VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 499: NĂM NGUYÊN PHÙ THỨ NHẤT (MẬU DẦN, 1098)
Từ tháng 6 năm Nguyên Phù thứ nhất đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 6, ngày Mậu Dần (mùng 1), đổi niên hiệu.
(Chiếu ngày 19 tháng 5.)
[2] Quyền Lại bộ Thượng thư Diệp Tổ Hiệp tâu: “Gần đây, khi kiểm tra hồ sơ quan chức trong bộ, thấy Nguyên Phương Trạch, năm Hi Ninh thứ 10 (1077) làm chức Đề cử quan, đã tâu xin cho miễn nhiệm những người đang làm thuê, và yêu cầu hộ dân hạng ba vẫn phải chịu sai dịch như cũ. Vì không hiểu rõ chức trách, ông bị chiếu chỉ đưa đến Thẩm quan Đông viện để xét xử và bổ nhiệm chức vụ phù hợp. Đến năm Nguyên Hựu thứ 2 (1087), Trạch đã kêu oán và được xóa bỏ mệnh lệnh từ thời Nguyên Phong, sau đó được bổ làm Tri châu. Từ thời Thiệu Thánh (1094-1098) đến nay, ông tiếp tục được thăng chức, nhưng dư luận bên ngoài vẫn chưa yên. Gần đây, dù ông đã bị tội vì tư thông với hậu tộc, nhưng tội lớn của ông vẫn chưa bị xử lý đúng pháp luật. Xin xem xét lại nguyên nhân vụ việc trước đây của Trạch và thi hành nghiêm minh.” Chiếu chỉ đổi Trạch làm Tri châu Vạn Châu.
(Ngày 19 tháng 3, Trạch làm Tri châu Kiền Châu; lại ngày 26 tháng 5, Vua nói: Trạch trước đây thật đáng tội.)
[3] Kinh Nguyên tâu: Đã tiến hành xây dựng các vị trí Một Yên Tiền và Một Yên Hậu. Hà Đông Duyên biên An phủ ty tâu: Đã nhận được văn thư của quân Thuận Nghĩa, trong đó nói rằng quân này từ trước vẫn cho khách phương Bắc qua trạm thuế Đông Thiên Đầu để vào Cửu Lương Tân buôn bán, nay đã chuyển đến Giả Hồ Tẩu. Đã ra lệnh cho Cửu Lương Tân không được giao dịch với những người đến từ con đường mới, đồng thời gửi văn thư yêu cầu họ đổi đường. (Theo 《Bố Lục》 ngày Mậu Dần.) Sau đó, Kinh lược ty Hà Đông tâu: Duyên biên An phủ ty không thông qua Kinh lược ty, tự ý định văn thư và cử quan đi xem xét việc đổi đường ở Cửu Lương Tân, là vi phạm pháp luật. Chiếu chỉ tha tội cho Duyên biên An phủ ty, yêu cầu từ nay phải tuân thủ quy định.
(Theo 《Bố Lục》 ngày Canh Thìn, nay gộp vào đây.)
[4] Ngày Canh Thìn, chiếu chỉ cho Thái trung đại phu Trịnh Ung làm Đề cử Sùng Phúc cung, cư trú tại nơi đó. Ung đã bệnh, xin về quận nhỏ, nên có mệnh lệnh này.
[5] Ba tỉnh tâu rằng: Tả hữu ty tấu án về việc đại lễ thời Nguyên Hựu và Thiệu Thánh, hai lần có chỉ triều đình sai đề điểm sự vụ[1], và việc bảo vật truyền quốc thụ mệnh trời ban, gặp đại lễ, chưa rõ có đem ra dùng hay không. Chiếu rằng từ nay quan đề điểm sự vụ đại lễ, lệnh Lễ bộ trình lên Thượng thư tỉnh xin chỉ sai; còn bảo vật trời ban, theo lệnh tâu xin đem ra dùng.
[6] Chiếu rút bớt năm chỉ huy bộ binh ở Tần Phượng lộ để ứng phó cho Hi Hà.
(Sách 《Bố lục》 ghi ngày Canh Thìn.)
[7] Chiếu rằng người tiến cống của Hạt Chinh mang hương giả, lệnh Lễ bộ ước lượng giá trị để ban thưởng. Lễ bộ tâu rằng, hương giả theo pháp phải đốt bỏ, nhưng người áp giải xin trả lại. Vua muốn đối đãi hậu với Hạt Chinh, không so đo, lệnh ban thưởng một số tiền. Chương Đôn tâu rằng không thể mở tiền lệ, sợ sau này không có cách từ chối. Tăng Bố xin tuyên dụ rằng: “Từ nay người tiến cống mang đến hương giả, sẽ không ban thưởng.” Vua nói: “Như vậy rất tốt.”
[8] Ngày Tân Tỵ, chiếu rằng: “Người thân thuộc không phải là Đản Miễn thân ứng cử được hưởng ân điển[2], các cơ quan tâu trình, dần mất đi ý nghĩa ban đầu của chỉ dụ tiên đế, và hiện nay có nhiều người nghèo khó. Từ nay, người thân thuộc Đản Miễn thân toả sảnh ứng cử, đều theo chỉ dụ tháng 11 năm Hi Ninh thứ 2, người được cấp tiền gạo, đều tính theo đầu người mà chi trả. Các điều khoản liên quan, lệnh các cơ quan tu chỉnh rồi tâu lên.”
[9] Lại bộ tâu rằng: “Các chức lệnh sứ ở tám lộ thiếu người, trừ hai lộ Quảng Đông và Quảng Tây vẫn theo lệ cũ cho phép tại nhiệm chỉ định người bổ khuyết, bốn lộ khác xét thấy, muốn cho các chức lệnh sứ ở các lộ này, vẫn theo chế độ cũ, cho phép tại nhiệm chỉ định người bổ khuyết. Các việc liên quan, cũng xin theo pháp cũ thời Hi Ninh, Nguyên Phong, và các quy định hiện hành mà thi hành. Các điều khoản về việc sai quan ở Quỳ Châu lộ đã tu chỉnh, xin được sửa đổi lại.” Đều theo lời tâu.
[10] Thượng thư tỉnh tâu: “Đại Lý tự tu định rằng, những người phạm tội đại hình hoặc quan viên phạm tội đã kết án, chưa qua lục vấn, mà tội nhân thay đổi lời khai, hoặc gia thuộc kêu oan, thì cho phép chuyển sang cơ quan khác xét lại. Nếu đã qua lục vấn mà thay đổi lời khai hoặc kêu oan, thì vẫn dùng ngựa trạm báo lên đề hình ty xem xét. Nếu việc không thể giao cho bản châu xử lý, thì cử quan khác xét lại.” Vua nghe theo.
[11] Thông trực lang, Long đồ các đãi chế, Tri Tuyên Châu Trầm Thù mất.
[12] Ngày Giáp Thân, Vua ra chiếu cho Kỳ Châu phòng ngự sứ, Đồng tri Đại tông chính ty Tông Tuý làm Tri Đại tông chính sự.
[13] Cấp sự trung Từ Đạc tâu: “Tiến tấu viện ngoài việc chọn lưu lại 90 người làm phó tri thư tả nhân, nếu có việc văn thư nhiều, cho phép thuê thêm một hai người giúp việc. Những văn thư tấu báo, phải qua giám quan ký duyệt định bản, mới được phép truyền báo. Nếu có việc bổ nhiệm quan viên chưa qua phong bác, mà tự tiện truyền báo trước, hoặc tuy việc được phép báo nhưng khác với bản đã định, đều xử tội trượng 100. Cho phép mọi người tố cáo.” Vua nghe theo. (Sách mới không chép).
[14] Xu mật viện tâu rằng, nay căn cứ theo lời chỉ dẫn của Lý Trung Kiệt và những người khác, đã dán bản đồ địa lý xa gần của địa danh Châu Vượng thuộc Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Dân lộ, nơi giáp ranh với biên giới phía Tây. Chiếu chỉ cho Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Dân lộ Kinh lược ty xem xét kỹ lưỡng, trong tương lai các lộ sẽ quy định từ nơi nào, và ước tính đến thời điểm nào, tiến hành xây dựng theo thứ tự như thế nào. Trừ binh mã của Hi Hà và Tần Phượng hai lộ, cần phối hợp thành một đầu mối ra vào[3], còn Kinh Nguyên và Hi Hà hai lộ sẽ phân chia ra vào như thế nào, để có thể tạo thế liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, từng bước trình bày rõ ràng tình hình cụ thể, kết luận và bảo đảm tâu lên.
(Theo tấu nghị của Chương Tiết, hợp với bản ghi chép của Bố Lục, sửa lại riêng. Bố Lục ngày Giáp Thân, cùng với bản đồ địa lý biên giới Hi Hà và Kinh Nguyên do Lý Trung Kiệt và Chu Trí Dụng vẽ, đại khái nói: Một Yên cách Thiên Đô 60 dặm, Thiên Đô cách Nam Mâu Hội 27-28 dặm, Nam Mâu Hội cách Đả Thằng Xuyên 70 dặm, Đả Thằng Xuyên đến Hội Châu 80 dặm, còn Hi Hà Hội Ninh Quan cách Đả Thằng Xuyên 130 dặm. Nếu hai lộ hỗ trợ lẫn nhau, thì mùa xuân tới có thể tiến hành xây dựng tại Thiên Đô và Đả Thằng Xuyên. Tiếp theo chiếm cứ Hội Châu, thì toàn bộ đất phía nam sông sẽ thuộc về ta. Lệnh cho hai tướng Hi Hà và Tần Phượng xem xét kỹ lưỡng, hỏi han, xem bản đồ sông núi địa lý có chính xác không, và trong tương lai tiến hành xây dựng theo thứ tự như thế nào, để hai lộ có thể hỗ trợ lẫn nhau. Trình bày rõ ràng tình hình thực tế và tâu lên.)
[15] Ngày Ất Dậu, con trai của Đổng Nguyên Trọng, nguyên Tri châu Bảo Châu, là Tam Ban Sai Sứ Tập Y, được phong làm Ngân Thanh Quang Lộc Đại Phu, Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Tri Bảo Châu Quân Châu Sự, kiêm Ngự Sử Đại Phu.
[16] Khảo Công Viên Ngoại Lang Lưu Quỳ được bổ nhiệm làm Quốc Tử Tư Nghiệp.
[17] Trung Đại Phu, Tri Bạc Châu Lâm Hi tâu rằng, đã soạn xong văn bia Hồn Thiên Nghi Tượng theo chiếu chỉ. Chiếu chỉ giao văn bia cho Hồn Thiên Nghi Tượng Sở để khắc đá.
[18] Hình bộ tâu xin theo chiếu chỉ thời Nguyên Phong, tại các khu vực áp dụng luật nghiêm khắc, phàm kẻ cướp bóc không phân biệt số người, đều áp dụng luật nghiêm khắc; kẻ trộm cắp phạm tội ba lần, đánh trượng rồi đày về bản châu. Được chấp thuận.
(Sách 《Tân vô》 không ghi chép.)
[19] Ngày Bính Tuất, Xu mật viện tâu rằng các thành trại xây dựng mới ở các lộ Phu Diên, Hà Đông, Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Dân đều đã hoàn thành, xin cử quan viên đến kiểm tra như lộ Hoàn Khánh. Chiếu chỉ sai Lý Huệ, Thiểm Tây lộ chuyển vận phán quan, đến lộ Phu Diên; Hoàng Mẫn Dụng, đồng quản câu thành đô phủ, Lợi Châu, Thiểm Tây đẳng lộ trà sự, đến lộ Kinh Nguyên; Lý Diên Tự, quyền Hà Đông lộ chuyển vận phán quan, đến lộ Hà Đông; Trương Hành, đề cử Tần Phượng lộ thường bình, đến lộ Hi Hà, đích thân đến từng nơi kiểm tra kỹ lưỡng, xác thực rồi tâu lên.
(Tháng mười một, Tăng Bố nói thêm.)
[20] Chiếu chỉ: “Các lộ Tẩu mã thừa thụ khi mãn nhiệm được ban thưởng, lệnh Xu mật viện xét duyệt, nếu trong nhiệm kỳ không có vi phạm hoặc vượt quyền, thì theo quy định ban ân. Các chỉ huy bảo minh tâu lên từ địa phương, không cần thi hành.”
[21] Chiếu chỉ: “Phàm các vụ thương tích nhẹ hoặc nặng, đều lệnh các lộ Tẩu mã thừa thụ theo quy định kiểm tra, giám sát thi hành. Phàm kẻ dùng thủ cấp giả làm thủ lĩnh, kiềm hạt để mạo nhận ân thưởng, căn cứ vào số cấp bậc mạo nhận, đều xử theo tội dùng thủ cấp người già, trẻ nhỏ, phụ nữ để lừa dối.”
[22] Chiếu chỉ lập mười chỉ huy Phiên Lạc ở các lộ Vĩnh Hưng quân, lấy Đặng Hàm An, Tây Kinh tác phường sứ, Vĩnh Hưng lộ đô giám, kiêm tổng lĩnh. Lập tướng Phiên binh mới, việc đề cử và huấn luyện đều thi hành theo chiếu chỉ tướng quân.
(Sách 《Bố lục》 ghi, do Lợi Tuân tâu xin.)
[23] Bãi bỏ việc Tẩu mã thừa thụ ba ngày tâu một lần báo an.
(Sách 《Bố lục》 ghi.)
[24] Đại Lý tự tâu: “Những người đã bị kết án lưu đày, biên phối, cơ quản mà bị bỏ trốn, thì xử theo tội bỏ trốn, luận như pháp lệnh bỏ trốn tù. Không kể thời gian lâu hay mau, nếu tội bỏ trốn nhẹ mà có bỏ trốn, thì xử theo tội bỏ trốn, luận như pháp lệnh bỏ trốn tù. Không kể ngày nào, thì xử thích phối, khởi đầu hai năm tù, còn lại xử trượng một trăm. Nếu cố ý bỏ trốn nguyên phạm, cường đạo, phối quân, thì quân nhân phối lân châu, công nhân phối bản thành, và không được giảm tội dù có ân xá.
Nếu phối quân bỏ trốn bị bắt, nguyên phối đảo Sa Môn và nguyên phạm cầm vũ khí cướp bóc, mưu sát người, đều xử tội chết. Nếu được tha mạng hoặc được giảm tội do ân xá, hoặc do thân thuộc che giấu mà tự thú, thì giảm tội, và áp dụng theo pháp lệnh thượng cấm quân.
Nếu sau khi bỏ trốn không phạm tội khác, hoặc tuy có phạm tội nhưng tình tiết không đến mức hung ác đáng chết, thì tâu xin xử lý. Nếu không cầm vũ khí mà cướp bóc, tội đáng chết, được tha mạng hoặc được giảm tội do ân xá, hoặc do thân thuộc che giấu mà tự thú, thì giảm tội, và những người nguyên phối Quảng Nam hoặc nơi xa xôi hiểm ác, đều áp dụng theo pháp lệnh hạ cấm quân. Nguyên phối dưới ba nghìn dặm, hoặc chỉ định châu quân hoặc lộ phân phối, thì áp dụng theo pháp lệnh sương quân.
Nếu sau khi bỏ trốn vẫn trở về bản châu huyện mà bị bắt[4], nguyên phối bản châu, thì phối lân châu, lân châu phối năm trăm dặm, năm trăm dặm phối một nghìn dặm, một nghìn dặm phối hai nghìn dặm, hai nghìn dặm phối ba nghìn dặm, ba nghìn dặm và Quảng Nam, đều phối nơi xa xôi hiểm ác.
Những người chỉ định châu quân hoặc lộ phân phối quân[5], không có nguyên phối địa lý, thì đều phối nơi lao dịch nặng.
Những trường hợp trên đã phải thi hành mà chưa đến nơi phối thì bỏ trốn, đều áp dụng theo quy định này. Nếu so sánh với tội phạm không đáng phối mà đặc biệt thi hành thích phối, hoặc so sánh với nguyên phạm đặc biệt tăng giảm địa lý thích phối, thì đều lấy địa lý đặc phối làm chuẩn.”
Vua nghe theo.
(Tân tước.)
[25] Tuyên chính sứ, Thành châu phòng ngự sứ, Nhập nội phó đô tri Phùng Tông Đạo mất. Đặc tặng An Đức quân tiết độ sứ, thụy là Lương Khác.
[26] Ngày Đinh Hợi, Đại Lý tự tâu: “Các lại viên cứ ba người làm một bảo, trong bảo nếu có người vì chức vụ mà phạm tội tham nhũng, cho phép báo lên quan. Biết mà không tố cáo, giảm tội ba bậc so với phạm nhân. Nếu việc phát giác mà phạm nhân bỏ trốn, tùy theo tội nặng nhẹ, đều phải bồi thường tiền thưởng hoặc bị bắt giữ. Những người không được nhập bảo, xem xét việc ở lại hay rời đi, tâu lên Thượng thư tỉnh.” Theo đó.
(Tân tước. Ghi chép việc này, ngày Kỷ Sửu tháng 5 có thể tham khảo.)
[27] Ngày Mậu Tý, Tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang Chương Đôn, vì hoàn thành việc biên soạn và ban hành sách lệnh về thường bình và miễn dịch, được ban chiếu khen thưởng, và ban thưởng 300 lạng bạc và tấm lụa.
[28] Đề cử Vĩnh Hưng quân lộ thường bình đẳng sự Thái Triệu tâu: “Theo chỉ dụ điều tra, được biết Bân châu từ mùa thu năm ngoái không thực hiện việc mua lương thực, dẫn đến thiếu lương thực quân đội, tình thế cấp bách, nên đã phân bổ số lượng thiếu cho các huyện trong châu và bốn huyện dưới quyền. Những nhà có tích trữ lương thực, tùy theo loại thô hay tinh mà để lại một phần, còn lại đều bán cho quan.” Chiếu giáng chức Triều thỉnh lang, Thiểm Tây lộ chuyển vận phó sứ Thiệu (Dược Ti), Triều phụng đại phu, Đề điểm Tần Phượng đẳng lộ hình ngục Lưu Hà, mỗi người giáng một chức, hoãn một kỳ bổ nhiệm. Sau đó, Thái Triệu báo cáo về việc phân bổ lương thực và chậm trễ chi trả tiền ở Bân châu, Tri châu Cừu Bá Ngọc bị giáng chức.
[29] Chiếu rằng: “Các quan chức tại Thiểm Tây, Hà Đông và thân thích của các tể tướng, chấp chính đương nhiệm, nếu thuộc diện phải tránh né theo quy định trong biên sắc, trừ những người đang giữ chức suý thần, giám ty, tri châu quân, quản lý thành trại và các quan binh tướng được phép ra vào, còn lại dù có chức vụ cũng không được đến trước quân. Nếu suý thần thân chinh, được phép mang theo thư ký cơ mật và chỉ huy quân hành, nhưng môn khách và thân thích không được theo quân ra vào. Người vi phạm đều bị xử theo tội vi chế, không được giảm tội dù đã được ân xá hoặc bị cách chức.”
(Ngày 18 tháng 7 năm Chính Hòa thứ nhất kiểm hội, chỉ dụ này thuộc về ngày 13 tháng 6 năm Nguyên Phù thứ nhất[6]. Theo thực lục, sự việc này xảy ra vào ngày 11 tháng 6.)
[30] Trước đó, Lợi Tuân, người phụ trách việc điều động ngựa ở Kinh Nguyên, từ Hi Hà vào tâu, cùng Tăng Bố kể lại việc khi còn ở Phu Diên, thấy Lữ Huệ Khanh có nhiều việc lừa dối và bất công. Ông nói rằng hai con trai của Huệ Khanh ở tiền quân, gây rối loạn công việc của các tướng tá. Lại nói rằng Lý Quỹ và Lã Duy chỉ ở tại Tắc Môn Trại, khi được ban trà thuốc, lại cùng với quân lính nhận ban một chỗ. Lại nói rằng nhiều người bị tội phạm, bị cách chức, vẫn theo quân để nhận thưởng. Lại nói rằng Lã Duy có con rể họ Chu, cũng ở tiền quân, nhiều lần được thưởng, cùng nhiều người thân thích, bạn cũ nhận ân huệ. Lại nói rằng Miêu Lí đi đánh dẹp về, kiểm tra đầu lâu giặc, thấy nhiều đầu lâu trẻ con, đang thu hồi chưa xong, Tuân được lệnh đi Kinh Nguyên, liền gửi thư cho Tuân nói đã cử người thay thế. Tuân nói rằng việc điều động ngựa phải bàn giao công việc, không chịu thay. Rồi mời Tuân uống trà, và nói với Tuân: “Quan không dung châm, tư thông xa mã.” Lại muốn đặc biệt tặng Tuân năm mươi hũ, ý muốn ngăn việc thu hồi, Tuân từ chối không nhận. Lại nói rằng Huệ Khanh chỉ tin cậy Vương Kháng, Lý Hi Đạo nói Kháng rất vô lễ, trước đây ở Tắc Môn chọn đất xây An Viễn Trại, cách trại cũ mười dặm về phía nam, bốn phía không có chỗ ngăn chặn đường quân địch, và thành trại xây cất cẩu thả, e rằng lâu ngày không giữ được. Lại nói rằng muốn người ta gọi mình là tướng công, giận Tuân chỉ gọi mình bằng quan văn. Những lời này đều được báo lên, Vua rất ngạc nhiên, nói: “Huệ Khanh muốn người ta gọi mình là tướng công, chỉ vì muốn làm vậy thôi.”
Tam tỉnh và Mật viện trình tờ tâu của Lợi Tuân, Vua cũng nhắc lại lời Tuân, nhân đó bàn về việc thân thích của các quan lại và tể tướng. Tăng Bố nói: “Thần trước đây từ chối ân thưởng cho Hướng Tử Sân chính vì việc này. Nay Lã Duy và Lã Uyên đều được ban ân đến tám chín lần, đến cả những người bị tội phạm, bị cách chức, vẫn theo quân để nhận thưởng, chỉ vì Lợi Tuân lần này tâu lên, có thể đặt ra pháp luật.” Vua rất đồng ý, liền ra lệnh đặt ra pháp luật. Lần tâu tiếp, Vua lại nói Tuân kể việc của Huệ Khanh không nhất quán, Bố nói: “Thành trại, nên như Hoàn Khánh sai quan kiểm tra, còn lại từng việc đặt ra pháp luật rồi tâu lên.” Lại nói Hứa Tướng từng nói với Bố, Chương Đôn muốn để Huệ Khanh làm tướng ở Trường An, Ôn Khanh làm tướng ở Diên An, nên ở Trường An chậm chạp không chịu cử người. Bố nói: “Như vậy là làm hại triều đình và tiết việt.” Bố cũng thường tâu lên, Vua nói: “Sao dám như vậy?” Bố nói: “Đôn không nói với thần, chỉ nghe Hứa Tướng nói vậy. Đến khi Lợi Tuân đến, kể rõ thành trại Phu Diên không đúng phép, lệnh cho tái nhiệm. Như vậy là phá được âm mưu gian trá, lại dùng người khác thay thế, ắt sẽ có lời bàn tán, như vậy thì ý muốn làm tướng ở Trường An của Huệ Khanh đã rõ.”
Vì thế hạ chiếu, (tháng 11 ngày Mậu Tý, Bố ghi vào tháng 9 ngày Bính Dần.) đều dùng lời của Tuân. Vua hỏi: “Thân thích của tể tướng là ai?” Bố nói: “Hướng Tử Sân là con rể của thần, Lý Quỹ ở Phu Diên là cháu của Hoàng Lí, Chương Diên là cháu của Đôn.” Đôn nói: “Diên đã bãi chức.” Bố tâu lại nhiều lần, Vua nói: “Hoàng Lí xin bãi chức Lý Quỹ.” Bố nói: “Như vậy, thần cũng xin bãi chức Hướng Tử Sân.” Vua nói: “Rất tốt!” Đôn lại nói: “Có cháu là Hoàng Tể làm thuộc quan ở vận ti Hà Đông, cũng xin bãi chức.” Vì thế Tử Sân và Lý Quỹ đều bị bãi chức.
[31] Viện Xu mật tâu: “Xin cho các sứ thần phụ trách việc xây dựng thành trại được chọn trước từ các tướng lĩnh chuẩn bị, sứ thần chuẩn bị sai phái và các tướng lĩnh bộ đội, sứ thần trong nội bộ. Nếu không đủ, cho phép chọn từ các quan đương nhiệm trong châu quân của bản lộ. Nếu vẫn không đủ, mới cho phép chọn từ các sứ thần đã thay thế và đang chờ bổ nhiệm. Căn cứ vào quy mô của thành trại được xây dựng, mỗi trăm bước, số sứ thần phụ trách không được vượt quá mười người. Các quan viên phụ trách phòng thủ và vận chuyển, căn cứ vào số người thực tế cần dùng, không được vượt quá số lượng quy định. Các sứ thần phụ trách đào hào, xây dựng thành trại và phòng thủ, phải đợi đến khi công trình thành trì, lầu canh hoàn thành mới được rời đi, không được về trước. Người nào vi phạm, giao cho quan thống chế và sứ thần tẩu mã thừa thụ điều tra và tâu lên.
Các lộ khi xuất quân đánh dẹp hoặc xây dựng, ngoài các sứ thần tùy quân do Kinh lược ty cử, cho phép quan thống chế và đồng thống chế đem theo sứ thần ra khỏi biên giới, trong đó quan thống chế không được vượt quá năm người, đồng thống chế không được vượt quá ba người, và phải nêu rõ tên để Kinh lược ty bổ nhiệm. Các quan văn, trừ những người phụ trách điều phát tiền lương, lương thực, vật liệu và các quan huyện lệnh, tá phụ trách hộ tống nhân phu, đều không được đem theo tùy quân ra vào. Việc chăm sóc y dược, cơm nước, chọn cử các chỉ sử, theo chỉ đạo gần đây, tâu lên để bổ nhiệm sứ thần. Những người đã bị thay thế hoặc phạm tội, dù là sứ thần lớn nhỏ, phải từng có chiến công, tài năng và dũng cảm được mọi người biết đến, mới được cử đi. Theo chỉ đạo gần đây, tâu lên chờ chỉ dụ của triều đình.
Công trạng do quan thống chế ghi chép thành một bản, gửi cho sứ thần tẩu mã thừa thụ để thông báo. Nếu có người gian lận, mạo nhận hoặc không hợp lệ đi theo quân, phải bí mật tâu lên. Nếu dám che giấu hoặc sơ suất trong kiểm tra, sứ thần tẩu mã sẽ bị xét xử tùy theo mức độ nặng nhẹ, đặc biệt sẽ bị thay thế hoặc giáng chức. Những người không hợp lệ đi theo quân, dù có lập công, cũng không được bảo lãnh tâu lên. Các quan tướng và sứ thần thành trại, nếu không liên quan đến công việc, và các quan đương nhiệm trong lộ vì công vụ đi qua, đều không được tiếp kiến. Nếu vì thế mà có yêu cầu gì, và người phạm tội, đều phải điều tra và tâu lên chờ xử lý. Kính mong Kinh lược an phủ ty, Chuyển vận đề hình ty, cùng nhau điều tra và tâu lên. Sứ thần tẩu mã thừa thụ cũng phải thực hiện theo quy định này. Những người vi phạm các điều trên, đều bị xử theo luật vi chế, không được giảm tội vì đã từ chức hoặc được ân xá.”
Triều đình chấp thuận.
(Tân lục không có đoạn này, Cựu lục ghi vào ngày mồng 9. Đoạn này có lẽ là điều Tăng Bố nói vào ngày 11: “Hoàng thượng vì Lợi Tuân tâu về việc những kẻ phù lãng, phạm tội, bị thay thế ở Phu Diên đi theo quân, nên lệnh cho Bố lập ra pháp này[7].” Nên hợp phụ vào sau chiếu ngày 11.)
[32] Ngày Kỷ Sửu, Long Đồ các đãi chế, tri châu Doanh là Ngu Sách được bổ nhiệm làm tri quân Vĩnh Hưng, Long Đồ các đãi chế, tri phủ Dĩnh Xương là Thịnh Đào được bổ nhiệm làm tri châu Doanh.
[33] Cùng ngày, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng trình lên, Tư gián tả ty là Trần Thứ Thăng xin bổ nhiệm chức suý quân Vĩnh Hưng. Mọi người đều nói: “Chức vụ này đã khuyết lâu, nên bổ nhiệm ngay.” Hoàng đế hỏi: “Ai có thể đảm nhận?” Chương Đôn muốn cử Ngu Sách, Hoàng đế nói: “Không có ai khác, hãy tạm để ông ấy đi.” Lại trình lên việc khuyết chức suý Cao Dương, Hoàng đế hỏi: “Ai có thể?” Chương Đôn nói: “Thịnh Đào hoặc Trương Thương Anh.” Hoàng đế nói: “Cao Dương cần người có hai chức.” Tăng Bố nói: “Nếu bổ nhiệm, thì phải cho chức đãi chế.” Hoàng đế hỏi: “Từ chức quan nào mà bổ nhiệm?” Thái Biện nói: “Thái thường thiếu khanh.” Tăng Bố nói: “Từng giữ chức trực Long Đồ các, như Lữ Gia Vấn cũng vậy.” Thái Biện nói: “Gia Vấn từng làm tu soạn, không giống Thương Anh.” Hoàng đế nói: “Trước đây muốn bổ nhiệm quyền thị lang còn không được, huống chi là đãi chế?” Tăng Bố nói: “Thương Anh đã lâu năm, cùng với thần và Đôn, Tướng cùng thời làm kiểm chính quan, thâm niên đã sâu, lại từng được sai khiển ở ngoài, nên mới bàn đến.” Hoàng đế nói: “Hãy dùng Thịnh Đào, có được không?” Mọi người nói: “Cao Dương không có việc gì.” Chương Đôn nói: “Thịnh Đào từng làm thông phán Cao Dương, chắc chắn không thể làm được.” Hoàng đế nghe theo. Ngu Sách, Thịnh Đào, Trương Thương Anh, đều do Tăng Bố đề xuất từ Tam tỉnh, Tam tỉnh vốn nghi ngờ Thương Anh khó tiến cử. Khi đối đáp lại, Tăng Bố nói: “Vừa rồi đề xuất tiến cử Thương Anh, là muốn cho ông ấy một chức sai khiển ở ngoài, vì thâm niên đã sâu, nên muốn dùng cách này để xử lý.” Hoàng đế cười nói: “Cho ông ấy một chức tu soạn ở ngoài cũng được.” Ngu Sách sau đó vì bệnh của người thân từ chối, được đổi làm tri châu Hàng. Tri châu Hàng, Bảo Văn các đãi chế là Lý Tông được bổ nhiệm làm tri quân Vĩnh Hưng.
(Tháng 8 ngày Bính Tý, Ngu Sách đổi làm tri châu Hàng, Lý Tông làm tri quân Vĩnh Hưng, ngày 2 tháng 12 ngày Bính Tý, Trương Thương Anh được bổ nhiệm làm tu soạn, phát vận sứ.)
[34] Hoàng thành sứ[8], thứ sử châu Cao, đái ngự khí giới là Diêm An được bổ nhiệm làm nội thị áp ban.
[35] Ba tỉnh và Xu mật viện trình lên, Ngự sử trung thừa An Đôn xin quy định về việc phân bổ số lượng quan viên khi xây dựng thành trại và việc thân thích lạm dụng thưởng. Đại để các việc này đã được thực hiện, nên trình xong.
(Theo ghi chép của Bố vào ngày Kỷ Sửu, Bố nói rằng đại để đã thực hiện, vì ngày 11 Mậu Tý đã có chỉ dụ cấm chỉ.)
[36] Binh bộ và Hình bộ tâu: “Áo nạp dùng cho quân đội phải được cấp phát cùng với khí giới. Nếu ai nên nộp mà giấu giếm sử dụng, hoặc cho người khác sử dụng quá ba ngày, đều bị xử theo tội vi chế. Nếu không phải vì chiến đấu hoặc phòng thủ mà tự ý mượn dùng, hoặc cho người khác mượn, cũng xử theo quy định này. Những việc trên đều không được giảm tội dù có ân xá.” Triều đình đồng ý.
(Không có trong bản mới.)
[37] Lại bộ tâu, các châu thông phán, mạc chức quan, huyện lại thừa, bạ, uý đều phải đến sảnh đường của trưởng quan bàn việc hàng ngày. Thông phán và mạc chức quan còn phải ký tên vào văn thư ngày đó tại sảnh đường của trưởng quan hoặc đô sảnh. Triều đình đồng ý.
[38] Ngày Tân Mão, quan chức người Thổ là Đông thượng các môn sứ, Hùng châu phòng ngự sứ, Hi Hà châu bộ lạc tử tướng quyền Kinh Nguyên lộ chuẩn bị sứ hoán Lý Trung Kiệt, cùng Hoàng thành sứ, Hạ châu thứ sử, Hà châu bộ lạc tử tuần kiểm Lý Thế Cung vào yết kiến. Triều đình ra lệnh bảo Trung Kiệt và Thế Cung: “Nay sai các ngươi đến Kinh Nguyên, Hi Hà lộ, hãy lập công lớn, sẽ được ban thưởng hậu hĩnh.” Trung Kiệt và Thế Cung lạy tạ. Mỗi người được ban thương bào, bài thúc đai. Lại hỏi: “Các ngươi có biết việc Thiên Đô Sơn đã thuộc về Hán giới chưa?” Trung Kiệt đáp: “Thần ở gần Thiên Đô Sơn.” Lại hỏi: “Có muốn đến Hi Hà quản lý bộ tộc không?” Trung Kiệt đáp: “Nếu có chỉ dụ, thần sẽ đi.” Vua nói: “Hãy tạm sai Thế Cung đi trước.”
(Có thể tham khảo thêm vào cuối tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4.)
[39] Chiếu cho quyền phát khiển Thiểm Tây chuyển vận phó sứ công sự Diêm Lệnh cùng với đề điểm hình ngục Tôn Quán, cùng nhau quản lý việc kế hoạch mua lương thảo ở Phu Diên, Hoàn Khánh lộ để ứng phó nhu cầu quân sự.
[40] Kinh Nguyên lộ kinh lược ty tâu rằng, việc xây dựng hai trại Một Yên Tiền và Một Yên Hậu đã hoàn thành. Chiếu đặt tên trại Một Yên Tiền là Thông Hạp trại, trại Một Yên Hậu là Đãng Khương trại. Chương Tiết và những người khác được ban thưởng vật phẩm theo thứ bậc[9].
(Ngày 28 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ 4 bắt đầu đề xuất, ngày 8 tháng 7 cùng năm ban thưởng[10]. 《Bố lục》 ghi Đãng Khương là Oai Khương, nên theo 《Thực lục》.)
[41] Hi Hà tâu: “Chung Truyền xuất quân, giết và bắt được hơn ba nghìn người, chỉ có hơn bốn trăm người bị chôn vùi trong đất Hội Ninh, xác minh có thật. Còn lại đều bị chôn vùi ngoài biên giới, khó xác minh.” Chiếu cho Trương Tuân cáo dụ tướng sĩ, lệnh theo chỉ dụ gần đây, tự khai báo để sửa chữa. Những người bị chôn vùi ngoài biên giới, hỏi rõ tướng tá, xác thực rồi tâu lên. Nếu sau này phát hiện không đúng sự thật, tướng tá sẽ bị trừng phạt nặng.
(《Bố lục》 ngày Tân Mão. Ngày 21 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4, Chung Truyền dẫn quân Hi Tần ra khỏi biên giới, tâu đã chém và bắt được bốn nghìn người. Ngày 8 tháng 7 năm Nguyên Phù thứ nhất, Tần châu xác minh Chung Truyền lấy mười lăm người làm một nghìn ba trăm người, ngày 9 lại sai Từ Ngạn Phu hợp hành chế.)
[42] Hình bộ tâu rằng, châu Doanh tra xét việc Tri châu Bá châu là Lý Chiêu Củng và những người khác, trước đây vì người phương Bắc đánh cắp và phá cầu châu Bá, vào trường mậu dịch giết hại quân dân, nhưng không có biện pháp xử lý, cũng không phòng bị trước. Đáng được ân xá. Chiếu giáng Lý Chiêu Củng một cấp; Quyền Thông phán Khấu Nghị theo lệ người bị thay thế; Thôi quan Lương Hoán bị thay thế; Tuần kiểm cùng Giới hà là Vương Phổ, Câu đương trường mậu dịch Từ Xương Minh mỗi người bị truất hai cấp; Tuần kiểm Lưu Gia Oa Mạc Kim Khẩu là Giả Nham, Tuần kiểm Điêu Ngư là Dương Cực mỗi người bị truất một cấp, và bị cách chức; An phủ sứ vùng biên giới phía Bắc, Đông thượng các môn sứ, Thứ sử châu Tư là Lý Lượng bị bãi chức Dao quận, được bổ nhiệm chức vụ khác ở ngoại nhiệm; Phó sứ Lưu Phương bị giáng một cấp; Cơ nghi Trương Đường bị thay thế. Ban đầu, Lộ Xương Hoành từ Cao Dương trở về, kịch liệt nói rằng Lý Lượng cố chấp tự quyết[11], e rằng sẽ sinh sự. Tăng Bố nhân đó nói rằng Ty An phủ vùng biên cũng nhiều lần có báo cáo thám thính, nhưng không có biện pháp xử lý, đáng bị giáng chức. Vua muốn xử lý ngay, Tăng Bố xin đợi tra xét xong việc ở châu Bá, rồi cùng xử lý một lần, Vua đồng ý, đến nay mới trách phạt.
(Lý Chiêu Củng, Khấu Nghị trước đã bị thay thế, vào ngày Quý Mùi tháng 8 năm Thiệu Thánh thứ 4, nay lại theo lệ người bị thay thế.)
[43] Ngày Nhâm Thìn, Thông phán châu Doanh là Lục Nguyên Trưởng bị phạt 20 cân vàng, vì khi tra xét việc người phương Bắc vào trường mậu dịch châu Bá, không tuân theo chỉ dụ triều đình, tự tiện xin chỉ thị.
[44] Chiếu lệnh đưa 5 chỉ huy bộ binh huyện Hoa Đình thuộc lộ Kinh Nguyên trở về lộ Hi Hà. Trước đây, vào năm Hi Ninh, đã điều về lộ Hi Hà, tháng 4 năm nay, Chương Tiết xin trả về lộ Kinh Nguyên. Đã đồng ý, nhưng Trương Tuân tranh cãi mãi, nên có mệnh lệnh này. Vẫn điều 5 chỉ huy từ lộ Tần Phượng đến lộ Kinh Nguyên.
(Theo sử ký của Tăng Bố ngày Nhâm Thìn, và tấu chương của Chương Tiết ngày 19 tháng 12 năm thứ 2 được thêm vào.)
[45] Ngày Quý Tỵ, Tướng tác giám tâu: “Thành Nam Giao, phụng chỉ tu sửa điện đài, đã vẽ đồ án trình lên. Nay đã có đồ mẫu, nhưng chưa dám theo đồ mà xây dựng.” Vua phê: “Sai Nhập nội đông đầu cung phụng quan, Câu đương Ngự dược viện Lưu Hữu Đoan, cùng Tướng tác giám quản lý việc tu sửa, còn lại đều theo chỉ dụ trước đây khi tu sửa cung Bắc Giao mà thi hành. Lại lệnh cho Tướng tác giám cùng quan được sai lần này, xem xét lại và vẽ đồ án trình lên, chờ chỉ dụ.”
(Sự việc ngày 16 tháng 6 trong 《Ngự tập》.)
[46] Kinh lược sứ Hoàn Khánh là Tôn Lộ tâu rằng, đất đai vùng Hoành Sơn mới xây thành trại chỉ chiếm được hai ba phần mười, nhưng nơi tuần tra đã gần một nửa[12], nếu xây xong bốn thành trại là Chi Tự Bình, Uy Chương Ba, Định Biên, Mạnh Môn, thì cả vùng núi này sẽ thuộc về ta. Vì ngoài các thành trại, hơn trăm dặm đất, người Tây Hạ không dám cày cấy và ở. Tăng Bố từng chê Chương Đôn cho rằng việc mở rộng đất đai đã có tiến triển nhưng chưa biết thực hư, nên đã hỏi khắp các lộ, xem Hoành Sơn bắt đầu từ đâu? Kết thúc ở đâu, chiều dài rộng đông tây nam bắc bao nhiêu, đất đai các thành trại mới cũ chiếm được bao nhiêu phần, cũng nhiều lần tâu lên Vua. Lời tâu của Tôn Lộ về địa lý không dám không chính xác, chỉ nói rằng nếu xây xong bốn thành trại thì sẽ chiếm được toàn bộ. Vua xem xong, thấy rõ thực tế địa lý xa gần, rất hài lòng.
[47] Ngày Giáp Ngọ, chiếu biên soạn sách 《Thường bình miễn dịch sắc lệnh cách thức》 hoàn thành, Tường định quan, Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Triều tán đại phu Thái Kinh, được thăng làm Triều thỉnh đại phu, các quan lại khác được giảm năm và ban thưởng khác nhau.
[48] Minh Châu tâu, nước Cao Ly năm nay tháng 7 cử sứ sang triều cống. Chiếu cho Cung bị khố phó sứ kiêm Cáp môn thông sự xá nhân, Đái ngự khí giới Hướng Chỉ làm Dẫn bạn sứ, Nội điện thừa chế, Cáp môn chi hậu Cổ Dụ làm phó.
[49] Ngày Ất Mùi, Hộ bộ và Hình bộ tâu: “Các quan giám môn thu mua lương thảo dùng lụa mới, hương dược và tiền giấy để nộp vào số hộc đấu, tính chung vào số lượng mua để thưởng phạt. Từ khi khách nhân trình đơn[13], hạn trong ba ngày phải nộp xong, cấp cho giấy giao dịch. Sau đó, phải trình lại đơn gốc, cùng với ngày tháng đã nộp và cấp giấy, báo lên Thượng thư Hộ bộ để kiểm tra[14]. Nếu các quan giám môn tại trường đó cố tình gây khó dễ, hoặc bắt đổi sang hình thức mua hòa địch, đều bị phạt trượng một trăm, giao cho Đề hình ty kiểm tra và xử lý.” Được chấp thuận.
(Đã bỏ phần mới thêm.)
[50] Ngày Bính Thân, Hữu ty Viên ngoại lang Tăng Mân được bổ làm Tả ty Viên ngoại lang, Khảo công Viên ngoại lang Tạ Văn Quán được bổ làm Hữu ty Viên ngoại lang, (Tạ Văn Quán, tháng 8 năm Chính Hòa thứ 3 có truyện.) Quốc tử giám Chủ bạ Chu Bang Ngạn được bổ làm Chính tự.
[51] Hôm đó, Tả thừa Thái Biện xin từ chức, rồi bỏ đi. Tăng Bố tâu việc, Vua hỏi: “Biện xưng bệnh xin nghỉ, có thật bệnh không?” Bố đáp: “Biện vốn yếu đuối, hay đau ốm, gần đây do thời tiết ẩm thấp nên thường đau bụng. Nhưng người ta cũng nhiều người như vậy, Biện biết tự giữ gìn, ăn mặc đều có chừng mực, nếu không thì không thể chống chọi được.”
Vua nói: “Người ta vốn nên tự giữ gìn, Đôn thì thường buông thả.” Bố nói: “Nhưng ông ấy cũng hay đau ốm, trước đây từng bị xuất huyết, bệnh trĩ và đau nội tạng, có khi năm bảy ngày không ra ngoài được.” Vua cười cho là phải.
Trước đó, Biện vì việc đổi niên hiệu tâu cáo ở Nam Giao, hôm đó bổ nhiệm Lễ bộ viên ngoại lang Lưu Quỳ làm Quốc tử giám Tư nghiệp. Quỳ là con rể của Lữ Gia Vấn, thân với Kiển Tự Thần, nhưng lại rất khác hai người này, được sĩ luận khen ngợi. Tam tỉnh bàn bạc lâu về việc bổ nhiệm này, nhưng Biện cho là không nên. Gặp lúc Phạm Thang thử người cho chức Tư nghiệp đang khuyết, bèn tiến cử để Quỳ tạm quyền[15].
Vua nói: “Sao không bổ nhiệm luôn, còn quyền gì nữa!” Bèn phê chỉ bổ nhiệm.
Hôm sau Biện vào triều, mặt mày giận dữ, nhưng biết là do chỉ Vua nên không dám tranh. Sau đó ông ta nhiều lần xin nghỉ, đến lúc này lại bổ nhiệm Tạ Văn Quán làm Hữu ty, cũng là người Biện không đồng ý. Mà ngày 18 lại được chỉ Vua trước, không thể cản được, nên mới có việc bổ nhiệm này.
Triệu Đĩnh Chi làm Trung thư xá nhân, lại muốn tiến cử Quách Tri Chương, đều không phải người Biện muốn. Biện cũng từng muốn dẫn Diệp Lệ làm Tả hữu sử, Đôn trước mặt Vua mắng rằng: “Lệ viết hai bài văn nhỏ, cũng có chỗ sai sót, không dùng được. Nói được một câu[16], lại có hai ba câu nói không trúng[17], thêm nữa tâm tính, mọi người không đồng ý, không dùng được.” Lại muốn dẫn Đặng Tuân Vũ, Ngô Bá Cử, cũng không thành, mà những người được tiến cử lại không phải người ông ta thích, nên tích tức bất bình, muốn xin từ chức.
Hôm đó, Tây phủ tâu đã đến Quan Âm viện, lại tâu chuyển hành lý, gia quyến ra khỏi phủ, đều không có tuyên dụ. Chiều tối mới sai Lưu Hữu Đoan đem văn thư trả lại, lệnh về tỉnh làm việc. Hai ngày sau, Biện vào, Tam tỉnh, Xu mật viện tâu việc, đều đứng lui ra không tham gia, Vua cũng không để ý. Sau đó ở lại khúc tạ[18], rồi sai Hữu Đoan đưa về Đô đường.
Vua bảo Bố: “Biện xin nghỉ rất kiên quyết, phải đợi ông ta dâng văn thư hai ba lần.” Bố nói: “Không có lý do để nghỉ.” Vua nói: “Không có lý do, kiên quyết muốn nghỉ, có việc gì khác không?” Bố nói: “Biện với đồng liệt nhiều chỗ không hợp, trước đây thân với Chương Đôn, nay cũng không hợp. Thêm nữa anh em có hiềm khích, nên không yên lòng.”
Vua nói: “Anh em Biện không hòa thuận.” Bố nói: “Không biết, chỉ nghe nói vợ ông ta không vui.” Vua hỏi: “Kinh cũng có vợ, là con nhà ai?” Bố đáp: “Nhà Từ Trọng Mưu thiếu khanh.”
Vua nói: “Hai người vợ không hòa thuận.” Bố nói: “Nghe nói như vậy.”
Vua nói: “Biện nói không có gì khác, chỉ vì yếu đuối hay đau ốm nên muốn nghỉ.” Bố nói: “Tình thế sao có thể nghỉ? Lâm Hi nghỉ[19], vẫn chưa có người thay thế, Biện sao có thể nghỉ được.”
Vua nói: “Anh em có hiềm khích.” Bố nói: “Đúng vậy, dùng Kinh không bằng dùng Biện.”
Vua nói: “Không giống nhau, không giống nhau.” Bố nói: “Đúng như thánh dụ, Biện đọc sách sợ nghĩa lý, thật khác với Kinh.”
Vua lại nói: “Không giống nhau, không giống nhau.” Bố tâu việc xong lui ra, Biện đã về Đô đường, bèn đến Đô đường gặp ông ta, làm việc như cũ.
Vua từng nói: “Nay Phạm Trọng Yêm, Chương Đôn hay chê bai.” Tăng Bố nói: “Trọng Yêm hiểu việc biên cương, từ vụ Tây sự năm Bảo Nguyên đến nay, thường nói về việc lấy Hoành Sơn, lại là bậc danh thần đời Nhân Tông, lập triều cương trực.” Thái Biện cũng nói: “Trọng Yêm có nhiều điểm tốt. Thời Chương Hiến, nhiều lần vì nói thẳng bị giáng chức, đến khi Nhân Tông thân chính, lại xin không trị tội nặng việc thùy liêm, đại tiết ấy rất đáng khen.” Bố nói: “Đúng như lời Biện.” Lui ra, Bố lấy làm lạ Biện biết vậy mà không làm theo.
(Bố ghi cuối tháng 6, nay phụ vào đây.)
[52] Ngày Mậu Tuất, Kinh lược ty lộ Hà Đông tâu rằng việc xây dựng trại Thần Tuyền đã hoàn thành. Triều đình ban chiếu thăng chức, giảm tuổi, ban thưởng có thứ bậc khác nhau cho các quan viên, sứ thần.
(Ngày 11 tháng 4 ban tên. 《Bố lục》: Thưởng công trại Thần Tuyền Hà Đông, lại theo lời xin của Hoàn Khánh xây dựng trại Manh Môn.)
[53] Hiệu lý Bí các Trần Sư Tích được bổ làm Viên ngoại lang Khảo công.
(《Bố lục》 chép: Tam tỉnh bổ Sư Tích làm Khảo công, sĩ luận đều cho là hợp lý, chỉ có Thái Biện không vui. 《Mộ minh》 chép: Làm Khảo công hơn một năm, vốn là người xin bổ ngoại, được làm Tri châu Tuyên Châu.)
[54] Ngày Kỷ Hợi, ban chiếu rằng: “Chức Đô tuần kiểm phủ giới Đông, Tây lộ Khai Phong khuyết, do Xu mật viện tuyển chọn. Các châu Kiềm hạt các lộ, nếu không phải là tiết trấn lớn, thì xếp dưới Đô giám các lộ thuộc đẳng thứ sáu. Trừ tông thất được phép thêm chức như cũ, những người từng giữ chức Tướng, Phó, Phó sứ các ty trở lên[20], cùng các Xá nhân Cáp môn thông sự, được đặc chỉ cho bổ nhiệm, đều bổ vào những nơi từng bổ người, hoặc thay thế chỗ khuyết Đô giám có hai người. Trong số trên, nếu thuộc diện quyền phát khiển, thì lương bổng theo lệnh Đô giám châu[21].”
(Phần “ứng chư lộ” trở xuống bị bỏ mới.)
[55] Ngày Tân Sửu, Xu mật viện tâu: “Nghe nói người và ngựa của giới biên phía Tây cùng các hộ dân, so với trước đây, đã đóng quân gần hơn biên giới nhà Hán. Lo rằng khi mùa thu tới, lương thảo của giặc ngựa có thể được cung cấp[22], từ đó xâm phạm biên giới. Xin cùng các lộ xem xét tình hình địch, xuất binh đánh đuổi, đồng thời dẫm nát những nơi chúng đến, khiến giặc mất hy vọng thu hoạch, như vậy sẽ có lợi cho ta.” Chiếu cho các lộ suý thần, mỗi người nhân cơ hội thuận lợi, vượt biên giới dẫm nát, đánh dẹp, cố gắng thăm dò báo cáo chính xác, quyết giành thắng lợi[23]. Đồng thời báo cáo chi tiết kế hoạch thực hiện.
(Theo sách 《Bố lục》: Kinh Nguyên, Hà Đông báo rằng người Tây đã đến gần biên giới canh tác và chăn nuôi, chiếu cho các suý xem xét xuất binh quấy nhiễu.)
[56] Trương Tuân tâu, xin mùa thu này xem xét xây dựng Thanh Nam Nột Tâm, được chấp thuận. Lại xin về Lý Trung Kiệt, lệnh cho Chương Tiết xem xét, nếu có thể cử đi thì cử đi.
[57] Thái thường tự tâu, các quan Quang lộc tự, từ nay về sau, mỗi khi gặp lễ tế, sau khi đã nhận lời thề giới trong đại tế, và trong ngày tán trai của trung tế và tiểu tế, các việc cấm đoán đều theo nghi lễ tế tự, Giao xã lệnh cũng xin theo như vậy. Được chấp thuận.
[58] Ngày Nhâm Dần, Triều tán đại phu, quyền Hà Đông lộ chuyển vận sứ Quách Mậu Tuấn bị giáng làm Triều thỉnh lang, do việc vận chuyển lương thảo, thuê xa giá thấp, gây phiền nhiễu cho dân.
(Theo sách 《Bố lục》: Mậu Tuấn bị giáng hai chức, Thủ, Thối mỗi người một chức.)
[59] Tam tỉnh, Xu mật viện tâu, công lao ở Đại Sa Đôi thuộc Phu Diên, những người trong bản tướng đã có chức quan mà được thêm sai phái[24], sẽ chia phần thưởng hợp lệ cho hai người, còn Trương Nhược Nột, Lã Duy, v.v., không được ban ân. Được chấp thuận.
(Theo sách 《Bố lục》 ngày Nhâm Dần, công lao ở Đại Sa Đôi vào ngày 13 tháng 5.)
[60] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu: “Thần nghĩ Thần Tông hoàng đế thánh minh diệu dụng, vốn không phải là những kẻ tục nho đương thời có thể hiểu thấu, còn như việc chăm chỉ trị nước, xét xử các vụ án một cách minh bạch, thì thiên hạ ai cũng biết. Nhưng vào đầu niên hiệu Nguyên Hựu, bệ hạ chưa thân chính, bọn gian thần nhân cơ hội bàn việc lập Tố lí sở[25], những ai bị kết tội trong niên hiệu Nguyên Phong đều được minh oan. Họ oán trách triều trước, thu phục ân huệ cho riêng mình, có ý kết nạp bè đảng tội phạm để làm trợ thủ. Không rõ lúc đó các cơ quan xử lý thế nào, nếu xuất phát từ ý đồ xấu, thì không thể không sửa đổi. Xin triều đình cử quan xem xét lại toàn bộ hồ sơ của Tố lí sở thời Nguyên Hựu, nếu cần sửa đổi thì xin làm rõ ý nghĩa của việc kết tội, rồi thi hành lại theo bản án cũ.”
Chiếu cho Kiển Tự Thần và An Đôn xem xét, những lời khai và văn bản của Tố lí sở[26] có điều gì trái với triều trước, thì ghi rõ chức vụ, tên họ, tâu lên riêng.
(Cựu lục chép thêm: “Để sửa lại hình pháp của tiên đế.” Bản mới bỏ đi. Ngày 17 tháng 6 năm Nguyên Phù thứ 3, Cung Quái tâu xin bãi bỏ mệnh lệnh này.)
Trước đó, Tự Thần đã xin việc này, nhưng Vua ngần ngại. Đến đây, Đôn lại tâu lên. Thái Biện khuyên Chương Đôn nhất định phải thi hành. Lệnh cho Tự Thần cùng Đôn và Từ Đạc cùng phụ trách việc này. Từ đó về sau, những người bị vạ lây do Tố lí sở có đến bảy tám trăm người. Tự Thần và Đôn chính là người khởi xướng.
(Ngày 17 tháng 6 năm Nguyên Phù thứ 3, có thể tham khảo.)
Tăng Bố tự thuật rằng: “Tháng này, nhiều lần nghe ba tỉnh bàn rằng, An Đôn đã được bổ làm Ngự sử trung thừa, bèn xin cử quan xem xét lại văn bản của Tố lí sở thời Nguyên Hựu, rồi thi hành lại theo bản án cũ. Sau đó, tra cứu được những người liên quan đến Tố lí sở[27], tổng cộng 897 người. Hứa Tướng, Hoàng Lí và Diệp Tổ Hợp đều nhờ người khác tố cáo[28], mà được khôi phục lại thời gian khảo hạch bị trì hoãn. Ba tỉnh thấy động chúng nên hơi chậm trễ, Đôn lại dâng sớ nói: ‘Nghe nói triều đình cho rằng số người quá nhiều không thể thi hành, nhưng chính vì số người nhiều nên càng phải sửa đổi. Đây là do người thời Nguyên Hựu muốn phơi bày việc triều trước trừng phạt quá nhiều.’
Ba tỉnh họp bàn, mãi sau mới quyết định. Được chỉ dụ, chỉ lệnh cho Đôn và Tự Thần xem xét, những lời khai và văn bản của Tố lí sở[29], nếu có điều gì trái với triều trước, thì ghi rõ tên họ tâu lên. Sau đó lại nói, lệnh đem thánh chỉ đã phê trình lên lại vào ngày hôm sau, rồi mới ban xuống. Mọi người đều khen là công bằng.
Việc này vốn do Tự Thần khởi xướng, năm trước khi còn làm Hữu sử, Tự Thần đã từng dâng sớ xin truy cứu sửa đổi, nhưng Vua giữ lại không ban xuống. Nay giao cho ông ta, cũng là để ngăn chặn sự xôn xao. Tuy nhiên, vẫn xin lập ty riêng để xem xét, hạn trong nửa năm kết thúc, vẫn có ý phô trương. Nhưng đã được chỉ dụ như vậy, chắc cũng không thể thêm gì được nữa.”
(Theo 《Tăng Bố nhật lục》, 《Trần Quán tôn nghiêu tập》 và lời bàn thêm. 《Tăng Bố nhật lục》 bàn về việc xem xét Tố lí sở, đã chép kèm vào ngày 21 tháng 3 năm Thiệu Thánh thứ 3 khi Vương Nghi bãi chức đề cử.
《Trần Quán tôn nghiêu dư ngôn》 viết: Thần nghe khi Thường Lập vào chầu, Diệp Đào đang ở Sử viện. Tăng Bố ủng hộ Diệp Đào. Việc Triết Tông được xem hành trạng của Thường Trật, Biện và những người khác cho rằng Bố và Đào tâu lên, nên lại dựng lên việc Tố lí sở, trả thù Bố và Đào, mà những người bị vạ lây do Tố lí sở có đến bảy tám trăm người. Cho đến việc của Tăng Bố, tan nhà nát cửa, nhưng ý muốn trả thù của Biện và những người khác vẫn chưa thỏa.
《An Đôn truyền》: Đôn làm Ngự sử trung thừa, tâu xin cử quan lấy hồ sơ của Tố lí sở thời Nguyên Hựu xem xét sửa đổi[30], làm rõ ý nghĩa của việc kết tội ban đầu, rồi thi hành lại theo bản án cũ. Chiếu cho Đôn cùng Kiển Tự Thần, Từ Đạc cùng xem xét. Đôn tâu: “Những ai bị kết tội trong niên hiệu Nguyên Phong, xin đặc biệt ra quyết định, để khuyên răn thiên hạ.” Từ đó, những người bị thi hành lại có hơn nghìn người. Lại tâu: “Đầu niên hiệu Nguyên Hựu lập Tố lí sở, đem những án đã xử từ niên hiệu Hi, Phong trở lại đây, tâu xin minh oan, tố cáo triều trước, oán trách Vua cha, những quan xem xét trước đây là Lưu Chí, Tôn Giác, Hồ Tông Dũ, Phó Nghiêu Dũ, Diệp Thân, Tô Gia, Chu Quang Duệ, Ngô Thù, Trần Phu, xin trị tội.” Lúc đó, Chí và những người khác đã bị đuổi, Thân và những người khác đều bị giáng chức, việc xảy ra vào ngày 6 tháng 3 năm thứ 2.
Xét: 《Từ Đạc truyền》 không chép việc cùng xem xét Tố lí sở, cần tra cứu thêm.)
[61] Kinh Nguyên lộ Kinh lược An phủ sứ Chương Tiết tâu: “Xin cho các châu, quân, huyện, trấn, thành, trại, bảo dọc biên giới nơi mua bán lương thực, trước đó phải treo bảng cáo thị dân chúng, không được tranh mua với quan phủ, làm tăng giá cả. Nếu sau này quan phủ thu mua không được, kế hoạch năm bị thiếu hụt, thì giao cho quan chức địa phương kiểm tra các nhà tích trữ lương thực, tính toán số lượng lương thực cần dùng trong một năm cho gia đình họ, ngoài số đó ra, phần còn lại đều theo giá tại các chợ mua bán lương thực, thu mua vào quan phủ.” Chiếu theo lời tâu, và áp dụng tương tự cho Thiểm Tây lộ.
[62] Kinh lược ty Phu Diên lộ tâu, sai Phó đô Tổng quản Vương Mẫn thống lĩnh các tướng đem quân ra khỏi biên giới, đánh nhau với giặc Tây và lập được công. Chiếu ban thưởng cho các tướng từ chủ tướng trở xuống theo thứ bậc, giảm tuổi, cấp phát phần thưởng có sai biệt.
[63] Hôm đó, Đô đề cử Giả Chủng Dân từ việc tu sửa sông Biện trở về, Vua bảo Tăng Bố: “Chủng Dân tu sửa sông Biện có nhiều sai sót.” Bố tâu: “Chủng Dân nói việc đào sông Biện là theo chỉ huy của Phát vận ty, việc ông ta làm chưa từng dùng đến, cũng không tiêu tốn nhiều công liệu, chỉ tiêu hơn chín nghìn quan tiền của bản ty, việc sắp xếp cũng không đến mức sai sót. Nhưng từ đầu đã tiết kiệm công sức và chi phí để hoàn thành công việc, tình thế chắc chắn khó khăn. Trước đây thần từng tâu rằng, hiện nay cần phải đóng cửa sông Biện một hai tháng[31], dùng công sức để nạo vét, những chỗ nước chảy tán loạn, cần dùng cọc tre[32], thu hẹp sông thì tự nhiên thông suốt.”
Vua nói: “Gần đây việc vận chuyển bằng đường thủy hoàn toàn không thể thực hiện được.” Bố tâu: “Gần đây có mưa, nước hơi thông, đã hai lần phòng ngừa sông, đại khái chỗ cối xay trà tốn nước, là mối lo lớn nhất của dòng sông Biện, nay đã bỏ rồi.”
Vua nói: “Cần làm hồ chứa nước.” Bố tâu: “Chủng Dân trước không muốn làm hồ chứa nước, tâm ý đáng khen, vì vườn tược, nhà cửa, mồ mả của dân đều phải phá hủy, nên cho là khó. Hơn nữa, Chủng Dân trước đến chỗ làm hồ chứa nước, dân chúng có lời lẽ rất bất kính, nên Chủng Dân không dám đảm nhận việc này. Nếu có chỗ nào khác có thể quy hoạch, không tranh chấp đất với dân, cũng là ân huệ không nhỏ.”
Vua nói: “Hồ chứa nước nhất định không thể thiếu.” Bố tâu: “Nếu bất đắc dĩ, phải làm vậy.” Vua lại nói: “Chủng Dân tuy không sai sót, nhưng việc vận chuyển bằng đường thủy vẫn không thể thực hiện được.” Bố tâu: “Chủng Dân tuy không sai sót, nhưng không có công cũng đáng trách.”
Vua nói: “Chương Đôn chủ trì việc này.” Bố tâu: “Mọi người đều cho là vậy, chắc chắn là thế.” Ngự sử Thái Đạo hặc tội Chủng Dân sắp xếp sai sót, lãng phí công liệu, xin trước hết cách chức. Không theo.
(Thái Đạo nói vậy, theo bản tấu của Đạo.)
[64] Ngày Giáp Thìn, Vua xuống chiếu cho quan Nhập nội cung phụng, Kinh Nguyên lộ Tẩu mã thừa thụ Lợi Tuân giảm ba năm khảo khóa, vẫn theo điều lệ so sánh giảm trừ, để thưởng công lao. Tuân tâu rằng Tẩu mã Phu Diên là Tạ Đức Phương và Kinh Nguyên là Vương Cảnh Tiên đều nhờ thân thích mà được thưởng, Vua xuống chiếu đều cách chức.
(Theo 《Bố lục》.)
[65] Hộ bộ tâu: “Các Ty Đề hình và Ty Đề điểm khanh dã chú tiền, căn cứ vào các châu huyện có khanh dã thuộc quyền quản lý, thúc đẩy và đôn đốc hoàn thành chỉ tiêu tổ ngạch[33], lập sổ sách để kiểm tra. Hàng năm, yêu cầu so sánh tăng giảm, Ty Đề hình hạn đến mùa xuân năm sau, Ty Đề điểm khanh dã chú tiền hạn đến mùa hè, mỗi nơi phải báo cáo đầy đủ số liệu tăng giảm trong năm, xác minh rõ ràng rồi tâu lên và gửi bản sao đến Hộ bộ để kiểm tra. Các quan Ty Đề hình của các lộ tại trường đồng Thiều Châu Sầm Thủy và Đàm Châu Bảo Phong Vĩnh Hưng, mỗi nửa năm phải đi tuần tra một lần đến các trường này, kiểm tra và xem xét xong, phải trình bày các biện pháp xử lý lợi hại cũng như tình trạng thiếu hụt vốn, vạch kế hoạch rõ ràng rồi tâu lên và gửi bản sao đến Hộ bộ.” Vua đồng ý.
(Theo 《Tân tước》.)
[66] Đại Lý tự tâu: “Những người biết rõ tình hình cướp bóc hoặc trộm cắp có vũ trang mà còn chứa chấp[34], hoặc cung cấp tiền bạc, lộ bí mật, khiến bọn chúng có thể thực hiện hành vi trộm cắp hoặc trốn tránh, đều phải chịu tội chết. Những người phải đi đày, đều đày đến châu mình. Những kẻ phạm tội cướp bóc nặng, áp dụng theo luật chứa chấp tại các khu vực áp dụng luật nghiêm khắc, vẫn phải tâu lên để xét xử.
Tại các khu vực áp dụng luật nghiêm khắc, những kẻ phạm tội cướp bóc đến mức tử hình, phải đày đến nơi xa xôi hiểm trở, vợ con phải quản thúc trong phạm vi 500 dặm. Tái phạm thì đày ra đảo Sa Môn. Đối với những kẻ phạm tội cướp bóc nặng hơn, người chứa chấp phải chịu hình phạt chém, tịch thu một nửa tài sản để thưởng[35]. Những kẻ phạm tội trộm cắp đến mức đi đày hoặc lưu đày, phải đày đi 500 dặm, vợ con phải quản thúc tại châu lân cận, tái phạm thì đày đi 2000 dặm. Đều cho phép người dân bắt giữ, tịch thu một phần ba tài sản để thưởng.” Vua đồng ý.
(Theo 《Tân tước》.)
[67] Ngày Ất Tỵ, quyền Hà Bắc lộ chuyển vận phó sứ kiêm thố trí địch tiện Hoàng Thực vào chầu, nhân đó tâu lên những tệ hại của phép dùng tiền giấy. Vua nói: “Tiền giấy vốn để hỗ trợ lẫn nhau.” Lại hỏi về nhân tài ở Hà Bắc, Vua nói: “Ngày nay nhân tài thiếu thốn rất nhiều, nhưng thiên hạ há lại không có nhân tài!” Một hôm khác, Vua hỏi Tăng Bố: “Thực thế nào?” Bố đáp: “Thực cũng là người tinh tường hiểu việc, nhưng Lâm Hi từng nói rằng ông ta gả con gái cho con trai Tô Triệt, bệ hạ ắt biết.” Vua nói: “Đúng vậy.” Lại nói: “Ông ta là cháu của Chương Đôn.” Sau lại nhắc đến, Bố nhân đó nói Thực gả hai con gái cho hai con trai của Triệt. Vua nói: “Nếu không như thế, cũng có thể dùng được.”
(Bố ghi chép việc bàn về Thực vào ngày Nhâm Dần. Nay phụ lục ở đây.)
[68] Ban chiếu cho Cao Ly triều cống, đều theo điều lệ năm Nguyên Phong mà thi hành, lệnh năm Nguyên Hựu không dùng nữa.
(Sách cũ chép: Khôi phục phép đãi ngộ Cao Ly của tiên đế. Sách mới đã bỏ đi.)
[69] Ban chiếu ban thưởng cho nhà Hộ tào tham quân Phượng Tường phủ Vương Chi Ngạn 200 tấm lụa, vì Chi Ngạn đi đến Một Yên Hạp, tuyên lao đến nỗi bệnh chết.
[70] Trước đó, Chương Đôn triệu con rể của Tăng Bố là Ngô Tắc Lễ, chức Vệ úy chủ bạ, bảo nói với Tăng Bố rằng: “Đảng của Thái Kinh đang dò xét rất gấp, nên phải đề phòng quá mức.” Lại nói: “Có người nói thời Nguyên Phong, không được tiến cử người thân của chấp chính, xin xét lại và thi hành.” (Ngày 13 tháng 2, Tự Thần nói như vậy[36].) Lại nói: “Vương Du làm chức quản lý hàng hóa, chính là phạm vào điều này, không thể không biết.” Lúc đó là ngày Nhâm Thân tháng 5.
Ba ngày sau, Chương Đôn ở lại đối đáp rất lâu. Tối hôm đó, Ngô Cư Hậu đến gặp Tăng Bố nói: “Vừa tâu việc trên điện, hoàng thượng bỗng hỏi: ‘Sao lại tiến cử Vương Du, Du là môn hạ của Tô Triệt.’ Cư Hậu nói: ‘Thời Nguyên Hựu ở ngoài, nên không biết.’ Hoàng thượng lại nói: ‘Còn là thân thích của Tăng Bố.’ Cư Hậu nói: ‘Thần với Du là bạn cũ cùng quê, lại từng làm huyện lệnh Hàm Bình, quan lại cũ vẫn đến gặp thần, khen ngợi việc trị nhậm của Du, nên thần tiến cử. Hơn nữa, Du là thông phán, quản lý hàng hóa cũng chỉ là giám đương trường vụ, không có gì may mắn.’ Hoàng thượng nói: ‘Chỉ là có người đến nói.’ Sau đó, viện Tiến tấu báo có chỉ: Tuân thủ điều chế năm Nguyên Phong thứ 4 thi hành[37], những nơi tiến cử tại kinh, không được tiến cử thân thích có tang phục của chấp chính, những người đã tiến cử trước đây, xét lại và xin chỉ.” (Sách của Tăng Bố ghi ngày 25 tháng 5 Nhâm Thân, và ngày 27 tháng 5 Giáp Tuất.)
Một hôm, Tăng Bố tâu việc xong, (Sách của Tăng Bố ghi ngày 4 tháng 6 Tân Tỵ.) Nhân đó nói: “Thần nghe các quan nói, thân thích của chấp chính không được tiến cử làm việc tại kinh. Thần thực có cháu là Vương Du làm chức đề cử quản lý hàng hóa, chính là phạm vào điều này. Nhưng pháp này ban hành năm Nguyên Phong thứ 4, đến năm Nguyên Phong thứ 5, chế độ quan lại thực hiện, việc tiến cử quan trong ngoài đều bãi bỏ, nên pháp này cũng bị bỏ. Sau này dần khôi phục pháp tiến cử quan, nhưng quên thi hành lệnh này.”
Hoàng thượng nói: “Mọi người đều không biết, Ngô Cư Hậu cũng nói không biết.” Tăng Bố nói: “Thực sự không biết, nếu không phải Kiển Tự Thần ở viện Sử xét thấy điều này, người ta không biết có pháp này. Nếu pháp này còn hiệu lực, không chỉ thần không dám, Ngô Cư Hậu cũng đâu dám công khai phạm pháp? Việc tuy vậy, nhưng thần ở trong triều đình, không thể khiến thân thích tránh hiềm nghi, để dẫn đến bàn tán, thần thực có tội. Đại thần nên tuân pháp giữ công, lấy mình làm gương cho thiên hạ, xin trọng trị thần, cũng đủ để cảnh tỉnh mọi người.”
Hoàng thượng nói: “Vốn không biết thì không sao, hơn nữa Vương Du cũng là thân thích của Thái Biện.”
Tăng Bố nói: “Tuy vậy, thần tự có tội, đâu dám viện dẫn người khác để tự giải thích? Hơn nữa, nghe nói có người bàn rằng, con trai thần là Anh cũng được tiến cử, thần ở trong triều đình, có điều lệ, mỗi năm được xin một chức vụ cho thân thích. Con trai thần là Anh trước làm chức công tào Khai Phong, dùng ân điển của thần, xin lên thượng thư tỉnh, đô tỉnh giao lại bộ xét lại, theo điều lệ bổ nhiệm, không phải tiến cử. Hơn nữa, tại chức gần một năm, lại bị Lộ Xương Hoành tiến cử Vương Kỷ làm phủ suy thay thế[38], không được đủ thời gian. Lộ Xương Hoành từng đến tạ thần nói: ‘Sơ suất! Không biết Vương Kỷ cản trở công tào.’ Thần nói: ‘Tiến cử quan sao lại như vậy! Hơn nữa, con trai thần tuy bị thay thế, vẫn được xin một chức vụ, không có gì trở ngại.’ Thần từng nói chuyện này với Diệp Tổ Hiệp, Tổ Hiệp nói: ‘Không chỉ vậy, Tổ Hiệp có em vợ làm phủ duyện, một hôm, các quan phủ họp, Xương Hoành nói trước mọi người: ‘Gần đây tiến cử Vương Kỷ, không biết cản trở công tào.’ Rất lấy làm xấu hổ.’ Thần nghe nói có người bàn rằng Vương Kỷ là thân thích của thần, Kỷ cưới em gái thần. Em gái thần mất đã 25 năm, thần viện dẫn Kỷ để thay thế con trai thần, có vẻ không hợp tình người. Hơn nữa, lời của Xương Hoành như vậy, có thể thấy thần không dính líu gì.”
Hoàng thượng nói: “Con trai khanh đã bị thay thế?” Tăng Bố gật đầu. Hoàng thượng nói: “Người bàn chỉ nói về Vương Du, không nhắc đến hai việc này. Vương Du là môn hạ của Tô Thức, Tô Triệt, có phải không?” Tăng Bố nói: “Mọi người đều nói như vậy, chắc chắn là thế.” Hoàng thượng chỉ cười.
Tăng Bố lại nói: “Thần từ khi nhận tội ở triều đình, vì tính ngu trực, nên trong lúc bàn luận, thường chạm phải sự giận dữ của mọi người, luôn lo sợ không tránh khỏi những lời gièm pha, hủy báng, nếu không nhờ ý chỉ của bệ hạ bảo vệ, làm sao có thể đến được ngày nay!” Vua nói: “Đúng vậy! Đúng vậy!” Tăng Bố lại nói: “Tự Thần cho rằng đại thần không kết giao riêng tư với ai, thì có thể mở rộng tứ chi, hết lòng vì việc nước. Lòng thần này, chỉ có bệ hạ mới thấu hiểu. Thần đã nhiều lần nói với Tam tỉnh rằng Ngô Cư Hậu không thể thăng chức, Cư Hậu không thể không nghe thấy. Theo tình người, đối với thần chỉ có oán giận, thần chắc chắn không kết giao riêng tư với Cư Hậu.” Vua cười nói: “Khanh đã nhiều lần chỉ trích Cư Hậu, sao có thể như vậy?” Tăng Bố nói: “Thần với lòng trung thành như chó ngựa, không dám không hết lòng trình bày với bệ hạ. Nhưng thần với Vương Du thực sự có quan hệ họ hàng, không thể trốn tránh trách nhiệm, thần chưa dám xin chịu tội.” Vua nói: “Không cần như vậy.” Tăng Bố bèn lui ra. Tổ Hợp nói với Tăng Bố: “Đôn ở trước mặt Vua trình bày lời của Tự Thần, nói rằng ‘không liên quan đến người khác, chỉ là ba người thân thích của Tăng Bố’, chắc là nghe từ Hoàng Lí. Lại nói: ‘Lí nói Đôn bình thường với Tăng Bố nói cười rất vui vẻ, nhưng vừa quay lưng lại là khác.'” Hứa Tướng cũng nói với người khác: “Đây chỉ là chuyện nhỏ, những lời hủy báng khác, còn lớn hơn thế này không phải là ít.”
[71] Ngày hôm đó, (ngày 28 tháng 6, Ất Tỵ[39]), chiếu lệnh Vương Du bãi chức ở Tác hóa vụ, các quan ở Hộ bộ đều bị phạt 30 cân đồng. Khai Phong cử Trương Nguyên Lễ cũng vậy. Nguyên Lễ là con rể của Lâm Hi.
[72] Ngày Bính Ngọ, Lại bộ tâu: “Quan viên do triều đình sai đi, trừ người đang tại chức tự tính ngày tháng tại nhiệm, còn người không tại chức, vì việc quân sự, biên sự, hình ngục, hoặc đến những nơi đất đai xấu yếu, cho phép tính là tại nhiệm. Nếu triều đình sai làm việc khác, không có sai phạm, thì hai ngày tính thành một ngày, coi là kỳ khảo nhiệm. Những người đã trên ba năm, trình lên Thượng thư tỉnh, Xu mật viện xét duyệt. Việc quan trọng thì xin chỉ, hoặc cho tính là một nhiệm kỳ.” Được chấp thuận.
[73] Kinh lược sứ Chương Tiết của Kinh Nguyên lộ tâu: “Gần đây theo chỉ dụ của triều đình, yêu cầu các lộ suý thần bàn bạc kỹ lưỡng, tìm cách ngăn chặn giặc không dám đến gần biên giới để cày cấy, chăn nuôi và định cư. Những nơi đã bị chúng cày cấy, cần xem xét cách nào để trong lúc chúng làm cỏ, không thể hoàn thành công việc, tránh việc đến mùa thu thu hoạch, cung cấp lương thực cho giặc, gây thêm loạn biên giới. (Ngày 24 tháng 3, và ngày 27 tháng 5 có chiếu, có thể tham khảo.)
Thần xét thấy ở lộ này mới xây dựng trại Một Yên Hậu Hạp, gần Thiên Đô, là nơi có địa thế thuận lợi để quấy nhiễu và bao vây giặc. Hiện đang giao cho Chiết Khả Thích điều tra kỹ lưỡng về việc cày cấy, chăn nuôi và định cư của chúng ở đó, nếu có cơ hội, dự định vào giữa tháng 7, điều động một số lượng quân mã, hành quân ban đêm dưới ánh trăng, đến đó tấn công, thực hiện kế hoạch đánh nhanh rút gọn. Trước đây thần đã hai lần sai tướng tấn công nhẹ, nhưng không thu được kết quả. Có người nói giặc biết trước, chuẩn bị sẵn và tản ra trốn tránh.
Lần này hành động, cần thay đổi kế hoạch, thần định dùng ít quân mã, chỉ khoảng năm đến bảy nghìn kỵ binh, để dễ điều động, giữ bí mật, không để lộ. Đồng thời chọn người dẫn đường tinh nhuệ, cần người bộ lạc mới có thể sử dụng. Gần đây triều đình sai Lý Trung Kiệt cùng hai trăm người bộ lạc đến lộ này, đến lúc đó, chắc chắn sẽ theo quân ra khỏi biên giới.
Xét thấy quan phiên Hoàng thành sứ Mộ Hóa của Hoàn Khánh lộ, trước đây từng dưới quyền thần, rất có năng lực. Đã nhiều lần sai người theo Chiết Khả Thích ra vào tấn công, hai bên hiểu rõ, sẵn sàng hỗ trợ. Xin trước mười ngày, tạm thời mượn quan phiên Mộ Hóa cùng hai trăm người bộ lạc và ngựa của họ từ Hoàn Khánh lộ, sang lộ này sử dụng. Sau khi tấn công xong, sẽ lập tức trả về, thời gian đi lại chỉ khoảng nửa tháng đến hai mươi ngày.”
Hoàng Thiếp Tử tâu: “Quan phiên mộ hóa gần đây nhân việc hộ tống đến bản lộ, thần đã bí mật dùng kế hoạch trước đó hỏi ý hóa, và nói rõ ý muốn mượn nhân mã. Hóa rất vui mừng, nguyện đến bản lộ để sai khiến, bèn ghi lại tên họ các bộ lạc con cháu trong tờ trình. Nay xin trình bày, nếu được chấp thuận, xin đừng nêu rõ nguyên do, chỉ làm theo chỉ đạo của triều đình, lệnh cho hóa dẫn theo nhân mã cần thiết đến Kinh Nguyên lộ làm việc, không được giữ lại. Nếu nói rõ nguyên do, e rằng quan coi Hoàn Khánh sẽ quy tội cho hóa, thêm nữa, tai mắt của giặc Tây ở Hoàn Khánh lộ rất nhiều, chúng dò biết được, tạm thời điều động nhân mã từ các lộ khác đến Kinh Nguyên, ắt sẽ đoán là muốn tiến hành đánh phá nông cạn. Như vậy, dù xuất quân cũng không có lợi. Lại nữa, ngày tháng ghi trong tờ trình chưa dám quyết định, xin cho thần tiếp tục dò xét, tùy nghi kéo dài hoặc rút ngắn. Nếu trong giặc tăng thêm nhân mã, phòng bị nghiêm ngặt, hoặc nơi đóng quân quá xa, thì cũng khó nhất định phải đi đánh. Chỉ vì xin điều động binh phiên từ các lộ khác, nên cần phải tâu trình trước.”
Xu mật viện tấu: “Xét thấy gần đây Kinh Nguyên lộ đã xây dựng xong các thành trại Một Yên Tiền và Hậu Hạp, cách Thiên Đô rất gần, là nơi quân Tây tất tranh giành. Hơn nữa, quân Tây gần đây thường xuất hiện ở Long Đức trại, Cửu Dương cốc, lại đào hào ở đoạn đường lớn Sinh Câu, lo ngại quân địch bất ngờ xâm phạm biên giới. Cần người hiểu rõ tình hình, dẫn quân mai phục chặn đánh. Lộ này thiếu quan phiên có năng lực để sai khiến, còn quan phiên Hoàn Khánh lộ là Hoàng thành sứ Mộ Hóa, thông thạo địa hình và đường đi nơi phiên giới, có thể làm hướng đạo. Cần tạm điều động ông ta, dẫn theo 200 kỵ binh bộ lạc đến Kinh Nguyên lộ để ứng phó và sai khiến. Hoàn Khánh lộ tuy mùa thu này có việc cần động binh, nhưng chỉ điều Mộ Hóa và 200 kỵ binh bộ lạc, nên lộ này chưa đến mức thiếu người, cần có chỉ đạo.”
Chiếu rằng: “Cho phép Hoàn Khánh lộ tạm điều quan phiên Mộ Hóa và 200 kỵ binh bộ lạc đến Kinh Nguyên lộ kinh lược ty, chuẩn bị ứng phó và sai khiến. Hạn trước nửa tháng 7 phải đến Kinh Nguyên lộ, cấp tiền lộ phí theo thứ bậc, không để họ phải bỏ tiền riêng, và không được xin giữ lại hay trì hoãn. Kinh Nguyên lộ phải quản lý và ưu đãi họ khi đến nơi. Khi Mộ Hóa đã hướng dẫn quân lộ này biết cách xuất nhập và chặn đánh, lập tức cho về Hoàn Khánh lộ. Thời gian giữ lại không quá một tháng.”
(Ngày 24 tháng 6, ghi chép của Bố, lệnh các lộ suy xét việc phá hoại nông nghiệp, nên phụ lục tấu này vào cuối tháng 6. Cần chỉnh sửa thêm, vì văn quá dài.)
Chương Tiết lại tấu: “Lộ này năm ngoái đã xây dựng xong Bình Hạ thành, Linh Bình trại, thêm 11 tướng, sau đó tiếp tục xây dựng Trấn Khương, Cửu Dương, Thông Hạp, Đãng Khương, tổng cộng 4 trại. Tuy đã điều động quân mã bộ đến, nhưng chưa đặt tên tướng mới. Nay xin lấy quân chính và tân binh cung tiễn thủ mã bộ ở Thông Hạp, Đãng Khương và Cửu Dương trại, lập thành tướng thứ 12. Xin cho người bị cách chức chưa được phục hồi, là Hoàng thành sứ, Thành châu phòng ngự sứ Chiết Khả Thích làm chính tướng, và Khúc Sung, bị giáng làm Cung bị khố phó sứ, làm phó tướng. Nếu triều đình cho rằng họ bị tước chức chưa lâu, chưa được phục hồi, thì xin tạm cho quản lý công việc.” Được chấp thuận.
(Chương Tiết tấu ngày 28 tháng 6 năm Nguyên Phù thứ nhất, ngày 7 tháng 8 lại tấu, ngày 19 mới được chấp thuận. Nay phụ lục vào đây, hoặc chuyển vào ngày 19 tháng 8.)
- Hai lần có chỉ triều đình sai đề điểm sự vụ, chữ 'vụ' nguyên là 'hậu', theo bản trong các kho sách sửa lại. ↵
- Chữ 'suy' nguyên là 'đề', theo bản trong các kho sửa lại. ↵
- Cần phối hợp thành một đầu mối ra vào, chữ 'nhất' bị thiếu, theo bản khác bổ sung ↵
- Nếu sau khi bỏ trốn vẫn trở về bản châu huyện mà bắt 'Vẫn' nguyên là 'từng', theo bản các sửa. ↵
- Những người chỉ định châu quân hoặc lộ phân phối quân 'Châu quân' nguyên là 'quân châu', theo bản các sửa. ↵
- Chữ 'thử' nguyên bản viết là 'thượng', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- lệnh Bố lập ra pháp này, chữ 'lệnh' nguyên là 'Kim', theo các bản sửa lại. ↵
- Hoàng thành sứ 'sứ' nguyên là 'ty', theo bản cải. ↵
- Chữ 'đẳng' trong 'Chương Tiết dĩ hạ đẳng đệ tứ vật hữu sai' nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 phương vực 19-6 bổ sung. ↵
- Chữ 'niên' trong 'thị niên thất nguyệt bát nhật suy thưởng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo quyển 500 của sách này, ngày 8 tháng 7 năm Nguyên Phù thứ nhất, mục Giáp Dần có ghi chép việc ban thưởng, nên có chữ 'niên' là đúng, nay căn cứ ý văn bổ sung. ↵
- Kịch liệt nói rằng Lý Lượng cố chấp tự quyết 'Kịch' chữ nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- Chữ 'bán' nguyên là 'niên', theo bản trong các kho sách mà sửa. ↵
- Từ khi khách nhân trình đơn, chữ 'khách' nguyên bản là 'dung', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Báo lên Thượng thư Hộ bộ để kiểm tra, chữ 'kiểm' nguyên bản là 'hiệu', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Toại tiến nghĩ lệnh quỳ tạm quyền 'Nghĩ' nguyên tác 'Nghị' , cứ các bản cải. ↵
- đạo trước nhất cú 'trước' nguyên tác 'khán' , cứ các bản cải. ↵
- Khước hữu tam lưỡng cú đạo bất trước 'trước' nguyên tác 'khán' , cứ các bản cải. ↵
- Dĩ nhi lưu thân khúc tạ 'Khúc' Tự nguyên thoát, cứ các bản bổ. ↵
- Lâm hi khứ 'khứ' nguyên tác 'Vân' , án tống sử quyển tam tứ tam lâm hi truyền cập biên niên lục quyển nhất○, lâm hi nguyên nhiệm đồng tri xu mật viện sự, ư nguyên phù nguyên niên tứ nguyệt nhâm thìn khứ chức, hất kim bất quá nguyệt dư, tác 'Vân' Vô nghĩa, hiện cứ các bản cải. ↵
- Chữ 'chư' nguyên là 'đô', theo bản khác sửa. ↵
- Chữ 'châu' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung. ↵
- 'Cung cấp' nguyên văn là 'bán', theo bản sửa của các bản. ↵
- 'Giành thắng lợi' nguyên văn là 'bỏ đi', theo bản sửa của các bản. ↵
- 'Người' nguyên văn thiếu, theo bản sửa của các bản. ↵
- Bọn gian thần nhân cơ hội bàn việc lập Tố lí sở, 'Tố lí sở' nguyên văn là 'lí tố', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 3-76 sửa lại. ↵
- Những lời khai và văn bản của Tố lí sở, 'Tố lí' nguyên văn là 'lí tố', theo các bản sửa lại. ↵
- Tra cứu được những người liên quan đến Tố lí sở, 'Tố lí' nguyên văn là 'lí tố', theo các bản sửa lại. ↵
- Đều nhờ người khác tố cáo, 'Tố lí' nguyên văn là 'lí tố', theo các bản sửa lại. ↵
- Những lời khai và văn bản của Tố lí sở, 'Tố lí' nguyên văn là 'lí tố', theo các bản và 《Tống hội yếu》 chức quan 3-76 sửa lại. ↵
- Tâu xin cử quan lấy hồ sơ của Tố lí sở thời Nguyên Hựu xem xét sửa đổi, 'ngật' nghi là 'khất'. ↵
- 'Đóng' nguyên bản viết là 'nhàn', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại. ↵
- 'Cọc tre' nguyên bản viết là 'sảo', theo 《Tống sử》 quyển 91, chương Hà cừ chí: 'Phàm chặt cây núi, cành liễu gọi là sao.' Lại theo 《Tống hội yếu》 phương vực 16.15 có ghi: 'Chỗ sông rộng, nước chảy tán loạn, nên thường cạn... cần dùng cọc tre', trong sách này quyển 302, ngày Bính Ngọ tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 3 có ghi: 'Vẫn chặt cây ven sông để đủ chi phí làm cọc tre', nay theo đó sửa lại. ↵
- Chỉ tiêu tổ ngạch: chữ 'Tổ' nguyên bản là 'Tô', căn cứ vào các bản khác và bản in hoạt tự sửa lại. ↵
- Biết rõ tình hình cướp bóc hoặc trộm cắp có vũ trang mà còn chứa chấp: chữ 'trượng' nguyên bản là 'phục', căn cứ vào các bản khác sửa lại. ↵
- Tịch thu một nửa tài sản để thưởng: chữ 'cấp bán' nguyên bản là 'bán cấp', căn cứ vào các bản khác sửa lại. ↵
- Ngày 13 tháng 2, Tự Thần nói như vậy, bản các bản 'hai' dưới không có chữ 'tháng'. ↵
- Tuân thủ điều chế năm Nguyên Phong thứ 4 thi hành, chữ 'điều' nguyên là 'tu', theo bản các bản sửa. ↵
- Lại bị Lộ Xương Hoành tiến cử Vương Kỷ làm phủ suy thay thế, chữ 'xung' nguyên là 'hoành', theo bản các bản và đoạn dưới sửa. ↵
- Ngày 28 tháng 6, Ất Tỵ, chữ 'nhị' nguyên bản thiếu, xét năm Nguyên Phù thứ nhất, tháng 6 ngày Mậu Dần sóc, Ất Tỵ là ngày 28, nay theo bản các bản mà bổ sung. ↵