việc mua bán và ngồi kho, ngồi trường. Việc bán thóc thừa không được vượt quá số lượng quy định. Được chấp thuận.

(Ghi chép mới, ngày 2 tháng 5.)

[68] Hình bộ tâu: Những người phạm tội chưa được phục chức hoặc đã phục chức nhưng chưa khôi phục chức cũ mà lại phạm tội, thì từ ngày phạm tội sau sẽ tính lại thời hạn phục chức. Được chấp thuận.

[69] Lại bộ tâu: “Các quan viên bị bãi nhiệm hoặc chưa bãi nhiệm mà cần thăng chức, đều được phép nộp đơn tại châu sở tại, ghi rõ các văn bản chưa được thăng chức, cử quan kiểm tra, và nộp một bản gia trạng, gửi lên Lại bộ. Nếu muốn đến bộ để thăng chức, thì được phép.” Được chấp thuận.

(Ghi chép mới, không rõ.)

[70] Ngày Bính Tý, Triều Thỉnh lang Lý Diên Bôn được bổ nhiệm làm Thủ Tướng tác thiếu giám. Chiếu rằng các chức Thiếu phủ, Tướng tác, Quân khí thiếu giám, thứ tự xếp hạng đều theo lệnh thời Nguyên Phong, còn chỉ huy thời Nguyên Hựu không áp dụng nữa.

(Chỉ huy thời Nguyên Hựu thế nào? 《Ngọc điệp》 chép: Khôi phục thứ tự xếp hạng của Thiếu phủ, Tướng tác, Quân khí thiếu giám.)

[71] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Dân tâu rằng, việc xây dựng xong quan Điên Nhĩ đã hoàn thành. Chiếu đặt tên là Thông Hội quan, trừ Lục Sư Mẫn, Chung Truyền đã bị giáng chức, các quan Đô giám trở xuống, đều ban thưởng hộp bạc, trà thuốc theo thứ bậc.

(Sách 《Bản kỷ》 chép ngày Bính Tý xây Hội Ninh quan. Có lẽ ngày 23 tháng 5 đổi Thông Hội thành Hội Ninh.)

[72] Xu mật viện tâu rằng, các ty An phủ, Đề hình lộ Kinh Đông và Kinh Tây xin theo chiếu năm Nguyên Phong thứ 5, đặt toàn bộ thổ binh dưới quyền Tuần kiểm để bắt giặc. Được chấp thuận. Những thổ binh được chiêu mộ phải là người có hộ tịch ở bản châu hoặc châu lân cận. Người không có hộ tịch nhưng có một hộ chủ đứng ra bảo lãnh[22], cũng được phép chiêu mộ.

[73] Chiếu rằng từ nay về sau, tại các chùa thiền tăng trong kinh thành, phụ nữ trong nhà sĩ thứ ngoài việc cùng nam giới trong nhà làm trai hội được phép vào, còn lại ai tự ý vào đều bị đánh 100 trượng; chủ nhà biết mà để vào và chủ chùa không tố cáo, đều bị xử tội theo mức độ. Trước đó, Khai Phong phủ tâu xin nghiêm cấm, nên có chiếu này.

(Mới bỏ.)

[74] Hộ bộ tâu rằng, muốn các lộ Thiểm Tây chỉ được dùng sao diêm niên hạn để xin muối ở trì, còn các văn sao phát ra khác, cho phép đem đến kinh thành bán để xin tiền. Được chấp thuận.

(Mới bỏ.)

[75] Ngày Mậu Dần, Xu mật viện tâu: “Các trại phố ven biên giới vùng Khê Động, nơi có hai viên Trại chủ và Đô giám, mỗi nửa tháng một lần, luân phiên một viên mỗi ngày dẫn một số binh giáp ra ngoài, đêm khuya tuần tra canh giữ trong địa phận, đồng thời bản châu cấp sổ ấn, giao cho các quan ty quản lý địa phận. Khi các quan tuần tra đến trại phố, lập tức ghi rõ chức vụ, tên họ, ngày tháng, cuối mỗi quý nộp về bản châu kiểm điểm, rồi tâu lên Đô kiềm hạt ty. Nếu không tuần tra mà khai gian, sẽ bị xử theo tội vi chế, không được giảm tội dù đã thôi chức hoặc được ân xá.” Được chấp thuận.

[76] Triều thỉnh lang, Tập hiền điện tu soạn, nguyên Tri Hà Trung phủ Hàn Tông Sư mất.


  1. 'giám' nguyên là 'giáng', theo Tống sử quyển 348, Chung Truyền truyện sửa lại.
  2. Chữ 'ư' trong câu 'ư Hà Nam hương Lưu Ngân thôn tu tạo gia xá' vốn thiếu, nay căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 154 phần Dư phục chí và 《Tống hội yếu》 phần Dư phục 6 chi 7 mà bổ sung.
  3. Mặt sau có hình rồng năm vòng, giữa các vòng có lỗ nhỏ 'Ngũ bàn nữu' ba chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên và đoạn văn sau 'mặt sau cũng có hình rồng năm vòng' bổ sung.
  4. Giữa các vòng cũng có lỗ nhỏ để xỏ dây 'Tổ' nguyên bản là 'nữu', căn cứ theo bản trong các sách và 《Tống sử》 quyển 154 phần Dư phục chí, 《Tống hội yếu》 phần Dư phục 6-7 sửa lại.
  5. Dùng làm vật dụng 'Dùng' nguyên là 'Chủ', theo bản khác sửa.
  6. Không thấy có chính kiến 'Nghị' nguyên là 'Luận', theo bản trong các bản sửa.
  7. Xét theo pháp luật hiện nay 'Luận' nguyên là 'Nghị', theo bản trong các bản sửa.
  8. Từ Cửu Dương Cốc phía đông đến bờ Hồ Lô Hà, theo văn dưới, chữ 'Hồ Lô' có lẽ thiếu chữ 'Hà'.
  9. Kính mong bệ hạ suy xét kỹ lưỡng 'suy', bản các các làm 'tứ', đúng.
  10. Nếu các ty so sánh đến cuối năm không đạt được hai phần, chữ 'tỷ' nguyên là 'thử', theo bản khác sửa.
  11. Thần sáng nay đã từng tâu mặt đối mặt 'Thần' dưới nguyên có chữ 'Trừ', theo bản các bản mà bỏ.
  12. Nhờ thế mà lên đến chức chấp chính 'Chí' dưới nguyên có chữ 'dẫn', theo bản các bản mà bỏ.
  13. Theo điều lệ tính toán, chữ 'điều' nguyên là 'bảo', căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà sửa
  14. Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu về việc đánh dẹp các bộ lạc vùng Hạ Châu có công, chữ 'tộc' nguyên nằm dưới chữ 'ngôn', văn không thông, căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà sửa
  15. Chiếu thăng chức, giảm năm khảo hạch, ban thưởng vật phẩm có sai biệt, nguyên là 'Chiếu năm khảo hạch, ban thưởng thăng chức, giảm vật phẩm có sai biệt', căn cứ vào bản trong các kho lưu trữ mà sửa
  16. Kiêm tiếp nhận Lý Ngoa (Khẩu Di) cùng đoàn người quy thuận nhà Hán, chữ 'tiếp' nguyên là 'án', theo 《Tống hội yếu》 phương vực 18-21 sửa lại
  17. bản lộ đề điểm hình ngục Lương Tử Mĩ vốn có quan hệ hôn nhân với Tô Triệt, chữ 'dữ' dưới nguyên có thêm chữ 'Đình', theo bản khác mà bỏ.
  18. Chữ 'trúc' trong 'vị khả tiến trúc' nguyên bản thiếu, theo bản trong các kho sách bổ sung.
  19. Chữ 'thiểm' trong 'chiếu thiểm tây hà đông trục lộ suý thần' nguyên bản thiếu, xét thấy nhà Tống không có 'Tây Hà Đông lộ', ý không thông, theo văn nghĩa trên dưới bổ sung.
  20. Trình lên Thượng thư tỉnh bộ phúc nghị, sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 102 chương 'Trục Nguyên Hựu đảng nhân' chữ 'tỉnh' viết là 'Lại'.
  21. Bỏ chữ 'kiêm' ở Hoàn Khánh lộ Duyên biên, chữ 'bỏ' nghi là chữ 'trừ' viết nhầm.
  22. Nguyên bản chữ 'thổ', theo bản khác sửa thành 'chủ'.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.