VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 500: NĂM NGUYÊN PHÙ THỨ NHẤT (MẬU DẦN, 1098)
Bắt đầu từ tháng 7 năm Nguyên Phù thứ nhất đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Mùa thu, tháng 7, ngày Đinh Mùi mùng một, Tăng Bố vì việc của Vương Du xin từ chức, không được chấp thuận.
[2] Ngày Mậu Thân, Tam tỉnh và Xu mật viện cùng trình tấu chương của Kinh Nguyên, tâu rằng người Khương hàng tên Hát Cường Sơn nói rằng người Tây Hạ muốn đem quân đánh vào một lộ vào mùa thu này, lại nói rằng sẽ không đánh thành trì, mà chỉ tìm cách đột nhập sâu, giết và bắt dân. Vua rất lo lắng. Mọi người cũng nói rằng người Khương làm như vậy là có kế sách. Tăng Bố nói: “Kinh Nguyên giáp biên giới, nhân vật giàu có, nếu quân giặc vào cướp, thu được của cải không ít, gây hại cho Trung Quốc không nhỏ, việc này thực sự không thể xem thường, nên ra lệnh cho các quan biên giới chuẩn bị kế hoạch phòng thủ.” Vua cũng đồng ý. Khi đối đáp lại, Vua lại nhắc đến tin tức từ Kinh Nguyên, Tăng Bố nói: “Chỉ thị vừa rồi quá sơ sài, triều đình nên ban hành thêm các điều khoản rõ ràng về việc phòng thủ.” Vua nói: “Dân biên giới bị giết hại đều là người vô tội.” Tăng Bố nói: “Không chỉ giết hại người vô tội, mà còn làm tổn hại uy thế quốc gia không nhỏ.”
(Các điều khoản ước thúc này có lẽ là những điều được ghi vào ngày mồng 5.)
[3] Ngày Kỷ Dậu, chiếu rằng vào ngày 12 tháng 11 năm nay sẽ tổ chức lễ tế Nam Giao.
[4] Đông thượng các môn sứ, câu đương Hoàng thành ty là Chu Hựu được tái nhiệm.
[5] Chiếu rằng: Thời tiết nóng nực, các công việc lao động ở kinh thành đều được nghỉ ba ngày.
[6] Lại có chiếu rằng, các học quan mỗi năm thi một lần.
[7] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Đã tiếp nhận 22 người thuộc bộ lạc Ngoa Sơn quy thuận nhà Hán. Xét thấy Ngoa Hóa Xướng Sơn là người thân tín của Muội Lặc Đô Bồ, có khả năng dẫn người quy phụ, tâm ý rất rõ ràng, mong được đặc cách bổ nhiệm làm Điện thị.” Vua đồng ý.
[8] Kinh Nguyên lại tâu rằng đã xây dựng hai pháo đài ở Một Yên.
(Ghi chép của Tăng Bố ngày Kỷ Dậu.)
[9] Hi Hà tâu rằng đã cử Vương Thuấn Thần ra ngoài biên giới để đánh dẹp.
(Ghi chép của Tăng Bố ngày Kỷ Dậu.)
[10] Chiếu rằng: Bên cạnh am của Lưu Hỗn Khang ở Mao Sơn đã xây dựng điện đường, có thể ban tên là Nguyên Phù Quan.
[11] Hôm đó, Ngự sử Thái Đạo lên điện, Tăng Bố vào chầu lần thứ hai, nhân đó nói rằng Thái Đạo từng nói với người khác rằng các lại viên trong Viện Khu mật phần lớn không nghiêm túc. Thần mưu mô đức nghiệp không giúp ích gì cho triều đình, lâu ngày cản trở đường tiến của người hiền, thần tự biết rõ. Nếu nói về công việc của Viện Khu mật, thực sự không đến mức có sự không chỉnh tề. Từ khi thần đảm nhận chức vụ này, tất cả các điều lệ, quy tắc cần dùng trong viện đều được biên soạn, phân loại, sắp xếp thứ tự đầy đủ, rõ ràng, có thể tuân theo sử dụng, cho đến việc các lại viên soạn thảo văn bản, nếu có một chữ chưa ổn, thần cũng tự tay sửa chữa. Còn về việc biên cương, đều do thần và mọi người suy nghĩ, không phải là việc các lại viên có thể quyết định, vì vậy tất cả các mệnh lệnh, văn bản đều do thần tự tay soạn thảo, dù có gửi đến Tam tỉnh xem xét, nhưng những chỗ thêm bớt chỉ là một hai phần trăm. Chỉ có việc trước đây điều tra báo cáo về việc Vương Khả Quyền nhận hối lộ đều là giả dối, đã thi hành xong, những lại viên bị bắt giam hiện nay cũng là do liên quan đến việc này mà bị lộ. Còn việc võ quan cùng lại viên trong viện ăn uống thỉnh cầu là chuyện năm Nguyên Hựu thứ sáu, nay đã bảy tám năm, không phải là việc không nghiêm túc hiện nay. Hiện nay việc thám báo của Vũ Đức rất kín đáo, mong được xem xét thêm, nếu có điều gì không xứng đáng, thần không dám trốn tránh trách nhiệm. Vua cười nói: “Đạo nói gì?” Tăng Bố nói: “Nói rằng lại viên không nghiêm túc.” Vua chỉ cười mà thôi.
[12] Ngày Canh Tuất, xuống chiếu cho Tả ty Viên ngoại lang Tăng Thủ cùng một viên Nội thị vào cung, cùng nhau lấy và sửa chữa lại lệnh về đại lễ.
(Ngự tập ngày 4 tháng 7.)
[13] Ngày Tân Hợi, Ngự sử đài tâu: “Theo chế độ quan chế năm Nguyên Phong, thứ tự các ban khi vào chầu có nhật tham, lục tham, vọng tham, sóc tham, đã được ghi thành lệnh. Năm Nguyên Hựu thứ năm đổi lại, quan sóc tham kiêm đi lục tham, làm mất đi ý nghĩa phân biệt thứ bậc của triều đình trước đây, xin chỉ theo nghi lệnh năm Nguyên Phong.” Vua đồng ý.
[14] Xu mật viện tâu: Tuy đã kiểm hội theo chỉ huy ngày 22 tháng 4 năm nay, lệnh cho các lộ suý thần bàn bạc nhiều phương lược ứng phó với địch, cùng các nơi có đường hiểm yếu, có thể khống chế được ngựa giặc, mỗi nơi chọn sai binh quan dùng binh mạnh, khí giới sắc bén mai phục chặn giữ, khiến giặc không thể tiến sâu, mọi việc đều chuẩn bị trước, phòng bị kỹ càng, nhưng vẫn lo rằng các châu suý thần không thực sự nghiêm túc răn dạy từng việc, chuẩn bị trước, đến lúc xảy ra sự việc sẽ có sai sót, nên cần phải kiểm điểm lại các chỉ dụ triều đình ban trước đây, cùng các việc cần thống nhất răn dạy như sau[1]. (Chỉ huy ngày 22 tháng 4 chưa thấy.) Thống nhất chỉ huy bảy điều:
[15] 1. Các nơi dọc biên giới có đường hiểm yếu, có thể khống chế ngựa giặc, cần tham khảo nhiều ý kiến, xem xét kỹ lưỡng, binh tướng quan nào của bản lộ có thể đảm nhiệm nơi nào, phân định rõ địa phận, giao phó cho từng người mai phục chặn giữ, lại lệnh cho chỉ huy cần chọn các tướng bộ đội, sứ thần, quân viên có năng lực chiến đấu, cùng binh mã khí giới cần thiết, xem xét từng việc để ứng phó, không để thiếu sót.
[16] 2. Binh tướng quan, sứ thần được phân định địa phận hiểm yếu, phải chặn giữ ngựa giặc không cho tiến sâu vào trong cướp bóc dân chúng. Nếu gặp giặc xâm phạm, dù thấy có lợi nhỏ có thể lợi dụng, cũng không được tùy tiện di chuyển binh mã, bỏ nơi phòng giữ. Nếu vì thế mà để lọt giặc vào địa phận gây họa, đều xử theo quân pháp.
[17] 1. Khu vực phía trước và sau núi thuộc lộ Kinh Nguyên có nhiều đồn trại, đặc biệt là khu vực Tĩnh Biên, nơi có nhiều trang viên và tài sản của dân chúng, cùng với các nơi như quân Đức Thuận, là những nơi chưa từng bị quân giặc xâm phạm. Ngoài việc giao cho các tướng lĩnh phụ trách phòng thủ và chặn đánh, cần phải đề phòng bất ngờ, nếu quân giặc lẻn sâu vào bên trong cướp bóc, giết hại người và gia súc, cướp đoạt tài sản, thì khi đó cần phải lập tức di tản. Cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, bí mật thông báo cho dân chúng tạm thời di chuyển tài sản đến nơi quân giặc không thể đến, tạm thời lánh nạn; đối với nhân khẩu và gia súc, cũng cần có kế hoạch di tản tránh quân giặc, không để khi nguy cấp bị cướp bóc oan uổng. Cần chọn các quan chức thành trại bí mật thông báo, không để việc này gây hoang mang cho dân chúng, và không được cử người đi thúc giục, gây phiền nhiễu cho dân. Nếu phát hiện có vi phạm mệnh lệnh này, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Các khu vực tương tự thuộc các lộ Thiểm Tây, Hà Đông cũng cần tuân theo chỉ thị này, cân nhắc thực hiện.
[18] 2. Nếu trên các lộ có quân giặc tập trung binh lực xâm phạm, ngoài việc chọn các tướng lĩnh phụ trách phòng thủ và chặn đánh tại các nơi hiểm yếu, các binh lực còn lại cần được phân chia thành các đơn vị, đóng quân tại các vị trí thuận lợi, chú trọng giữ vững. Nếu gặp quân giặc tập trung lớn, hoặc thấy có cơ hội thuận lợi, cần cân nhắc tình hình quân giặc, phân chia hoặc tập trung lực lượng tiến đánh hoặc phòng thủ. Nếu dám chần chừ do dự, bỏ lỡ cơ hội, sẽ bị xử theo quân pháp.
[19] 1. Chọn cử các quan tướng có mưu lược, thống chế, tướng tá, căn cứ vào số lượng binh mã của từng lộ, tinh tuyển kỵ binh, chia thành các đội, sai sứ thần, tướng hiệu quản lý, chọn nơi thuận lợi đóng quân. Hoặc chia tách, hoặc hợp lực chọn chỗ thuận tiện để tập kích; hoặc đợi khi giặc mệt mỏi rút lui thì lập tức truy kích; hoặc trước đó mai phục trên đường rút lui của giặc, chờ cơ hội chặn đánh. Việc tùy cơ ứng biến, ứng phó tình huống lúc đó, đều phải xem xét kỹ lưỡng và thi hành theo chiếu chỉ ban hành ngày 25 tháng 2 năm Thiệu Thánh thứ 3.
[20] 2. Khi giặc tập trung binh mã xâm phạm, tuân theo chỉ huy hiện tại, chia tách binh tướng đóng quân ở những nơi hiểm yếu thuận tiện để chặn đánh, phải bảo vệ được dân chúng Hán và Phiên không bị cướp bóc. Việc chặn đánh, đóng quân, tùy cơ tập kích, truy đuổi đánh bại giặc, các quan lộ không được chiếm dụng nhiều tướng tá và binh mã, đóng quân gần phủ lộ chỉ để tự bảo vệ, khiến giặc tự do hoành hành, không còn sợ hãi.
[21] 3. Khi giặc tập trung binh mã vào một lộ, các lộ khác phải lập tức điều động nhiều binh tướng tinh nhuệ đến ứng cứu, phải tạo thanh thế lớn để làm rối loạn kế hoạch của giặc; hoặc tiến thẳng đến đường rút lui của giặc, chặn các nơi hiểm yếu, tập kích quân giặc đang rút lui; hoặc tiến thẳng đến phía sau giặc, nơi có gia quyến, gia súc[2], nơi chứa lương thảo và quân nhu, đánh phá mạnh mẽ, khiến giặc tan vỡ, không kịp tự cứu. Việc hợp lực kiềm chế, phải chọn nơi hiểm yếu, có thể đánh vào chỗ yếu để thu lợi; hoặc tiến quân xây dựng ở nơi hiểm yếu, lại tập kích, đánh dẹp nơi có bộ tộc cư trú, dùng nhiều cách kiềm chế thế giặc, khiến chúng phải lo lắng. Nếu có sự chần chừ, không tích cực hợp lực ứng cứu, và kiềm chế giặc, các quan lộ phải bàn bạc, điều tra rõ ràng thứ tự xuất quân, trừng phạt nặng. Kiểm điểm chỉ huy 9 điều:
[22] 1. Việc phòng thủ chống giặc và kế sách đánh giặc, cần phải thảo luận kỹ lưỡng với các tướng tá có tài năng, am hiểu biên sự trong bản lộ, sao cho linh hoạt ứng biến, có kế hoạch chuẩn bị kỹ càng, mưu lược xuất chúng, quyết tâm giành thắng lợi.
[23] 2. Quân lính người Hán và người phiên phải thường xuyên huấn luyện, rèn luyện tinh nhuệ, những người có tài võ nghệ xuất chúng, dũng cảm, gan dạ, cần được khen thưởng kịp thời để khích lệ tinh thần, khiến họ biết phân biệt rõ ràng, lúc chiến đấu sẽ hăng hái xông pha; đồng thời khuyến khích mọi người học tập, rèn luyện kỹ năng chiến đấu, không để họ trở nên lười biếng, trì trệ.
[24] 3. Tướng sĩ người Hán và người phiên phải thường xuyên được huấn luyện chiến trận, biết rõ thứ tự ra vào, hiệu lệnh tiến lui, phải nghiêm túc thực hiện; đồng thời phải giải thích rõ ràng, khiến họ hiểu kỷ luật quân đội, tránh để lúc cấp bách xảy ra sai sót.
[25] 4. Những nơi hiểm yếu trên đường tiến quân của giặc, có thể bố trí phục kích, hoặc bí mật bố trí quân mai phục hai bên, tấn công vào đoàn hậu cần, lương thảo của chúng; hoặc khi quân giặc chưa tập hợp đủ, có thể thừa cơ đánh úp, cần phải thường xuyên nghiên cứu kỹ lưỡng. Phải đảm bảo các tướng tá đều hiểu rõ, lúc cấp bách sẽ dễ dàng điều động.
[26] 5. Những người phòng thủ thành trại phải biết rõ thứ tự treo, thả các vật phòng thủ trên thành, cần sắp xếp số lượng người cần thiết tại các vị trí phòng thủ, nếu thiếu người thì phải báo cáo số lượng thiếu, trong thời gian phòng bị, có thể tạm thời điều động binh lính từ các châu, quận, huyện, trấn gần đó đến ứng cứu, đồng thời tăng thêm tiền lương, gạo, đợi khi tình hình ổn định thì cho họ trở về.
[27] 6. Các sứ thần và binh lính trong thành trại phải thảo luận kỹ lưỡng về thứ tự phòng thủ, đảm bảo hiểu rõ và thuần thục, không để xảy ra tình trạng bối rối, xử lý sai lầm, dẫn đến sự cố.
[28] 1. Các dụng cụ chiến đấu và phòng thủ thành trì, ngoài những thứ hiện có, nếu còn thiếu vật dụng khẩn cấp, phải báo ngay cho Ty đề hình, theo các chỉ dụ trước đây, nhanh chóng sửa chữa và bổ sung. Đồng thời, trong các thành trại phòng thủ, cần tích cực thu thập và dự trữ đá lớn nhỏ để sẵn sàng sử dụng. Những vật dụng không cần thiết khác không nên chế tạo một cách đại trà, lãng phí nguyên liệu và công sức.
[29] 2. Đối với ngựa nuôi của quân Hán và Phiên, các tướng tá và nhân viên phải nghiêm túc chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra, không để ngựa gầy yếu hoặc bệnh tật, ảnh hưởng đến việc sử dụng khi cần.
[30] 3. Về lương thảo, ngoài việc Ty chuyển vận lo liệu, cần chung sức lập kế hoạch, kịp thời mua bán và tích trữ rộng rãi, đồng thời tiết kiệm, tránh lãng phí.
[31] Chiếu lệnh các quan chức các lộ xem xét kỹ[3], kiểm tra lại các chỉ dụ trước đây và chỉ đạo hiện tại, nghiêm túc thảo luận và thực hiện các biện pháp. Những vấn đề liên quan đến phòng thủ biên giới và chiến lược đối phó với địch cần được xử lý một cách tỉ mỉ, đồng thời báo cáo chi tiết các biện pháp đã thực hiện.
(Theo ghi chép của Bố vào ngày Tân Hợi, gần đây có tin báo người Tây có thể tập trung binh lực tấn công một lộ vào mùa thu này, vì vậy cần có kế hoạch phòng thủ thống nhất, chiếu lệnh các lộ tuân thủ thực hiện. Chương Tiết có đề xuất kế hoạch này, nay lấy để tham khảo, ngày 18…)
[32] Lý Đoái, Tẩu mã Hoàn Khánh, tâu rằng: Việc xây dựng thành Hưng Bình và các khu vực như Chi Tự Bình trên lộ này đều ở nơi đất hẹp, không có nước, đất cằn cỗi, không thuận tiện. Chiếu lệnh Tôn Lộ báo cáo thêm về lợi hại.
(Theo ghi chép của Bố vào ngày Tân Hợi.)
[33] Ngày Nhâm Tý, Ty kinh lược Hà Đông tâu: Việc tu sửa Trại thứ chín đã hoàn thành, gặp giặc, chiến đấu thắng lợi, xin ban ân. Chiếu lệnh: Những người tham gia tu sửa được ban thưởng lụa và bạc theo thứ bậc, những người chiến thắng được thưởng theo quy định.
[34] Đại Lý Tự tâu: “Những kẻ buôn bán, mua bán lúa gạo, vận chuyển vật phẩm của quan phủ, nếu đã phân chia theo luật buôn bán vật phẩm quan phủ, kẻ mạnh tính lợi và tang vật, xử theo tội cướp không mang vũ khí, tội đến chết thì giảm một bậc, đều phải đi đày hai ngàn dặm. Hai mươi quan tiền, kẻ cầm đầu bị treo cổ, kẻ gây thương tích hoặc giết người thì xử theo luật giết người hoặc gây thương tích. Nếu là đồng đảng, vẫn lấy tài sản để thưởng, theo luật cướp bóc ở những nơi áp dụng luật nghiêm khắc. Nếu biết tình, chứa chấp, chuyên chở, thì giảm tội một bậc so với tội nhân. Những tội trên đến mức đi đày, thuyền bè, xe cộ, gia súc dùng để vận chuyển đều bị tịch thu. Người bị cướp phải tố cáo ngay với quan phủ gần nhất[4], nếu nhận tang vật do bị cướp thì xử theo tội trộm cắp thông thường. Việc mua bán đinh thuyền quan và các vật dụng cần thiết trên thuyền, cho phép người tố cáo, mỗi lần bắt được đinh thuyền, ước tính giá trị không đầy một quan tiền, thưởng thêm năm quan, tối đa ba mươi quan.” Được chấp thuận.
(Mới bỏ.)
[35] Cơ quan soạn thảo và định rõ sắc lệnh tâu xin bỏ điều luật sắc lệnh về việc không áp dụng luật không biết thời điểm phạm tội đối với kẻ giết người do cướp bóc. Được chấp thuận.
(Mới bỏ.)
[36] Lại tâu: Các bến đò ở huyện Trường Cử, Thuận Chính kiểm tra binh lính qua lại, nếu để lọt kẻ đào tẩu hoặc thuyền dân chở trộm, dù không biết tình, đều bị đánh một trăm trượng, và cho phép người tố cáo, mỗi tên được thưởng mười quan tiền; người phụ trách địa phương không phát hiện, giảm tội hai bậc. Được chấp thuận.
(Mới bỏ.)
[37] Ngày Quý Sửu, Hạt Chinh, Lăng Chiêm, Kết Kết từ biệt, có chỉ lệnh cho các thủ lĩnh lớn nhỏ lưu lại ít ngày, Vua sai trung sứ tuyên dụ và ban một chiếc áo chiến, phó sứ trong cung được ban thêm dây lưng. Lại có chiếu, người tiến cống của Hạt Chinh là lần đầu tiên cử thủ lĩnh đến kinh đô, đặc biệt ban thêm một ngàn quan tiền, ngựa tiến cống vẫn được ban thưởng tiền và lụa.
(Ngày 9 tháng 5, các thủ lĩnh lớn nhỏ được phong chức.)
[38] Tả bộc xạ Chương Đôn làm Nam giao đại lễ sứ, quyền Lễ bộ thượng thư Kiển Tự Thần làm Lễ nghi sứ, Ngự sử trung thừa An Đôn làm Nghi trượng sứ, Binh bộ thị lang Hoàng Thường làm Lỗ bạ sứ, quyền tri Khai Phong phủ Lộ Xương Hoành làm Kiều đạo đốn đệ sứ.
(Ngày 19.)
[39] Ngày Giáp Dần, vì việc xây dựng xong hai trại Một Yên Tiền và Một Yên Hậu, Long đồ các trực học sĩ, tri Vị Châu Chương Tiết được phục chức Xu mật trực học sĩ, Mã quân đô ngu hậu, Tín Châu đoàn luyện sứ Vương Ân, Văn tư sứ Chủng Phác, Hoàng thành sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ Tần Quý, Thông trực lang, Thiểm Tây chuyển vận phán quan Lý Huệ, mỗi người được thăng một chức, và được ban thưởng bạc lụa khác nhau.
(Truyện của Tiết chép rằng, tháng 5 xây dựng trại Thông Hạp ở cửa Một Yên, xây dựng trại Đãng Khương trong hẻm núi, thực lục chép ngày 14 tháng 6 được ban tên.)
[40] Trước đó, Tăng Bố tâu rằng: Chương Tiết gần đây có gửi thư cho thần nói rằng, Thiên Đô chưa thể tiến hành xây dựng, lời nói của ông ấy khá có lý. Bởi vì từ Một Yên Hiệp trở vào, đều có núi hiểm trở có thể dựa vào, đường quân địch kéo đến dễ kiểm soát, lại có thành trại phía sau làm chỗ dựa, nên việc vận chuyển vật liệu để xây dựng cũng dễ dàng. Nay Thiên Đô cách Một Yên sáu mươi dặm, vừa ra khỏi hiệp thì đều là đồng bằng và sông lớn, bốn phía đều là đường quân địch kéo đến, phía sau lại xa thành trại, viện binh không thể tiếp ứng kịp, việc vận chuyển vật liệu và lương thực khó khăn gấp trăm lần so với Bình Hạ. (Một Yên cách Bình Hạ chỉ hai mươi dặm.) Dù hợp binh mã ba lộ tiến hành xây dựng, không chỉ lo ngại về việc vận chuyển lương thực, lại còn lo quân Tây dùng kỵ binh nhẹ đánh úp, tiến sâu vào các thành trại gần bên trong cướp bóc, bên trong không có cứu viện, tất sẽ gặp họa. Hơn nữa, một khi thành trại bị quấy nhiễu, thì tinh thần quân sĩ ở tiền tuyến cũng sẽ dao động. Giả sử việc xây dựng đã thành công, bốn phía không có hàng rào để dựa vào, làm sao có thể cố thủ? Hơn nữa, binh mã ít ỏi, không tránh khỏi phải yêu cầu thêm, e rằng không thể đáp ứng được, muốn ngày mai tiến trình, Hứa Tướng và Thái Biện cũng đều cho rằng nên tiến trình. (Đoạn này ghi trong bản lục của Tăng Bố ngày Đinh Hợi.)
Khi tiến trình, hoàng thượng khen lời trong thư của Chương Tiết rất có lý. Tăng Bố nói: “Hôm trước đã được chỉ dụ, muốn cho ông ấy phục chức.” Hoàng thượng nói: “Cho phục quan.” Tăng Bố nói: “Phục quan e rằng quá nhẹ.” Hoàng thượng nói: “Cho phục chức cũng không sao.” Chương Đôn nói: “Hãy tạm thời chưa cần phục chức, đợi khi Thiên Đô xong xuôi, sẽ ban thưởng thêm cũng không sao.” Tăng Bố nói: “Như vậy thì lại là thúc ép ông ấy tiến hành xây dựng.” Hoàng thượng nói: “Hãy cho phục chức.” Thế là phục chức Xu mật trực học sĩ.
(Bản lục của Tăng Bố ghi: Kinh Nguyên tâu xin ban ân trước cho các quan thống chế Một Yên Hiệp và chuyển vận ty, Vương Ân, Chủng Phác, Tần Quý, Lý Huệ mỗi người một chức, trong đó Vương Ân nhường lại cho hai người thân thuộc, mỗi người được thăng một chức.)
[41] Hi Hà tâu: Vương Thuấn Thần ra khỏi biên giới, thu được không nhiều. Vua muốn sai tra xét trách nhiệm, Tăng Bố cho rằng không cần, chỉ răn dạy thôi. Sau đó có chỉ tha tội, vì Chương Đôn nghe ý Vua muốn trị tội Trương Tuân, nên xin tha cho.
(Đoạn này Tăng Bố ghi ngày Quý Sửu, Vua muốn trị tội Trương Tuân, Vương Thuấn Thần, ngày Giáp Dần tha tội. Nay gộp vào đây.)
[42] Cùng ngày, quan Khám án Tần Châu là Mộ Dung Tướng Mỹ nói: “Tra xét việc Tần Quý khai man số thủ cấp, hỏi các tướng sĩ và sứ thần, nói rằng quân Tần Phượng thu được 15 thủ cấp, Chung Truyền ra ý chỉ, bảo khai lên 1.300 thủ cấp, chia đều cho năm bộ, như các lại viên ở ty Kinh lược, Thống chế cũng có người khai lên hai thủ cấp kiêm thương nặng.”
(Lời Tướng Mỹ ghi trong sổ của Tăng Bố ngày Giáp Dần. Không rõ sai Tướng Mỹ đi tra án vào tháng nào. Ngày 21 tháng 8 có thể tra cứu. Tần Quý là Kiềm hạt Tần Phượng. Việc bắt đầu xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4.)
[43] Ngày Ất Mão, ban chiếu: “Hộ bộ Lang trung Từ Ngạn Phu đi ngựa trạm đến Tần châu, cùng với Tướng Mỹ cùng xét việc, những người có tội đều không được tha; hạn trong 5 ngày phải lên điện tâu trình.” Vua rất ngạc nhiên vì Chung Truyền dám lừa dối như vậy, lấy 15 cấp làm 1.300 cấp, tức là gấp trăm lần, Hi Hà chắc cũng vậy, bèn lệnh cho Ngạn Phu cùng xét việc này. (Theo sử chép ngày Ất Mão. Ngày 21 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4, Chung Truyền dẫn quân hai lộ Hi, Tần ra khỏi biên giới bắt được 4.000 cấp, Tần Quý bắt được 1.321 cấp. Ngày 5 tháng giêng, ngày 17 tháng 9, ngày 14 tháng 6 năm Nguyên Phù thứ nhất. Sử chép ngày Đinh Tỵ cùng trình, lệnh Từ Ngạn Phu điều tra Trương Tuân, Ba Nghi xem xét việc Chung Truyền tâu số thủ cấp[5], lệnh sau khi xét án phải tâu rõ biết hay không biết việc khai man. Lại theo sử chép ngày Tân Mùi cùng trình việc Trương Tuân xem xét việc của Chung Truyền.)
Vua nói với các đại thần: “Việc lừa dối ở Tần Phượng là do Tẩu mã Nguyễn Dị Giản tâu lên.” Tăng Bố nói: “Những người như vậy cũng nên thưởng.” Vua lại nói: “Chỉ có Tẩu mã hay tâu việc, Tẩu mã không phải là nội thần cũng không dám tâu.” Bố nói: “Đúng như vậy, việc phối địch ở Bân châu, mọi người đều biết, nhưng các sĩ đại phu từ Quan Trung đến, không ai dám nói, mãi đến khi Tạ Đức Phương đến mới dám nói. Sĩ đại phu thấy Tam tỉnh, Xu mật viện đang lo việc biên giới, ai dám nói việc khoa suất điều phát là sai, chỉ có trung nhân mới dám nói thôi. Như việc ở Phu Diên, nếu không có Lợi Tuân thì cũng không ai biết được. Triều đình nghe được, nếu không thi hành, thì người ta càng không dám nói. Như Quách Mậu Tuấn bị giáng hai chức, là do ý chỉ của Thánh thượng, nhưng vẫn là hình phạt nhẹ, những người này phải bãi chức mới đúng.” (Ngày 21 tháng 8, Nguyễn Dị Giản nói như vậy.) Vua rất tán thành. Bố bèn bàn với Chương Đôn, dùng Thái phủ Thiếu khanh Tề Kham thay Mậu Tuấn, lại lệnh Mậu Tuấn đi Giang Đông. Khi trình lên, Vua lại không cho là được. Đôn nói: “Bố biết Kham.” Bố nói: “Kham cũng là người bình ổn, hiểu việc, từng đi sứ Giang Đông, không khuất phục trước Vương An Thạch, Thái Biện biết việc này.” Biện nói: “Đúng như vậy.” Vua cuối cùng vẫn không đồng ý. Việc này bèn thôi.
(Sử chép ngày Kỷ Tỵ.)
[44] Ngự phê: Em trai của Hiền phi Lưu thị là Lưu Cảnh Niên, có thể đặc cách bổ làm Hữu ban Điện trực.
[45] Chiếu tăng thêm một chức Thái phủ Thừa.
[46] Ty Đề điểm hình ngục Phúc Kiến lộ tâu: Dưới quyền quản lý của châu Đinh, xin thêm huyện Thanh Lưu. Được chấp thuận.
[47] Ngày Bính Thìn, Hữu Vũ vệ Đại tướng quân, Khai châu Đoàn luyện sứ Thúc Cấp bị giáng làm Thục châu Thứ sử, vì tăng giá cỏ cho quân nhân vay.
[48] Ngày Đinh Tỵ, Hi Hà tâu: Xin cho người Khương hàng được định cư ở châu Dân, giao cho Bao Thuận quản lý. Chiếu cho Trương Tuân xem xét kỹ lưỡng rồi thi hành.
(Theo sách 《Tăng Bố lục》 ngày Đinh Tỵ.)
[49] Chiếu: Trương Tuân và Ba Nghi xem xét việc Chung Truyền tâu về thủ cấp, lệnh sau khi xét án phải trình bày rõ việc biết hay không biết về hành vi gian lận, rồi tâu lên để xử lý.
(Theo sách 《Tăng Bố lục》 ngày Đinh Tỵ. Ngày 22 tháng 8, Vua nói Trương Tuân phải bãi chức[6], Ba Nghi phải điều đi làm chức Giám đương nhỏ xa. Ngày 27, Trương Tuân bị bãi chức, Ba Nghi bị giáng làm Giám đương nhưng chưa thấy thực hiện; Ba Nghi được thêm chức Thông phán Thiểm Tây, vào ngày 23 tháng 6 năm Thiệu Thánh thứ 4.)
[50] Ngày Mậu Ngọ, Nội điện Thừa chế, Cáp môn Chi hậu, Hoàn Khánh lộ Phó tướng thứ tư Vương Ân được tái nhiệm.
[51] Hi Hà tâu: Ở trại Bình Tây có giặc Tây xuất hiện.
(Theo sách 《Tăng Bố lục》.)
[52] Ngày Kỷ Mùi, chiếu cho cố Quan sát Lưu hậu Lý Tuân, vì là hậu duệ của Chương Ý hoàng hậu, trong di biểu được ban ân trạch cho con cháu một người, đặc cách cho chuyển sang cháu rể là Vương Kinh làm Giao xã Trai lang.
[53] Chiếu sửa lại phép bổ quan cách hạ cho tướng hiệu. Tăng Bố nói rằng việc đổi phép cũ thời Nguyên Hựu là không đúng.
(Theo sách 《Tăng Bố lục》 ngày Kỷ Mùi, cần xem xét thêm.)
[54] Kinh Nguyên tiến cử Trương Dực làm Phó tướng, Tăng Bố cho rằng Dương Úy từng nói Trương Dực có liên hệ với cha con Vương Nham Tẩu, chiếu lệnh tiến cử người khác[7].
(Theo sách 《Tăng Bố lục》 ngày Kỷ Mùi.) Chức vụ của Trương Dực cần xem xét thêm, Trương Dực còn xuất hiện ở chỗ khác.)
[55] Ngày Canh Thân, Hình bộ tâu: “Những người phạm tội được hưởng ân xá, nên xét lại mà tha, có người bị cách chức, giáng chức, hoàn tục. Những người đồng phạm và người liên quan, nếu không phạm tội sau khi được xá, thì không được phép tố cáo, quan ty cũng không được nhận đơn, nhưng trước một tháng phải kiểm tra và thông báo rõ ràng.” Vua nghe theo.
[56] Đề điểm hình ngục Tôn Bôn của lộ Vĩnh Hưng quân tâu: “Hai lộ Phu Diên và Hoàn Khánh năm ngoái mỗi lộ đã chi phí một triệu quan tiền mua lương thực, nay Diên An lại xin thêm năm đến bảy trăm vạn quan, Hoàn Khánh xin bảy mươi vạn quan để ứng phó việc mua lương thực mùa hè. Xin ban thêm vài triệu quan tiền và lụa để giúp thu mua.” Tăng Bố nhân đó tâu lên Vua: “Hai lộ mỗi năm chi phí một triệu quan, thì sáu lộ cộng lại chi phí sẽ rất lớn, chưa kể sức dân cũng không đủ. Như vậy làm sao đối phó được việc biên cương! Nếu không sớm có kế hoạch thu hẹp chi tiêu, thì sức công tư e rằng không thể tiếp tục được.” Vua rất tán thành, liền sai truyền lệnh cho Tam tỉnh.
[57] Chiếu: Sai hai đô tri làm Đô đại đề cử quản câu quan cho lễ Nam Giao.
(Theo sách 《Bố lục》 ngày Canh Thân.)
[58] Xu mật viện tâu: “Các tướng hiệu, quân đầu, thập tướng lệnh chuyển bổ, giao cho bản tướng xem xét, không bịt mắt thử năm lần, thấy được ở khoảng cách hai mươi bước. Nếu một lần không giống nhau, giảm năm bước, bịt một mắt thử lại. Nếu cả hai mắt cùng thấy được hai mươi bước, hoặc một mắt hoàn toàn không thấy được hai mươi bước, vẫn thử lên xuống ngựa.
Nếu không có bệnh tật, bắn cung năm đấu, giẫm nỏ một thạch năm đấu, tay cầm thương, đao, tiêu, bài đều không đến mức vụng về, thì đều được chuyển bổ. Nếu có bệnh tật, tinh thần suy nhược, hoặc tướng hiệu đã sáu mươi chín tuổi, hoặc sau khi chuyển bổ phạm tội gian dâm, trộm cắp, làm trái pháp luật, thu thuế bừa bãi, giảm khắc, đe dọa, cưỡng đoạt tài sản, hoặc tái phạm các tội khác như cho vay nặng lãi với người cùng quản lý hoặc cho người cùng quản lý vay tiền, hoặc phạm tội nặng hơn, tuy phải giáng chức, đều cách chức và báo lên để nghe chỉ dụ. Nếu được cử đi nơi khác, thì triệu về bản tướng xem xét; nếu ở châu khác, thì báo cho châu đó xem xét.
Khi sắp xếp trưởng hành sung làm thừa cục áp quan, trước tiên chọn người dưới năm mươi tuổi, có hai lần chiến công trở lên để bổ khuyết. Nếu có sáu người trở lên mà không đủ bổ khuyết, thì chọn một người có một lần chiến công, cứ mỗi sáu người khuyết thì chọn thêm một người; còn lại chọn người dưới bốn mươi tuổi, võ nghệ cao cường, không có bệnh tật, thử cả hai mắt năm lần, thấy được hai mươi bước thì được chọn bổ. Trong quân bộ, lấy sáu phần khuyết làm chuẩn, trước tiên chọn một phần cung thủ, sau đó chọn ba phần nỏ thủ, rồi chọn hai phần thương, bài, đao thủ. Nếu còn phần lẻ, thì theo tỷ lệ sáu phần, lần lượt chọn, xoay vòng.
Trưởng hành phạm tội đồ đã xử quyết và qua hai năm, hoặc quân nhân phạm tội bị di phối, tội trượng qua ba năm, tội đồ qua bốn năm, hoặc đã được thăng giản quân phân và qua một năm, đều không phạm tội, thì được xếp liên. Những người không nên sung quân, sau khi nộp đơn, xét duyệt và cho về, tuy chưa cấp giấy tờ, nhưng các khoản cấp phát và sai phái đều bãi bỏ, nếu vi phạm, thì phạt nặng hơn người thường hai bậc. Những người không nên sung quân, theo pháp luật được cho về, thì thu hồi các khoản đã nhận khi đầu quân, báo cho nơi quản lý, cấp giấy tờ cho về. Nếu không phải là gia đình quan lại, không có khoản nào phải nộp lại, mà vẫn muốn tiếp tục làm quân, thì cho phép.” Được chấp thuận.
(Tân tước.)
[59] Ngày Tân Dậu, triều đình dâng lễ hiến tế tại cung Cảnh Linh, đến ngày Nhâm Tuất.
[60] Ngày Giáp Tý, Kinh Nguyên và Hà Đông đều tấu rằng giặc phương Tây giết lính canh biên phòng. Lục Sư Mẫn ở Tần Phượng tấu: Gần đây nhiều lần có giặc phương Tây xuất hiện, nghi ngờ chúng đến do thám đường đi, nếu vạn nhất chúng tập hợp binh lực xâm phạm biên ải, sẽ không có cách nào chống đỡ. Chiếu chỉ di chuyển binh tướng ở gần đó đến phòng bị, còn lại theo như điều khoản đã ban ngày mồng 5 mà thi hành.
[61] Tăng Bố tâu với ba tỉnh rằng: “Việc biên giới nhiều năm chưa xong, nay Kinh Nguyên đã áp sát Thiên Đô, tình thế không thể dừng lại. Tuy nhiên, mùa thu này thấy động tĩnh của giặc phương Tây, có thể biết được sức mạnh yếu của chúng. Nếu chúng thực sự khốn đốn, có cơ hội tiêu diệt, thì cũng phải trong vài năm mà lập kế hoạch tiêu diệt. Nếu người Tây chưa có dấu hiệu bị tiêu diệt, trong vài năm chưa thể tiêu diệt, thì cũng phải tùy nghi thu xếp, ngừng binh đao, cho dân nghỉ ngơi, để mong được yên ổn. Hiện nay, các nơi đang xây dựng thành trại, chiếm nhiều đất đai của người Khương, thế lực của họ đã suy yếu. Nếu cho họ quy phục, chắc chắn họ sẽ không không thuận theo. Nếu chúng ta phân định biên giới, người Tây cũng không dám không nghe. Điều quan trọng là mọi việc phải được giải quyết trong vài năm. Nếu cứ tham lam không ngừng, e rằng mối lo không phải chỉ ở phương Tây. Kẻ địch phương Bắc từng dùng binh áp sát biên giới vào thời Bảo Nguyên, để phá hoại kế hoạch của ta giúp họ. Ngày nay, biết đâu họ không làm như vậy? Nhưng việc triều đình lo liệu Tây Hạ có giới hạn, họ chắc chắn sẽ tìm cách phá hoại. Đến như thế lực của Thanh Đường, cũng phải quan sát thời cơ mà hành động. Chỉ cần một nơi có động tĩnh, thì không thể chống đỡ được. Đây là việc lớn liên quan đến an nguy của triều đình, sao có thể bỏ qua không lo nghĩ? Nếu việc xây dựng Thiên Đô xong, cùng người Tây thương lượng, lấy sông làm biên giới, đó là công lao phi thường.”
Chương Đôn nói: “Nếu làm như vậy, sao có thể mong lấy sông làm biên giới?” Tăng Bố nói: “Thần từng nói lấy sông làm biên giới, Chương Đôn đã mắng nhiếc cho là kế sách sai lầm. Hôm trước, thần đã tranh luận nhiều lần, Đôn mới cho rằng lời thần nên giải quyết trong vài năm là đúng.” Chương Đôn nói: “Tăng Bố nói thần muốn lấy Hưng Linh, là bị điên.” Tăng Bố nói: “Chương Đôn nói. Thần nói người Tây có dấu hiệu bị tiêu diệt thì mới có thể tính toán, nếu chưa có dấu hiệu bị tiêu diệt thì sao có thể ép được. Đôn nói nếu không có cơ hội lấy được, lại không bị điên, thì cũng phải lấy! Thần ngốc nghếch, thực sự đã trả lời rằng, bình thường nghe bàn luận, cũng có chỗ giống như điên.” Chương Đôn nói: “Chỉ cần lấy được Hoành Sơn và dải đất Thiên Đô, cũng có thể kết thúc.”
Tăng Bố nói: “Nếu lấy được Hoành Sơn, Thiên Đô, đó cũng là công lao phi thường hiếm có. Triều đình xuất quân thường bị người Tây làm khó, vì ra khỏi biên giới là vào đất sa mạc, đi bảy tám ngày mới đến Linh Châu, không có nước cỏ, lại không có người ở, chưa gặp địch, quân ta đã mệt mỏi rồi. Người Tây đến, tuy đã vượt qua sa mạc, nhưng vẫn trong lãnh thổ của họ, thường tập trung quân ở Hoành Sơn để lấy lương thực, rồi xâm phạm biên giới, vào sâu trong lãnh thổ ta, ắt sẽ thu được lợi, đó là lý do người Tây thường được lợi. Nay Thiên Đô, Hoành Sơn đều thuộc về ta, thì lấy sa mạc làm biên giới, họ không có nơi tập trung quân để lấy lương thực, việc xâm phạm biên giới sẽ khó khăn, đó là lợi ích không nhỏ cho ta, cần gì phải lấy Hưng Châu rồi mới vui!” Vua và các quan đều cho là phải. Vua nhiều lần nhìn các quan nói: “Sức dân đã kiệt quệ.” Mọi người đều nói đúng. Tăng Bố nói: “Không chỉ sức dân, sức nhà nước cũng không thể tiếp tục được nữa.”
(Theo ghi chép của Tăng Bố ngày Giáp Tí. Tất Trọng Du trong bài văn khắc mộ Tôn Lãm nói: Chương Đôn, Tăng Bố muốn lấy Linh Vũ. Nay chỉ có Tăng Bố nói như vậy, nên không thể tin được. Nhưng lời nói của ông thực sự đúng, nên ghi lại. Ngày 17 tháng 4 năm Nguyên Phù thứ 2, xây dựng xong Thiên Đô Trại, ngày 21 tháng 5, Chương Đôn và các quan chúc mừng việc xây dựng thành công. Có thể chép lời Tăng Bố vào đó.)
[62] Hôm đó, Tư đồ lại tâu rằng Đặng Phỉ bàn việc không đúng. Vua nói: “Đúng vậy.” Tư đồ bèn tâu: “Thần đã lâu ở đây mà không làm được gì, ngày đêm nghĩ đến việc xin từ chức để nhường đường cho người hiền. Hôm trước vì việc của Vương Du, nghĩa lý đáng phải chịu tội, nhưng vì lời thánh dụ ân cần, không dám vội vàng từ chức. Thần nghe nói Đặng Phỉ cũng từng có lời nói, thần trong việc đi ở cũng biết sơ qua đạo lý, cũng không đợi Đặng Phỉ đuổi đi. Nhưng Đặng Phỉ và Kiển Tự Thần qua lại thân thiết, họa thơ xướng họa, không chút né tránh hiềm nghi, như thần cô độc vụng về, sao dám an vị. Thần trong việc Vương Du, không dám cho là vô tội, nếu quả có tội khác, Kiển Tự Thần ắt không che giấu cho thần, các đại thần khác tư túi phạm pháp cũng không ít, thần ngu trực tự giữ, chưa từng dò xét chuyện người khác, từng nói với Lâm Hi một hai điều, thần không dám kể hết, chỉ có một hai việc mà Kiển Tự Thần biết, mong bệ hạ thử xem xét, ắt biết lời thần không hư.
Lữ An Trung là con của Lữ Gia Vấn, rể của Vương Bàng, em vợ của Kiển Tự Thần, hôm trước triều đình khôi phục trường mài chè, lẽ ra phải sai sứ thần đến làm, nhưng lại hạ chỉ lệnh không theo thường lệ cử quan, bèn cử An Trung làm giám trường chè. Sau đó vì việc chức vụ không thể không có sứ thần, lại hạ chỉ, từ nay về sau chỉ cử sứ thần đang làm quan văn, đợi đến hết nhiệm kỳ thì bãi. Lại vì An Trung hết nhiệm kỳ mới được năm khảo, chưa thể đổi chức, bèn hạ thánh chỉ đặc cách cho làm đủ ba năm. Ở kinh sư, các trường vụ đều hai năm một nhiệm kỳ, chưa từng có ai được làm đủ ba năm, An Trung làm đủ ba năm rồi đổi chức, lại nhờ thưởng ở trường chè mà được thăng một chức, bèn lên triều, nhưng sau đó vì bệnh mà mất.”
Vua nói: “Sao lại cho làm đủ ba năm?” Tư đồ tâu: “Quan chức ở châu huyện thiếu một ngày cũng không được khảo xét, nay đặc cách cho làm đủ ba năm, không gì khác hơn là hạ thánh chỉ.” Vua có vẻ không bằng lòng, Tư đồ tâu: “Việc này không thể không biết, ắt không dám nói với bệ hạ. Lại như nhân viên ở Sử viện, xưa nay thường dùng quan thư khố ở quán các và người lâu năm ở Sử cục biết thứ tự để bổ nhiệm, thần cũng từng ở Sử viện, phàm kiểm tra văn tự, lập tức tra được, hôm trước đuổi hết người cũ do Nguyên Hựu bổ nhiệm, chỉ để lại một người biết thứ tự ở viện, lại dùng người theo hầu Vương An Thạch và người sai khiến dưới trướng Chương Đôn để bổ nhiệm, đều không biết thứ tự. Lâm Hi nói việc chức vụ rất bị trở ngại. Kiển Tự Thần làm sử quan, ngày đêm thấy việc, ắt cũng không dám nói với bệ hạ, người sai khiến của An Thạch là thị cấm Hướng Hi Nhan. Hôm trước một người con của Chương Đôn ở đây muốn gặp Thái Biện, bèn viết thư trước cho Hi Nhan xin thông báo, nói ‘Kính thưa tu sử thị cấm minh công’, thần có con rể là Hướng Tử Sân ở nhà thần, người mang thư lại nhầm gửi đến chỗ Tử Sân.”
Vua lại hỏi kỹ, nói: “Tu sử thị cấm.” Rồi cười lớn. “Những việc như thế đều là tư túi thay đổi pháp luật và làm trở ngại việc chức vụ, đều là điều thần không dám làm. Trong Sử viện có áp ban, ngự dược lo việc, xin hỏi một chút, sẽ biết hư thực. Những việc khác mà Kiển Tự Thần không biết, thần cũng không dám kể hết.” Vua nói: “Còn có việc gì nữa?” Tư đồ tâu: “Gần đây Hướng Tể dẫn đoàn Cao Ly, đáng lẽ được cử một chỉ sử. Chương Đôn sai người theo hầu là Trương Liêm đến nói với Tể rằng: ‘Tướng công đã đồng ý.’ Tể muốn báo với thừa tướng, Liêm nói không cần, bèn cử lên. Chương Đôn liền phê thu, lại lệnh quan đô ty dán tờ cáo thị cho Hướng Tể rằng: ‘Đã cho về lại bộ, hãy một mặt tâu lên Lại bộ thi hành.’ Tể kêu với thần rằng: ‘Một đoàn Cao Ly, việc thuyền bè rất nhiều, sao dám mong họ quản lý, chỉ lo sao họ không nói gì, đã là may mắn.'” Vua nói: “Hướng Tể là hậu duệ, tể tướng sao lại can dự việc riêng.” Lại nói: “Hay là được tiền?” Tư đồ tâu: “Năm Nguyên Phong được năm sáu trăm ngàn, năm Nguyên Hựu chỉ được một hai trăm ngàn thôi. Nhưng tể tướng làm việc như thế, khiến trong ngoài cười chê. Tể nói: ‘Áp ban, ngự dược cũng đều biết.’ Mong thử hỏi, và xin đừng để lộ lời thần.” Vua nói: “Rất tốt, rất tốt!”
[63] Ngày Ất Sửu, ban chiếu rằng: Từ nay về sau, các chức vụ trong lễ nghi từ Lễ nghi sứ trở xuống sẽ đổi thành do các quan chấp chính đảm nhiệm, và lập thành quy định. Lấy Tri Xu mật viện sự Tăng Bố làm Lễ nghi sứ, Trung thư thị lang Hứa Tướng làm Nghi trượng sứ, Thượng thư tả thừa Thái Biện làm Lỗ bạ sứ, Thượng thư hữu thừa Hoàng Lí làm Kiều đạo đốn đệ sứ.
[64] Lại ban chiếu rằng: Ngự sử trung thừa An Đôn tiến cử hai người có thể đảm nhiệm chức vụ trong đài quan để báo lên.
[65] Lại có chiếu rằng: Đặc biệt ban cho Thừa vụ lang Lý Cảnh Hạ được ban Tiến sĩ xuất thân, làm chức Chính tự[8]. Cảnh Hạ ban đầu được triệu đối vào ngày Mậu Tý tháng sáu (Mậu Tý là ngày 11 tháng 6). Tăng Bố tâu: “Bệ hạ triệu đối nhân tài, không thể không cẩn thận lựa chọn. Phàm những người được tiến cử lên điện, cần phải được ba tỉnh cùng bàn bạc cho là xứng đáng mới nên triệu. Nay lại chỉ dựa vào những người mà chấp chính biết, mỗi người chỉ tiến cử hai ba người ứng triệu, nên phần nhiều không thích hợp. Gần đây nghe nói triệu Lý Cảnh Hạ, là con của Lý Định, mắt nhỏ, nhìn không ngay, cũng không có tài năng gì khác. Hơn nữa, Lý Định đã chết, lại được khôi phục nguyên chức, nhờ di biểu mà được làm quan, chưa từng trải qua nhiệm vụ gì, mọi người đều ngạc nhiên vì việc ông ta được triệu sớm. Tiên đế từng bổ nhiệm Lý Định làm gián quan, lúc đó dư luận xôn xao.”
Vua hỏi: “Từ khi được bổ nhiệm từ chức tuyển nhân, những người bàn luận đều bị giáng chức, là ai vậy?” Tăng Bố đáp: “Tô Tụng, Lý Đại Lâm, Tống Mẫn Cầu đều bị cách chức, ngày đó Lý Định cũng bị bãi chức, sau được làm Kiểm chính quan, nhưng không hiểu rõ công việc, vì không xứng chức nên bị bãi làm Quản câu Quốc tử giám. Sau đó, Lữ Huệ Khanh và Chương Đôn tiến cử ông ta, đến chức Hàn lâm học sĩ, Ngự sử trung thừa.” Vua hỏi: “Là do Chương Đôn tiến cử sao?” Tăng Bố đáp: “Huệ Khanh tiến cử làm Tri chế cáo, Đôn tiến cử làm Trung thừa, Học sĩ, sau khi bị giáng chức, đến khi quan chế được thi hành, suốt thời Tiên đế, chỉ làm đến Thị lang.” Vua gật đầu nhiều lần. Tăng Bố nói: “Cảnh Hạ là người do Đôn tiến cử. Lại có Tất Trọng Dũ, ngôn ngữ và cử chỉ rất đáng cười, Bệ hạ gặp một lần sẽ tự biết.” Vua hỏi chi tiết, Tăng Bố đáp: “Đại để nhân vật đáng cười, gặp thì tự biết, còn những người khác e rằng cũng không xứng đáng được triệu.” Vua gật đầu.
Sau hơn một tháng, Cảnh Hạ mới nhận được mệnh lệnh này.
[66] Lễ bộ tâu: Quan giảng nghị về ngọc tỷ: Hàn lâm học sĩ Tưởng Chi Kì cùng với các quan ở Bí thư tỉnh, Ngự sử đài, Thiếu phủ, Tướng tác giám, tổng cộng 13 người. Chiếu ban cho Tưởng Chi Kì mỗi loại bạc và lụa 100 tấm, còn lại mỗi người được ban 20 tấm.
[67] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu: Các quan tuần phố ở nơi thi bổ Thái học, ra lệnh cho binh sĩ đuổi cử nhân, gây thương tích rất nhiều, cùng với việc quan lại phụ trách niêm phong làm chậm trễ quyển thi, xin ban chiếu xử lý. Chiếu giao xuống Đại Lý tự điều tra tâu lên.
[68] Cùng ngày, Hoàn Khánh báo: Người Tây Hạ đang tập trung quân lớn. Vua bảo Tăng Bố: “Chương Đôn có cho là không đúng không?” Bố đáp: “Đêm qua Đôn nhất định không chịu ra lệnh cho các lộ chuẩn bị, qua lại ba lần mới nghe theo.” Khi đang trình bày, Đôn nói: “Đây hẳn là tin đồn.” Vua nói: “Sao có thể đoán được?” Bố lại nhân dịp tâu với Vua: “Triều đình thái bình vô sự đã 140 năm, bệ hạ đang nên cùng thiên hạ nghỉ ngơi, cùng hưởng niềm vui thái bình, mà ngày ngày lo việc đáng lo không chịu thôi, e rằng không phải là kế hay.” Vua rất tán thành. Bố lại từng nói, người Tây Hạ mùa thu này tất sẽ tập trung quân một lộ gây chuyện. Hứa Tướng nói: “Họ đến thì tốt.” Vua nhìn khắp các quan chấp chính nói: “Sao họ đến lại tốt?” Tướng có vẻ ngượng.
[69] Ngày Đinh Mão, Trung thư xá nhân Triệu Đĩnh Chi tâu: Việc chọn quan dạy học, xin tăng lên năm kinh, Quốc Tử Giám xin hai kinh, quyển thi mỗi loại có ký hiệu riêng, lấy những người đều đỗ làm hợp cách. Chiếu: Từ nay thi ba kinh, còn lại theo đó.
[70] Phó sứ chuyển vận Hà Bắc Hoàng Thực tâu: “Xin từ nay trong khoảng thời gian chưa tiếp vụ mới, không để thiếu vốn, giảm giá chợ mà bán ra.” Theo lời tâu. Lại lệnh theo năm thứ tự mà chia số lượng bán ra, không để thiếu sót.
[71] Chiếu rằng: “Các trại mới ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ hợp chiêu mộ cung tiễn thủ[9], đều theo chiếu chỉ tháng 9 năm Nguyên Phong thứ 4, cho phép cung tiễn thủ từ các lộ khác đến đầu quân. Chỉ thị tháng 4 năm Nguyên Hựu thứ 8 không được chiêu mộ cung tiễn thủ từ lộ khác thì không áp dụng.” Trước đây, Hi Hà Lan Dân lộ chiêu mộ cung tiễn thủ, Lý Di Hành tấu xin, việc xây dựng mới Hội Ninh Quan hoàn toàn dựa vào cung tiễn thủ đầu quân, vì họ quen thuộc địa hình đường sá, nên có chiếu này.
[72] Ngày Mậu Thìn, quan sát sứ Minh Châu trước đây, phò mã đô úy Quách Hiến Khanh, đặc cách khởi phục như cũ.
[73] Phó sứ phát vận Giang, Hoài, Kinh, Chiết đẳng lộ Lữ Trọng Phủ làm Trực bí các, tri Kinh Nam; lang trung Hộ bộ Nhậm Công Dụ làm Phó sứ phát vận Giang, Hoài, Kinh, Chiết đẳng lộ.
[74] Thượng thư Hộ bộ Ngô Cư Hậu tâu: “Thuế muối ở Hà Bắc, Kinh Đông, nhiều năm thiếu hụt lợi tức rất lớn, xin chọn một viên quan, vẫn giữ chức đề cử như cũ.” Chiếu sai thừa Bắc ngoại đô thủy Kỳ Nguyên.
[75] Đại Lý tự tâu: “Trong kinh thành, các quan giám lâm tự đạo, và đạo tài vật giám lâm, theo sắc lệnh của một ty tính tang, không tăng thêm mức phạt; kẻ đạo tiền vật của người tiến phụng nước phiên cũng theo đó. Những trường hợp nhẹ hơn, theo sắc luật hải hành gia pháp[10].” Đều theo đó.
[76] Chiếu miễn tập luyện mùa đông ở Thiểm Tây, Hà Đông.
(Bố lục ngày Mậu Thìn.)
[77] Định Châu tấu: Khiết Đan tập hợp binh mã, mưu giúp người Tây.
[78] Kỷ Tỵ, Tăng Bố lại vào chầu, trình bày pháp lệnh thu thuế chăn nuôi. Các lộ Kinh Đông, Hà Bắc đều có thuế chăn nuôi, khách thương rất muốn được nhận; lại số tiền đầu tử phải nộp không nhiều, nên người tranh giành rất đông. Thái Bộc Tự trước kia có lúc rút ra hai ba tờ trong trăm tờ, để tỏ ra rất công bằng. Triệu Lệnh Thước làm khanh[11], thường tự tiện nhận tờ trình, các quan trong tự rất bất bình. Sau đó có hai tờ trình chưa niêm yết mà đã nộp trước, thừa Lý Tường, Bành Nhữ Lâm dâng sớ xin điều tra tình trạng gian lận, Lệnh Thước cho là kiện cáo mình, muốn đè nén việc này. Chủ bạ Nghê Trực Hầu đến báo với Mật viện, thiếu khanh Thịnh Thứ Trọng cũng cho rằng có việc nhờ vả, Bố bèn lập pháp lệnh, lại gọi thiếu khanh dụ lệnh đưa xuống Đại Lý Tự, nhân đó tâu lên: “Lệnh Thước vốn được Tiên đế sủng ái, sau đó có thân phận tông thất, nghe nói nhận tờ trình tiền thuận tiện, thường dung túng lại dịch làm bậy, nay đã đưa xuống Đại Lý Tự điều tra, cần phải lập pháp lệnh để ràng buộc.” Vua nói: “Lệnh Thước việc này chắc chắn có, người ta nói y phụ theo Lưu Chí, nghĩ cũng không sai.”
(Việc điều tra của Đại Lý Tự rốt cuộc thế nào, cần xem xét đầu đuôi của Lệnh Thước, nên ghi lại việc này. Ất Hợi, Bố ghi việc triệu Đại Lý Tự hỏi việc ngục án, nhưng không đáng chép. Ngày 9 tháng 8 dời Lệnh Thước đi nơi khác.)
[79] Canh Ngọ, xuống chiếu: Từ nay về sau, các văn thư liên quan đến bốn chức sứ lễ nghi Nam Giao, Minh Đường đều phải gửi xuống các cơ quan hữu quan.
[80] Kinh Nguyên tâu việc tu sửa xong đồn Một Yên Thông Quá.
(Bố ghi.)
[81] Ba tỉnh tâu rằng[12], Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ Thái Kinh tấu lần thứ ba: “Thần trước đây đã tâu về việc Văn Cập Phủ tố cáo Lưu Chí có tâm địa như Tư Mã Chiêu, cùng những kẻ theo phe cánh của hắn, nên xử tội tru di cả con cháu. Thần nghe nói Lưu Chí và Lương Đào đã bị xử phạt, nhưng những kẻ khác nổi bật trong phe cánh vẫn chưa bị xử lý.
Hơn nữa, tâm địa phản nghịch của Lưu Chí đã được Văn Cập Phủ tố cáo từ thời Nguyên Hựu khi Lưu Chí và Lương Đào nắm quyền, nên việc này là đáng tin, không thể bác bỏ. Theo luật, cả chín họ đều phải chịu tội. Nay Bệ hạ cho phép họ không bị tử hình, tha cho chín họ, đó là ân đức của cha mẹ, là sự sáng tạo của trời đất. Thần nghe Bệ hạ có đức lớn yêu thương sinh mạng, khắc chế bản thân, nên thần không dám không tuân theo. Tuy nhiên, tội đã rõ mà hình phạt lại không tương xứng, khiến thần không khỏi băn khoăn, vì thần có trách nhiệm, không dám tự ý bỏ qua. Hơn nữa, tâm địa phản nghịch của Lưu Chí, theo Văn Cập Phủ, là điều mà người đi đường ai cũng biết. Người đi đường không đổ lỗi cho ai khác mà đổ lỗi cho Lưu Chí và đồng bọn, vì tâm địa của hắn không phải là điều bí mật khó hiểu, nên không cần phải điều tra sâu xa, tự nó đã rõ ràng. Những kẻ theo phe cánh của hắn, cùng nhau làm việc ác, lẽ nào lại không bị bàn tán? Có người nói rằng, nếu có tâm địa như vậy, thì đó chỉ là lời nói của Văn Cập Phủ do hận thù, không có bằng chứng để tin, khó mà định tội. Thần nghĩ rằng điều này là sai lầm, xin được bàn về những kẻ phe cánh. Lưu An Thế từng tâu rằng trong cung thuê nhũ mẫu, cho rằng Bệ hạ đã sủng ái nữ sắc, lại tâu rằng Bệ hạ không ngự kinh diên, cho rằng Bệ hạ đã say mê rượu chè, vu cáo thân thể của Bệ hạ một cách nghiêm trọng. Khi bọn gian thần lộng quyền, lấy không làm có, viết thành chương sớ, thì tâm địa của chúng là gì? Tâm địa của chúng có thể thấy rõ ở đây, mà lại nói rằng không có bằng chứng để tin, thần không hiểu lý do.
Nếu việc này không bị phơi bày thì thôi, nay đã sai quan điều tra, sự việc đã rõ ràng, lòng dân oán hận bất bình, cho rằng triều đình nên sớm tâu tội, tối xử phạt. Ban đầu, ba tỉnh nhận được tố cáo mà không thi hành, giấu tờ tấu của Minh thị mà không tâu lên, nay lại kéo dài thời gian, đã mấy năm trôi qua, chỉ xử một người mà bỏ qua nhiều kẻ khác, khiến dân gian có cớ để bàn tán, thiên hạ cũng nghi ngờ về tội của họ, thần lại không hiểu lý do. Lưu Chí lúc sống bị đày xa, lúc chết thì con cháu bị tru di, còn Vương Nham Tẩu lúc sống không bị xử, lúc chết con cháu không bị liên lụy, Lưu An Thế lại không bị xét xử, hình phạt khác nhau như vậy, thần lại không hiểu lý do. Giả sử Văn Cập Phủ và Lưu Chí có thù hận, lời nói của hắn xuất phát từ lòng căm phẫn, nhưng Văn Cập Phủ là kẻ phe cánh thời Nguyên Hựu, nghe lời cha, biết rõ sự việc, nếu không có lòng căm phẫn, sao lại tố cáo? Tội đại nghịch bất đạo, theo luật, sáu thân đều có thể tố cáo, huống chi là kẻ thù và người có lòng căm phẫn?
Kính nghĩ Bệ hạ có đức lớn trời ban, từ khi lên ngôi đến nay chín năm không nói, nên bọn gian thần không có cơ hội, kẻ ác không thể ra tay, nói ra thật đáng sợ. May mà Văn Cập Phủ vì lòng căm phẫn mà tố cáo, lại may mà thư từ năm Nguyên Hựu thứ năm với Hình Thứ vẫn còn, nên tâm địa gian ác không thể trốn tránh, nhưng lại kéo dài việc xử phạt là vì sao? Phải chăng trong triều có nhiều kẻ phe cánh của Lưu Chí? Hay có nhiều người biện hộ cho Lưu Chí? Thần mong Bệ hạ quyết đoán, làm rõ nghĩa quân thần, chính hình pháp quốc gia, xem xét lại tờ tấu của thần, tuyên cáo cho thiên hạ. Và xem xét lại các tờ tấu của Vương Nham Tẩu, Lưu An Thế, kiểm tra tâm địa của họ, xử phạt theo lệ của Lưu Chí và Lương Đào. Những kẻ nổi bật khác như Lưu An Thế, cũng xin xem xét, cùng xử phạt. Tờ tấu của Minh thị tố cáo Lưu Chí đại nghịch, các quan không từng tâu lên, cũng xin giao việc này cho Hình bộ, Đại Lý tự, căn cứ luật pháp để chính hình phạt, làm gương răn đe, để giải tỏa nghi ngờ của thiên hạ.”
Chiếu chỉ viết: Trẫm suy xét công bằng trong việc thưởng phạt để lấy lòng tin của thiên hạ, dẫu là người thân cận quyền quý cũng không dám thiên vị. Tư chính điện đại học sĩ, Hữu chính nghị đại phu, Tri Hà Nam phủ Lý Thanh Thần, trước đây ở Tây tỉnh, thực sự tham gia chính sự, tể thần Thái Xác vì trung thành mà bị giáng chức đến chết, Trẫm luôn thương xót! Mẹ của Thái Xác từng tố cáo âm mưu phản nghịch của các đại thần thời Nguyên Hựu, đánh trống Đăng văn dâng sớ trình bày, gửi lên công phủ. Ngươi là phúc tâm của quốc gia, nghĩa lý đáng phẫn nộ, nhưng lại im lặng, không tâu lên, nhiều lần khiến người ta bàn tán, tội sao có thể tha thứ! Tạm thời tước bỏ chức vụ của ngươi, vẫn cho ở lại, hãy nhớ ơn khoan hồng, đừng quên tự xét mình! Có thể đặc cách cách chức Tư chính điện đại học sĩ, Chương Đôn, An Đào, Trịnh Ung đều được đặc xá tội.
(Sách 《Nam du ký cựu》 của Tằng thị chép: Năm Thiệu Thánh, do mẹ của Thái Trì Chính đánh trống Đăng văn, nói rằng hai năm đã năm lần dâng sớ, xin truy phục quan tước cho con trai, nhưng đều không được chấp thuận. Thái Nguyên Độ ở trong triều đình, dùng việc này làm kế hãm hại An Hậu Khanh và Lý Bang Trực, bèn liệt kê tên ba vị tể tướng cũ để xin chỉ, An và Lý bị cách chức, Chương Tử Hậu tuy đang tại chức tể tướng cũng bị giáng chỉ tha tội, người bàn luận cho rằng quá bất công. Nhưng hôm sau, Chương ra cửa tạ ơn ở ngoài bình phong điện Sùng Chính, từ xưa tể tướng chưa từng có ai bị tha tội mà ra cửa tạ ơn, các quan lão lại ở Cáp môn cũng cười nhạo, so sánh sự nhục nhã này còn hơn cả việc bị cách chức. 《Ký cựu》 là lời của cha Tằng Bố do con là Tằng Phưởng ghi lại[13], lời của Tằng Bố vẫn còn.
Sau đó, Chương Đôn vào tháng 4 năm Thiệu Thánh nguyên niên làm Tả quỹ kiêm Môn thị, một mình làm tể tướng. Lý Thanh Thần vào tháng 2 năm nguyên niên từ chức Hộ thư được bái làm Trung thị, đến tháng giêng năm thứ tư bị bãi chức. An Đào, mẹ của Thái Xác tố cáo vào tháng 5 năm nguyên niên từ Trần Châu được bái làm Môn thị, đến tháng 11 năm thứ hai bị bãi chức. Đặng Ôn Bá vào tháng 5 năm nguyên niên qua đời khi đang giữ chức Tả thừa. Trịnh Ung vào tháng 6 năm Nguyên Hựu thứ 7 làm Hữu thừa, đến tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ hai bị bãi chức. Việc của Thái Xác chắc chắn xảy ra sau tháng 5 năm Thiệu Thánh nguyên niên và trước tháng 10 năm Thiệu Thánh thứ hai, vào thời điểm đó, các quan trong Tam tỉnh là Chương Đôn, An Đào, Lý Thanh Thần, Trịnh Ung bốn người.
《Lý Thanh Thần truyện》 chép: Thanh Thần nhậm chức Tri Hà Nam phủ vào ngày 25 tháng giêng năm thứ tư, sau đó được điều làm Tri Thành Đô phủ nhưng không đi, đến ngày 30 tháng 12 đổi làm Thành Đô[14], đến ngày 9 tháng giêng năm Nguyên Phù nguyên niên vẫn làm Tri Hà Nam. Những kẻ ghen ghét Thanh Thần vẫn sai Giám ty dò xét Thanh Thần, nhưng xét kỹ không thấy có kẽ hở để bắt bẻ, bèn lấy việc cũ ở Trung thư để tước chức Đại học sĩ của Thanh Thần. Trước đó, tể tướng Thái Xác bị giáng chức đến chết, đến lúc này mẹ ông là Minh thị bảo cháu là Thái Vị dâng sớ kêu oan cho Thái Xác, trước đó, tể tướng Lưu Chí cũng bị giáng chức, nhân đó gán ghép tội lớn cho Lưu Chí để tự giải oan, sớ bị giữ lại trong cung không đưa ra. Thái Vị lại đến Viện Đãi Lậu tố cáo, Thanh Thần biết rõ là vu cáo, nhưng nghĩ rằng Thái Vị đã từng tâu lên, không thể từ chối, bèn niêm phong tờ trạng trong tỉnh, nhưng kẻ ghen ghét vẫn dùng việc này để hãm hại ông. Việc sai Giám ty dò xét Thanh Thần, có lẽ là chỉ Chu Trật, sự việc chép trong 《Tạp ký》 của Vương Củng, đã phụ vào thời điểm Thanh Thần làm Tri Hà Nam.
Sách 《Lưu Xí biện báng lục》 chép: Ngày mùng một tháng 3 năm Tĩnh Quốc nguyên niên, (Lưu Xí) đến phủ Đông gặp Lý Thanh Thần, bàn về việc phong tờ trạng của Thái Vị, suýt nữa bị tru di, đọc lời từ chức của ông ta, rằng: “Hết lòng bảo vệ kẻ hung ác, công khai che giấu”. Nay trong lời từ chức không có hai câu này, cần xem xét lại. Lưu Xí chép về vụ án này khoảng mười đoạn, đã chú thích vào ngày Tân Hợi tháng 5, nay gặp lại. Tất cả các vụ án xảy ra cuối đời Thiệu Thánh đều có thể tham khảo, không chỉ riêng vụ án Đồng Văn.
Sách 《Lưu Xí biện báng lục》 chép: Ngày 11 tháng giêng năm Kiến Trung Tĩnh Quốc nguyên niên, Lưu Xí đến phủ Đông gặp Hàn Trị, nói rằng đầu đời Thiệu Thánh, Thái Vị đã từng dâng trạng chỉ trích các đại thần đời Nguyên Hựu có ý đồ phản nghịch, tờ trạng đó bị Lý Thanh Thần ở Trung thư phong lại. Năm Thiệu Thánh lại dâng trạng, nói rõ việc An Đào, Lý Thanh Thần ngăn cản không cho thi hành. Khi đó xuống lệnh cho Hình Thứ kiểm tra thư của Văn Cập Phủ, Thứ vẫn nói với mọi người rằng: “Thằng nhóc này không bàn bạc gì cả”, rồi dâng lên. Bản gốc là giấy trúc. Từ đó sai quan điều tra, nói rõ thư của Cập Phủ và lời khai đều giống với hồ sơ vụ án ở Trung thư sau này. Lại nói, theo thư từ của Thượng Chu thì là một người tầm thường, chỉ có tờ trạng của Thái Vị rất có lý lẽ, rõ ràng là đã được trau chuốt, ý chỉ bọn Biện. Lưu Xí căn cứ theo lời Hàn Trị kể về việc trên, lúc đó đã xem hết hồ sơ gốc, nhưng chỉ nghe đồn. Trị lại nói, lời khai của Cập Phủ về nhóm bạn bè gồm Diệp Đào, Tôn Ngạc, người Nam Kinh là Chiêm Thích, Tôn Thăng, Cung Nguyên đều là đảng của Lưu Chí; hai anh em họ Tô, Phạm Tổ Vũ không phải đảng của Lưu, tự là đảng gian. Lưu Xí căn cứ theo hồ sơ vụ án sau này thì không thấy tên Diệp Đào, chắc là ghi chép không đầy đủ. Trị lại nói, có người tố cáo Lưu Chí về lời nói không chết.
Trị lại nói, Hình Thứ hết tang đến Vĩnh Châu, trên đường gặp Thái Thạc. Cập Phủ đưa một bản thư cho Thạc. Thạc gả con gái cho Văn Khang Thế, nhân đến Tây Kinh thăm con, tận mắt nghe Cập Phủ nói “phấn côn” là chỉ họ Hàn, chuyên oán Ngụy công, nhưng sau này khi đến quan khai lại khác[15], con rể của Thạc là Hứa Tịnh cũng từng nói như vậy. Trị lại nói, năm trước tận mắt gặp Hình Thứ, nói “phấn côn” là anh của Hà Yến. Trị lại nói, trước đây từng làm Đề hình Kinh Tây lộ[16], Thường bình Kinh Tây lộ là Lý Quân[17], vốn là môn sinh của An Đôn, vốn thân thiết, thường nói chuyện với Trị rằng, Đôn trước kia bí mật nói về việc Đồng Văn, tiếc là không có bằng chứng xác thực, chỉ cần một bức thư tay của Lộ lão là đủ.
Lại nói, ngày 12 tháng giêng, Lưu Xí đến phủ gặp An Đào, Xí nói gần đây biết rõ chuyện của Thượng Chu, nghe xong rất mừng, lại nói Chu Trật từng nói, Cung Nguyên ở phủ Từ có thư từ qua lại với Lưu Chí, nhưng ý của Triết Tông không cho là đúng, tra hỏi kỹ thì quả nhiên không có, Chu Trật liền bị khiển trách, nên trong chiếu chỉ triều đình ngày 19 cũng không ghi chép. Lại chép ngày 12 tháng giêng, Ngưu Thực vốn là cựu lại dưới quyền cha tôi, làm Hành thủ ba tỉnh, đến chỗ ở của Lưu Xí, ngày mồng 9 tháng này, Tả bộc xạ lấy văn thư từ phòng Trung thư Môn hạ[18], tình cờ thấy đầu thẻ có chữ Thượng Chu, liền gọi lại phòng lại kéo xem một lượt, thấy cả tên của tiên tướng công, nhớ lại trong năm Thiệu Thánh thứ 4 có quan nhân ở Đô đường ra lệnh dẫn vào (phần này nguyên bản thiếu 810 chữ, nay theo 《Lưu Xí biện báng lục》 thêm vào). Trong phòng ấm, trên bàn khai báo rất lâu, tự nộp cho Chương tướng công rồi lui về, đó là quan nhân Thượng Chu. Không biết khai báo việc gì. Thực vốn là cựu lại dưới quyền cha tôi, làm Hành thủ ba tỉnh, Lưu Xí đến kinh, tất cả người thân quen đều nhờ hỏi thăm việc của Thượng Chu, nên Thực đặc biệt đến nói chuyện này.
Lại ngày 22 tháng giêng, Lý Xí đến gặp Trương Thuấn Dân, lúc đó Thuấn Dân đang giữ chức Thị lang Lại bộ, nói rằng mùa thu năm ngoái đã bốn lần vào chầu, đều xin sớm giải quyết những lời gièm pha nghi ngờ về Tuyên Nhân, thì những việc vu cáo đối với các gia đình quan lại đều sẽ được giải tỏa. Vua nói rằng, những lời vu cáo ngày xưa vốn không rõ ràng, nay không cần phải phân biệt rõ ràng. Vua hỏi có xem qua lời trách tội của Hình Thứ không? Đó chính là để biện minh cho Tuyên Nhân. Thuấn Dân đáp rằng chưa từng xem. Sau đó lại trách tội Chu Trật ở Quảng Đức quân, Vua lại nói rằng cũng là để biện minh cho Tuyên Nhân. Thuấn Dân lại nói rằng lời nói của Lâu hậu vốn là do Chương Đôn nói ra, nhưng lại chỉ cho là do Hình Thứ nói. Thứ từng dâng sớ xin cùng với tặc thần Đôn mỗi người năm bản đối chất tại Ngự sử phủ, nhưng không được ban xuống. Thuấn Dân từng xin ban xuống tờ sớ này, nhưng Vua không cho phép.
Lại ngày 28 tháng giêng, Lý Cách Phi nói rằng, Cung Nguyên vào niên hiệu Thiệu Thánh bị Phạm Thang uy hiếp rất khốn đốn, Thang nhiều lần nói rằng không bằng nói thật đi, e rằng sau này sẽ không tiện, nhưng Nguyên chỉ khẳng định là thực sự không có. Cách Phi nói rằng Cung Nguyên tính tình thuần hậu, nếu có chút gì sai sót, ắt sẽ bị uy hiếp mà khai ra. Lý Xí nói rằng trước đây gặp An Đào, Đào nói rằng những lời Chu Trật nói về việc truy cứu không có thực, e rằng sau này là do Chương Đôn tự sửa, từng giao cho Phạm Thang.
Lại ngày 28 tháng giêng, Hàn Trị nói rằng, Tổ Vũ và Lưu An Thế cùng bàn về việc thuê mướn vú nuôi, lại bị trách tội giáng chức, nói rằng “muốn gây chấn động”, là do Chương Đôn tự sửa. Đặc biệt coi Lưu và Phạm là người khởi xướng, nhưng trong lời khai về việc truy cứu của Cập Phủ, lại thông qua An Thế mà không thông qua Tổ Vũ, không hiểu ý gì.
Lại ngày mồng 3 tháng hai, Lý Cách Phi nói rằng, gặp Trịnh Ung, Ung nói rằng khi Đôn làm tể tướng, những lời nói về chém giết không rời khỏi miệng, thường nói chém đầu mười tên đại gian, khiến con cháu chúng phải lưu lạc đến nơi ác địa, há chẳng đáng xem sao.
Lại ngày mồng 7 tháng hai, Tống Kiều Niên đến chỗ ở của Lý Xí, nói rằng Thái Nguyên Trưởng đã triệu Thái Phiền, gặp nhau thong thả, Phiền hỏi có nghe Hình Thứ nói với người khác không, tự nhận là có ân với Lưu mỗ. Thái Kinh nói rằng từng có chuyện đó. Khi Kinh sắp lên điện, Thứ tình cờ gặp, kéo tay áo Kinh, nói rằng hai họ Lưu và Lương, việc này nằm ở một hành động, xin ngài hãy nghĩ đến. Kiều Niên lại nói rằng, Thái Nguyên Trưởng và An Đôn truy cứu chưa rõ ràng, một hôm Biện bảo rằng Đôn tể tướng bí mật bàn định sai quan khác xét hỏi. Kinh nổi giận, bèn vội vàng xin vào chầu, bèn trình bày rằng Đôn vốn có hiềm khích với thần, nếu sai người khác xét hỏi, ắt sẽ sai Lộ Xương Hoành, người này không chỉ lật đổ hai họ, ắt sẽ lấy tội dung tặc để hãm hại thần, bèn khẩn thiết xin nhiều lần. Vua cười nói không sai người khác xét hỏi, nhiều lần nói không sai người khác xét hỏi. Thái Phiền là con rể trưởng của Chí.
Lại ngày 11 tháng hai, Vương Chích nói rằng, từng có văn bản của Bộ xuống cho thư phố thông báo cho nguyên cáo nhân Thượng Chu rằng Lưu mỗ và Lương Đào đã chết, không thi hành nữa, những gì biết được thì giao đi.
Lại nữa, ngày 20 tháng 2, Xí gặp An Hậu Khanh, nghe ông này nói về nội thần Trương Sĩ Lương, trong ngục bị trăm phương dụ dỗ, uy hiếp, nhưng không hề nói dối, mọi người đều lấy làm lạ. Lại nghe Hàn Trị kể, Sĩ Lương khai báo, có một quyển riêng, không liên quan đến Văn Cập Phủ, chỉ vì cùng bị giam chung mà thôi. Xí muốn xem nhưng chưa được, nay đến chỗ ở của Bạch Thiết Ban mới thấy. Nghe nói từ khi bị biên quản ở Bạch Châu, được lệnh về kinh, đến ngoài thành, lại bị quan lại Khai Phong giám sát, giam ở quân tuần, nửa tháng sau, đột nhiên ban đêm bị đưa đến một nơi, trước rèm bị tra hỏi, trước tiên bị dọa nếu biết mà không khai sẽ cùng tội, lại hứa nếu khai báo sẽ được chuộc tội. Khoảng bốn mươi, năm mươi ngày sau, lại bị đưa về Bạch Châu. Hỏi về việc của Cập Phủ, thì không liên quan. Xí không dám hỏi thêm.
Lại nữa, ngày 22 tháng 2, Xí ở Tương, trong phòng khách gặp Mã Hiển, Hiển kể năm trước khi làm quan ở Kinh Đông, giữ chức Vận phán, Hình Thứ từ Thanh Châu đi qua Vận, đã đi rồi, Vận phó Hoàng Thực bí mật nói với Hiển, chẳng bao lâu sẽ có một việc cực lớn xảy ra. Đó là lời của Hình Thứ, nhưng không biết rõ chi tiết. Năm đó Xí chưa đến Kỳ Dương phụng dưỡng cha, ở Vận thấy Hình Thứ đi qua, từng đến yết kiến, người này ngày thường với cha và Xí không gì không nói, nay tuy khác chí hướng, nhưng vẫn cho rằng còn thương xót nhau, nhưng lời nói cử chỉ đều trái ngược, lúng túng như không kịp, mới biết tâm tư của hắn như vậy.
Lại nữa, ngày mùng 1 tháng 3, Xí đến phủ đệ gặp Lý Thanh Thần, cũng nói về việc Phong Khởi Vị, suýt nữa bị diệt tộc, đọc lời từ chức của ông ta, rằng “hết lòng bảo vệ kẻ hung ác, công khai che giấu”. Thanh Thần lại nắm quyền, Đôn Tướng chưa bị cách chức, từng hỏi riêng về mấy việc trước đây của Vương, Tư Mã, Lưu, Lương, tướng công đều thi hành, rõ ràng có bằng chứng gì, đến nay vẫn chưa biết rõ. Chương chỉ nói không có việc gì khác, mỗi người đều có nguyên do riêng, cuối cùng không chịu nói. Thanh Thần lại nói, Đôn từng nhân việc tấu lên trước mặt Vua, tự nói mấy việc này, Vương, Mã, Lưu, Lương đều là do Hình Thứ nói với thần, vì thế mà trách Hình Thứ, Hình Thứ dâng sớ xin đối chất với Đôn, nhưng không được ban xuống, đó là lời vàng ngọc của Vua. Xí cho rằng việc này giống như lời Trương Thuấn Dân (Vân Tẩu) đã nói, Hàn Trị cũng từng nói như vậy, chắc là sự thật.
Lại nữa, ngày mùng 7 tháng 3, Xí gặp Lưu Đường Lão, Đường Lão nói, năm Đinh Sửu, tháng 6, Văn Khang Thế báo với cha vợ là Thái Thạc, nói Cập Phủ cùng Đường Lão bí mật bàn bạc việc thời sự, nói chẳng bao lâu sẽ có biến, Đôn sẽ bị diệt tộc, các chấp chính khác sẽ bị đày. Lại nói, Khang Thế gặp Lưu Đường Lão nói riêng, Thạc bảo Khang Thế viết ra giấy, mang đến gặp Thái Biện, rồi có chỉ dụ xuống cho Giám ty Chu Trật điều tra, việc này chưa xong, tháng 9 lại xảy ra vụ Đồng Văn, bèn bắt Cập Phủ giam vào ngục Đồng Văn, sau đó mới khởi vụ Lạc ngục. Xí gặp Tăng Hữu Tướng, nghe nói trước vì việc của Lưu Đường Lão, sau mới có việc của Văn Cập Phủ, việc này phù hợp, nhưng chưa hỏi được vụ Lạc ngục sau cùng kết thúc thế nào[19], chắc có người biết, nên hỏi.
[82] Ngự sử Thái Đạo tâu: “Thần trộm thấy gần đây có chiếu chỉ giáng xuống, vì Lý Thanh Thần trước đây giữ chức Trung thư thị lang, nhận được tờ trình của Minh thị tố cáo Lưu Chí và những người khác mưu phản, nhưng không trình lên, nên bị cách chức Tư chính điện Đại học sĩ. Còn Thượng thư tỉnh vì không nhắc nhở, nên Chương Đôn, An Đào, Trịnh Ung đều được tha tội. Thần nghĩ rằng bề tôi mưu phản, là điều mà những người đội trời đạp đất không thể dung thứ. Các đại thần phụ trách cơ mật, được tiên đế giao phó, nên lấy việc lớn của xã tắc làm trọng, nghe được thì làm ngay, không nên do dự. Thanh Thần nhận được tờ trình, lại giữ kín nhiều ngày, không có ý trình lên, cố tình trì hoãn, mong cho việc qua đi. Dung túng kẻ gian như vậy, chỉ cách chức là còn nhẹ. Còn Đôn, Đào, Ung đã xét tờ trình giao cho Thượng thư tỉnh, để lâu không báo cáo, cũng nên nhắc nhở thúc giục, trình lên xin chỉ thị. Vì việc Minh thị tố cáo Lưu Chí và những người khác mưu phản là việc lớn, không thể bỏ qua không hỏi. Thanh Thần muốn che giấu việc gian của Lưu Chí, nên không có ý trình lên. Đôn, Đào, Ung lại bao che cho Thanh Thần, không hề nhắc nhở. Tam tỉnh là nơi bệ hạ coi là phúc tâm, mà không nghĩ đến việc cùng nhau xử lý, để làm rõ quyền thưởng phạt của bệ hạ, như vậy có phụ lòng bệ hạ không? Thần ngu nghĩ rằng Thanh Thần tuy đã bị cách chức, nhưng việc giữ chức Thủ tướng chưa hợp với ý kiến của mọi người. Đôn, Đào, Ung được tha tội, thật không phải là ý nghĩa của việc thi hành pháp luật từ những người quý tộc gần gũi trước. Thần mong bệ hạ lưu tâm xem xét, đặc biệt ban hành, để thỏa lòng công luận.”
[83] Tam tỉnh tâu: “Vương Nham Tẩu, đảng viên của Lưu Chí, trước sau bàn việc, đều chứa đầy ý đồ gian ác, rất hung hãn. Phạm Tổ Vũ, Lưu An Thế, Chu Quang Đình nhiều lần dâng sớ vu cáo thánh đức, âm mưu tà ác, tuy đã bị xử phạt, nhưng nhiều lần có thần liêu tâu xin thi hành.” Chiếu: “Phạm Tổ Vũ dời đến Hóa Châu an trí, Lưu An Thế dời đến Mai Châu an trí, các con của Vương Nham Tẩu, Phạm Tổ Vũ, Lưu An Thế, Chu Quang Đình đều bị cách chức, vĩnh viễn không được bổ nhiệm.”
[84] Ban đầu, Lý Thanh Thần đóng dấu và gửi bản tấu trình về họ Minh nhưng không trình lên. Chương Đôn cùng An Đào, Trịnh Ung đều biết việc này. Ban đầu, Đôn và những người kia không nhận lỗi, đến khi bàn xong việc định tội Thanh Thần được hai ngày, Hoàng Lí mới một mình tâu rằng ba người kia cùng Thanh Thần đều là người có tội. Vua bèn ra lệnh tha tội. Đôn cũng không nói gì, chỉ sai dâng tờ tạ ơn việc được tha tội, mọi người đều cười nhạo. Hôm trước, Đôn ở lại trong cung rất lâu, sau đó mới dâng tờ tâu, mọi người không biết ông ta tâu những gì. Tăng Bố nói: “Hôm qua Đôn ra cửa tạ ơn, trong ngoài đều chê cười. Từ đời tổ tông đến nay, chưa từng có chuyện tể tướng được tha tội.” Vua nói: “Năm Nguyên Phong từng bị phạt đồng.” Bố nói: “Chỉ có năm Nguyên Phong từng bị phạt tiền, nghe nói lúc đó các quan chấp chính có tâu trình, cuối cùng cũng không bị phạt.” Vua hỏi: “Lúc đó vì việc gì?” Bố đáp: “Vì Bồ Tông Mạnh tự ý đóng dấu chi vật liệu tu sửa phủ Đông.” Vua nói: “Việc đó rất nhỏ, việc hôm nay rất lớn.” Bố nói: “Chính vì thế, đối với Đôn lại càng mất thể diện. Ban đầu không nhận lỗi, sau bị người khác chỉ trích, nói rằng cùng tội với Thanh Thần nhưng hình phạt khác nhau, cũng không tự tâu trình, lại còn sai người tạ ơn, điều đó càng không thể chấp nhận. Hơn nữa, việc này đâu phải Thanh Thần dám tự quyết, nếu không có lệnh của Đôn, Thanh Thần đâu dám đóng dấu gửi đi.” Hứa Tướng nói: “Trung thư có một tủ đóng dấu thật, phàm văn bản nào cần phải bàn bạc xong mới dám cho vào tủ. Chỉ có quan Trung thư ký tên trên nắp tủ mà thôi.” Vua nói: “Sách này nói có ý đồ như Tư Mã Chiêu, việc này không nhỏ, Thanh Thần đâu dám tự mình thu giữ, đây cũng là ý kiến chung, không có gì đáng nghi.” Bố nói: “Thái Kinh nhiều năm thi hành chưa xong, ý chính là ở Đôn đó.” Vua gật đầu.
(Việc Đôn ra cửa tạ ơn vào ngày Đinh Sửu tháng 8, lời của Bố nói vào ngày Mậu Dần, nay phụ chép vào đây.)
[85] Ngày Tân Mùi, ba tỉnh tâu rằng: Vương Vực, chức Nội điện thừa chế đã về hưu, dâng sớ nói: “Năm Nguyên Phong thứ tám, lâu chưa lập Thái tử, thần nghe Cao Tuân Dụ nói Vương Khuê gian tà, nhân gặp Hình Thứ kể lại lời ấy, Thứ liền đi gặp các Tể tướng. Nay triều đình đã truy giáng Khuê, ban tặng Tuân Dụ, chỉ riêng thần chưa từng được hưởng ân.” Chiếu cho Vương Vực làm chức Cung bị khố phó sứ, vẫn bỏ hưu trí. Vực và Thứ thực sự cùng mưu vu cáo việc Khuê phế lập, Thứ đã bị cách chức, Vực lại được thưởng.
(Ngày 5 tháng 9, Vương Củng, Tri Ninh Hóa quân, trong sách 《Giáp Thân tạp ký》 chép: Vũ thần Vương Vực bị Hình Thứ xúi giục dâng thư vu cáo Tuyên Nhân có ý khác với Triết Tông, cùng xúi giục Thái Vị dâng thư bàn việc từ chức cuối năm Nguyên Hựu và Nguyên Phong, cả một rương thư đều còn, đều là bút tích của Thứ, trong đó có nhiều chỗ tẩy xóa. Vực vào triều Triết Tông bàn việc này, được chức Cáp môn, sau khi chết, con là Trực Phương thường đem thư ấy cho người thân xem, từ cuối năm Nguyên Phong đến khi Tuyên Nhân băng hà, không ai không bị vu cáo, đặc biệt là Tổ Vũ và Vương Khuê. Thái Phiền, chức Phụng nghị, từng nói với Trực Phương rằng: “Dù nhà họ Vương có bán hết gia sản cũng mong có được những thư này.” Thái Thối Nhuận đi qua Cao Bưu kể lại với ta. Vương ở phía đông kinh thành, cạnh miếu Cửu Long, việc này nên chọn lọc chép thêm sau việc Vương Vực bỏ hưu trí. Vương Củng nói được chức Cáp môn, Thiệu Bá Ôn nói làm Tri Bắc Bình quân. Theo thực lục, ban đầu chỉ bỏ hưu trí, bổ làm Cung bị phó sứ, ngày 5 tháng 9 mới làm Tri Ninh Hóa quân, việc được chức Cáp môn là vào thời Nguyên Phong, có thể tra cứu trong sách của Tăng Bố, còn ghi chép của Củng và Bá Ôn đều không chi tiết.
Thiệu Bá Ôn trong 《Biện vu》 chép: Vương Vực người Kinh sư, có tài hùng biện, thích bàn luận, thời Hi Ninh, làm chức Tẩu mã thừa thụ ở Hi Hà lộ, về hưu, nhà giàu, thường lui tới nhà các công khanh, kết thân với Hình Thứ như đảng chết. Bá Ôn từng thấy Vương Vực, Thượng Chu, Lý Tuân ở nhà Thứ, đều là kẻ bịp bợm. Sau Chương Đôn nhân việc Thứ giao thiệp thân mật, bãi hưu trí của Vực, bổ làm Tri Bắc Bình quân. Ít lâu sau Vực chết, con là Trực Phương không đồng tình với cha, thường nói với sĩ đại phu rằng cha về già bị bệnh tâm thần. Trực Phương sau cũng chết, không có con, thân với Triều Tải Chi, đem hết sách vở tranh ảnh cả đời giao cho Tải Chi. Xem những sách vở tranh ảnh Trực Phương để lại, trong đó có một bức thư qua lại giữa Vương Vực và Hình Thứ, đều là cùng mưu vu cáo việc phế lập của mọi người.)
[86] Tả triều nghị đại phu trí sĩ Hàn Duy mất.
(Trước đó, ông được bổ nhiệm làm Sùng tín phó sứ, an trí ở Quân châu, khi Vua đến cung Duệ Thành, ông được phục chức Tả triều nghị đại phu.)
[87] Ngày Nhâm Thân, đêm, mây đen che kín bầu trời, đất rung chuyển, một lúc lâu sau mới dừng lại.
[88] Ngày Quý Dậu, Xu mật viện tâu: “Xin từ nay những người xin đầu quân làm hiệu dụng, theo chiếu chỉ tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8, cho Kinh lược ty thí nghiệm tài vũ rồi cấp giấy chứng nhận. Lệnh tháng 2 năm Nguyên Hựu thứ 7, cho các tướng tại chỗ thí nghiệm, hoặc do ty quân mã bảo minh, trình lên Kinh lược ty cấp giấy chứng nhận, xin bãi bỏ.” Vua đồng ý.
(Sách mới không ghi.)
[89] Kinh Nguyên lộ tấu rằng, Chiết Khả Thích ngày 18 xuất quân đánh dẹp, lại xây xong 4 đồn và 5 đài phong hỏa. Vua xuống chiếu ban thưởng đặc biệt cho binh lính tham gia chiến đấu.
(Theo sử ký của Tăng Bố ngày Quý Dậu, lại nói, Tôn Hàm Ninh theo quy định được tha bổng, Trương Nhược Nột bị cách chức, đều là người liên quan đến việc thất bại ở Lân Phủ năm Nguyên Hựu, việc này cần xem xét. Ngày 3 tháng 8 chém 500 người.)
[90] Trước đó, Vua nói với các quan chấp chính: “Văn thư của Bắc giới nên sớm gửi đi.” Tăng Bố nói: “Đã nhận chỉ dụ vào hạ tuần tháng 7, ngày 21 đã gửi xuống Hùng Châu rồi.” Đó là ngày Giáp Tý.
[91] Ngày Giáp Tuất, cùng trình báo biên giới, người Tây Hạ nói đã cầu hòa với Bắc giới, nhưng chưa nhận được hồi âm, đang chuẩn bị tập hợp quân. Vua hỏi văn thư hồi đáp của sứ Bắc giới đã gửi đi chưa? Tăng Bố nói: “Đã gửi rồi.” Vua lại hỏi khi nào trở về? Tăng Bố nói: “Trung tuần tháng 8.” Vua nói: “Có muộn không?” Tăng Bố nói: “Vài ngày cũng không đáng kể.”
(Có thể xem lại ngày Quý Dậu tháng 3.)
[92] Ngày Ất Hợi, Đại Lý tự tâu: “Những kẻ phạm tội cướp bóc ở những nơi áp dụng luật nghiêm khắc, nếu bị xử tử hình nhưng được giảm án do thiên tai hoặc giảm hình phạt, đều phải đày đến những nơi xa xôi hiểm ác; tội lưu đày đều phải đày đến Quảng Nam; tội đồ và tội lưu được giảm án hoặc giảm mức hình phạt, đều phải đày đi 3.000 dặm; nếu được tha, thì đày đi 500 dặm. Ngoài việc ban thưởng theo quy định, còn lấy tài sản của phạm nhân để làm phần thưởng, tội tử hình lấy toàn bộ, tội lưu lấy một nửa, tội đồ lấy một phần ba. Vợ con của họ đều bị quản thúc, tội tử hình quản thúc 1.000 dặm; tội lưu và tội tử hình được giảm án, hoặc giảm mức hình phạt do thiên tai, quản thúc 500 dặm; tội đồ và tội lưu giảm xuống thành tội đồ, quản thúc ở châu lân cận. Những kẻ phạm tội cướp bóc và vợ con của họ phải bị quản thúc hoặc đày đi, nếu gặp ân xá thì không được tha, nếu vợ con đã bị quản thúc mà gặp ân xá lần nữa, thì xử theo luật thường.” Được chấp thuận.
(Lược bỏ phần mới.)
- chữ 'hợp' nguyên là 'lệnh', theo nghĩa văn nên sửa thành 'hợp', do hình dạng gần giống mà sai, căn cứ vào bản các mà sửa. ↵
- hoặc tiến thẳng đến phía sau giặc, nơi có gia quyến, gia súc 'súc' nguyên là 'Súc', căn cứ vào bản trong các và văn trên sửa lại. ↵
- Chiếu lệnh các quan chức các lộ xem xét kỹ 'Chiếu' nguyên là 'triệu', theo chú thích và ý nghĩa văn bản sửa lại. ↵
- chữ 'tốc' nghi là 'tố', do âm gần nhau mà sai ↵
- Chữ 'Ba' trong 'Ba Nghi' nguyên bản là 'Dĩ', căn cứ theo bản trong các sách và đoạn văn sau 'Chiếu Trương Tuân, Ba Nghi xem xét việc Chung Truyền tâu số thủ cấp' mà sửa. ↵
- Vua nói Trương Tuân phải bãi chức, chữ 'truất' nguyên bản viết nhầm thành 'điểm', dựa theo bản trong các sách và văn bản dưới sửa lại. ↵
- Chiếu lệnh tiến cử người khác, chữ 'chiếu' nguyên bản viết nhầm thành 'triệu', dựa theo các bản sửa lại. ↵
- Chữ 'Tự' nguyên bản là 'Sự', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa ↵
- Thiểm Tây, Hà Đông lộ tân thành trại hợp chiêu cung tiễn thủ, chữ 'hợp' nguyên là 'lệnh', theo bản các sửa ↵
- Theo sắc luật hải hành gia pháp, bản các có thêm chữ 'đẳng' ↵
- Các bản chép có thêm chữ 'cận' trước chữ 'Triệu'. ↵
- Chữ 'tâu' nguyên bản bị thiếu, căn cứ vào bản trong các văn khố và ý nghĩa văn bản mà bổ sung ↵
- 《Ký cựu》 là lời của cha Tằng Bố do con là Tằng Phưởng ghi lại, chữ 'Phưởng' trong bản hiện nay của 《Nam du ký cựu》 viết là 'Thư', có lẽ là sai. ↵
- Ngày 30 tháng 12 đổi làm Thành Đô, chữ '30 ngày' trong các bản khác chép là '3 ngày'. ↵
- 'Sách' nghi là chữ 'nhi' ↵
- 'Kinh Tây' nguyên bản đảo ngược, xét thời Tống không có Tây Kinh lộ, nên là Kinh Tây lộ, nay sửa lại ↵
- 'Bản' nguyên bản là 'Thuỷ', theo các bản khác sửa lại ↵
- 'Tự' nguyên bản là 'Sự', theo các bản khác sửa lại ↵
- chữ 'tằng' nguyên bản thiếu, theo các bản khác và ý văn mà bổ sung ↵