VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 503: NĂM NGUYÊN PHÙ THỨ NHẤT (MẬU DẦN, 1098)
Bắt đầu từ tháng 10 năm Nguyên Phù thứ nhất đời Triết Tông đến hết tháng đó.
[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Ất Hợi, mùng một, ba tỉnh tâu: “Gần đây nước lụt tràn vào giải trì, muối bị thiệt hại ít nhiều, lo ngại dân chúng thiếu dùng. Muối từ tiểu trì ở Hà Trung phủ, Giải châu[1], muối đất tư ở các châu Thương, Hoa[2], muối đá ở Giai châu, muối giếng quan ở Thông Viễn quân, Dân châu, đều cho phép bán cùng với muối Giải ở Thiểm Tây lộ.” Lại tâu: “Giải châu diêm trì bị nước lụt tràn vào, Tri châu Lưu Phỉ, Thông phán Lưu Công Minh đều bị cách chức, lệnh bắt tội tâu lên. Xin không được tha thứ trong tương lai.” Đều theo lời tâu.
(Ngày 26 tháng giêng năm sau, sai quan đến tế.)
[2] Hùng châu tâu: “Khiết Đan mới đặt châu Ngụy, muốn dời một nghìn hộ thượng đẳng đến đó[3]. Tể tướng Vương Sư Nho cho là không nên, hết sức can ngăn nhưng không được nghe, lui về tự đâm vào bụng, nhờ tả hữu cứu giúp, chỉ bị thương nhẹ. Chúa Khiết Đan vội nghe theo lời ông, lại ban ba nghìn quan tiền để an ủi, thăng ba chức[4].”
[3] Ngày Bính Tý, Tăng Bố tâu với Vua: “Việc phương Bắc hư thực[5], tuy chưa thể biết rõ, nhưng nếu tể tướng của giặc biết lo cho dân, can ngăn mạnh mẽ như vậy, mà chúa Khiết Đan nghe theo, lại ban vàng thăng chức, tình cảm quân thần như thế, dù ở Trung Quốc cũng rất khó được.” Vua im lặng.
[4] Chiếu rằng: “Các quan phiên mới quy phụ ở các lộ, mỗi tháng đều được cấp riêng lương tháng[6]. Từ chức tá trở xuống, theo lệ của điện thị hạ ban; từ chức phụng trở lên đến chức cung phụng, theo lệ của điện thị ban trà tửu, đợi khi thăng đến chức sùng ban thì ngừng cấp.”
[5] Xu mật viện tâu: “Việc xây dựng thành trại ở Thiển Tỉnh, Ngõa Hòa Thị so với việc xây dựng từ Thanh Nam Nột Tâm, Hoành Thủy Lan, Đông Lãnh Mâu, cùng với việc xây dựng từ Đãng Khương ở Kinh Nguyên lộ đến Ngạch Lặc Sắc Khắc, Nam Mâu Hội, thông suốt biên giới, tức là việc xa gần, nhanh chậm và chi phí tiền lương, binh mã, sức lực đều khác xa nhau. Do đó, đã ban chỉ huy, lệnh cho Chương Tiết, Tôn Lộ xem xét hai lộ từ Thiên Đô và Thanh Nam Nột Tâm trở đi xây dựng thành trại thông suốt biên giới. Nay có người bàn rằng nếu không xây dựng Thiển Tỉnh trước, thì các nơi thung lũng, đường đi của quân giặc không nhất định. Tức là chưa rõ khi hai lộ theo chỉ huy trước đó cùng nhau xây dựng, liệu còn có đường nào khác để quân giặc có thể vào sâu gây rối. Triều đình đối với những nơi cần xây dựng cũng không cố định, hoàn toàn trông cậy vào hai lộ suý thần.” Chiếu lệnh Chương Tiết, Tôn Lộ xem xét kỹ lưỡng các chỉ dụ đã ban và những vấn đề hiện tại, cùng nhau bàn bạc thứ tự xây dựng của hai lộ. Nếu hợp lệ theo chỉ dụ trước, thì cần tính toán thời gian huy động binh mã từ Hoàn Khánh, Tần Phượng lộ, từng bước xây dựng, vạch rõ lợi hại, kết tội bảo đảm, tâu lên. (Chương Tiết tấu nghị ghi chép việc này, nay trích dẫn để tham khảo.) Tăng Bố nói: “Trương Hành, Lý Thâm đều kiên quyết cho rằng nếu không xây dựng Thiển Tỉnh, thì Thiên Đô, Thanh Nam Nột Tâm đều chưa thể xây dựng, và cho rằng lời người biên giới đều như vậy, nhưng suý thần vì Chung Truyền bị trách nên không dám tâu. Tuy không thể hoàn toàn tin tưởng, nhưng cũng không thể không xem xét lời họ. Muốn hạ lệnh cho hai suý xem xét, nhưng Chương Đôn kiên quyết cho rằng không cần hỏi, lại đưa thư của Trương Tuân nói không cần bàn.” Vua cho rằng lời Tăng Bố là đúng, bèn ban chiếu này.
[6] Lại có chiếu rằng: Tiền thuê nhân công tu sửa thành trì và bảo giáp ở phủ Tần Phượng, các lộ khác đều theo đó mà thi hành.
[7] Kinh Nguyên tâu rằng: Các quan từ Cung phụng trở xuống mới quy thuận nhà Hán, xin cấp lương tháng như chức Điện thị. Vua đồng ý.
[8] Ngày Đinh Sửu, Hữu ty Viên ngoại lang Tăng Mân và các quan tâu rằng: “Xét theo chức vụ của Đại tông bá trong 《Chu Lễ》, dùng lễ nhân để tế Trời, dùng lễ thực sài để tế mặt trời, mặt trăng và các vì sao, dùng lễ dửu liệu để tế Ty Trung, Ty Mệnh, Phong Bá, Vũ Sư. Lại xét chức vụ của Tứ sư, lập đại tế thì dùng ngọc lụa và sinh toàn; lập thứ tế thì dùng sinh và lụa; lập tiểu tế thì dùng sinh. Vì thế, các bậc tiên nho cho rằng: Lễ thực sài tế không dùng ngọc, lễ dửu liệu tế không dùng lụa. Xét theo lệnh thức của Thái thường, 360 vị sao đều không dùng lụa, có lẽ xuất phát từ ý nghĩa lễ dửu liệu không dùng lụa. Tuy nhiên, thần tra cứu chức quan Điển thụy và Ngọc nhân, đều nói: ‘Dùng khuê và lụa để tế mặt trời, mặt trăng và các vì sao’. Như vậy, lễ thực sài tế không phải là không dùng ngọc. Còn việc lễ dửu liệu không dùng lụa, e rằng chưa hẳn đúng. Xin giao cho các cơ quan hữu trách khảo cứu, để phù hợp với ý chỉ của bệ hạ là tôn kính trăm thần.” Lễ bộ và Thái thường tự xem xét kỹ, theo 《Giao Tự Lục》 của Vương Kinh, phàm lụa tế thần, từ Ngũ tinh trở xuống đều tùy theo màu sắc phương vị, dài một trượng tám thước. Lại xét nghi thức tế tự của triều đình, tiểu tế đều dùng lụa, chỉ có nghi thức tế tự của nhà Vua, từ Thiên hoàng đại đế trở xuống đều là tòng tế, lụa tế mặt trời màu đỏ, mặt trăng màu trắng, Ngũ đế và các cung trong nội đình trở xuống đều tùy theo màu sắc phương vị, đều dài một trượng tám thước. Chỉ có ngoài vòng nội duy, 360 vị sao không ghi chép về việc dùng lụa. Nay xin theo lời tâu, tùy theo màu sắc phương vị mà dùng lụa.
[9] Lại tâu: “Kính xét điển lễ, dùng mùi hương để thờ thần, bắt đầu từ thời Chu. Đến thời cận đại, đổi dùng hương. Kính xét theo nghị bàn của tiên nho Hà Đông Chi, cho rằng Nam Giao, Minh Đường dùng trầm hương, vốn là chất của trời, hợp với dương; Bắc Giao dùng thượng hòa hương, vì đất gần gũi với người[7], nên thêm các mùi thơm khác. Sách chí về tế tự đời trước thực có ghi chép điều này. Nay theo lệnh văn, từ Bắc Cực Thiên Hoàng trở xuống đều dùng hương ướt, còn các vị sao thì không đặt hương, thần e rằng chưa hợp với nghĩa lý.” Lễ bộ cùng Thái thường tự xét kỹ, ngoài vòng trong đàn, có 360 vị sao, muốn theo như các vị thần được thờ phối hưởng trong đàn, mỗi bậc đặt một lư hương, mỗi lư dùng 4 lạng hương ướt.
[10] Lại có lời tâu rằng: “Các quan phân hiến, quan tế lễ và người tán tụng ở đàn Giao, tổng cộng hơn hai trăm người, đều đứng sau tiểu thứ, mỗi khi có việc lên xuống, phần nhiều đi qua trước mặt hoàng đế, đi lại lộn xộn, không được nghiêm trang. Xin hạ lệnh bàn bạc, định thành chế độ.” Lễ bộ cùng Thái thường tự xem xét kỹ, theo lễ Giao thời Nguyên Phong, đặt các quan phân hiến ở phía sau các quan công khanh ngoài cửa Đông nội duy, xếp thành hàng, hướng Tây, đứng đầu phía Bắc. Khi hoàng đế đến vị trí lạy hai lần, họ cũng lạy theo; khi nhạc giáng thần dừng, họ lại lạy theo. Khi hoàng đế sắp dâng lễ vật tế đế, các lễ sinh dẫn các quan phân hiến cầm ngọc bạch lên đàn[8], dâng lễ vật lên các vị thần trên dưới xong, lại dẫn họ trở về vị trí. Ban đầu, khi á hiến sắp lên, các lễ sinh dẫn các quan hiến tế cùng đến chỗ rửa tay, mỗi người theo bậc thang của mình dâng lễ xong, đều trở về vị trí. Đây là thi hành theo điển cũ đã được chấp thuận. Đến thời Nguyên Hựu, chỉ vì hoàng đế lên đàn, người tán tụng dẫn các quan phân hiến đi lại, không được yên tĩnh, nên định ra chế độ lên đàn trước, điều này rõ ràng không hợp với nghĩa lễ. Nay muốn theo nghi thức cũ thời Nguyên Phong, định thành chế độ. Được chấp thuận. (Chế độ lên đàn trước là định vào năm nào, cần tra cứu.) Lễ bộ tâu rằng đã xem xét kỹ việc dùng hương và lễ vật tế các vì sao ở đàn Giao, và bãi bỏ việc các quan phân hiến lên đàn trước, khôi phục nghi thức cũ thời Nguyên Phong. Được chấp thuận.
(Thực lục trước chép “Lễ bộ tâu rằng đã xem xét kỹ việc dùng hương và lễ vật tế các vì sao ở đàn Giao, xin theo chế độ cũ thời Nguyên Phong”. Lại chép “Tả ty viên ngoại lang Tăng Mân v.v…” cho đến “được chấp thuận”, lại chép “đó là khôi phục nghi thức cũ của tiên đế”. Xét việc Lễ bộ xem xét kỹ gồm ba việc: dùng hương và lễ vật tế các vì sao là việc thứ hai; bãi bỏ việc các quan phân hiến lên đàn trước, theo nghi thức cũ thời Nguyên Phong là việc thứ ba. Thực lục có lẽ đã bỏ sót việc thứ ba. Nay sửa lại là Lễ bộ xem xét kỹ việc dùng hương và lễ vật tế các vì sao ở đàn Giao, và việc các quan phân hiến lên đàn trước, khôi phục chế độ cũ thời Nguyên Phong; được chấp thuận. Đã tổng hợp rõ việc này, thì những điều Tăng Mân v.v… tâu xin tự nhiên phải bỏ, nhưng tạm giữ lại.)
[11] Chiếu rằng từ nay về sau, ở điện Ngọc Hư trong cung, theo như điện Linh Lị và đàn Khâm Thiên, mỗi khi gặp các tiết Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí, ngày sinh của hoàng đế (Hưng Long tiết), ngày Nguyên Đán, ngày Đoan Ngọ, thì hai ngày trước đó, các nơi thuộc quyền phải tu sửa và soạn biểu văn, cử sứ thần đến dâng lên.
(Theo《Tăng Bố Nguyên Phù Tam Niên Nhật Lục》chép: Tháng hai, ngày Tân Dậu, Vua dụ rằng: “Việc tu tạo trong cung, trang hoàng quá xa hoa, tường vách, cột kèo đều sơn son thếp vàng, lông chim xanh biếc, giống hệt như đồ trang sức; lại còn xây điện Ngọc Hư, càng lộng lẫy hơn nữa.” Lại nói: “Nhân Tông từng làm một bảo tọa, bàn luận cho là quá xa hoa, bèn đem đặt ở chùa Tướng Quốc. Nay không thể so sánh được, người ngoài làm sao biết được? Trâu Hạo cũng từng bàn luận việc này.” Tôi nói: “Trong cung đất chật, điện Ngọc Hư thật không cần xây, những chỗ khác cũng nhiều chỗ không biết. Nhưng từng theo xa giá đến Bắc Giao, được tuyên vào ban trà. Hôm sau, Đại Hành dụ rằng: ‘Hôm qua đã xem hết cung điện Bắc Giao, chỉ là vẽ màu tinh xảo hơn nơi khác[9], người ngoài nói rằng đã dùng bao nhiêu vàng.'” Vua nói: “Nơi ban trà là hậu điện, trước điện có dòng nước chảy quanh co và đình tạ, đều là vàng ngọc, cũng giống như đồ trang sức. Trâu Hạo dám nói, không gì không bàn, nên triệu về.” Tôi nhiều lần khen ngợi.)
[12] Tuyên Đức lang Tả Phu được bổ làm Giám sát ngự sử, do Trung thừa An Đôn tiến cử.
[13] Ngày Mậu Dần, Lễ bộ tâu rằng trước đây theo tờ trát của Xu mật viện, từ năm Nguyên Phù thứ nhất, lịch nhật của nước Hạ không còn ban cấp nữa. Chiếu rằng không cấp nữa, đợi khi việc biên giới xong sẽ xin chỉ.
[14] Kinh lược sứ Phu Diên lộ Lữ Huệ Khanh tâu: “Đem quân vào địa giới, hoặc nhận hàng, hoặc đánh giết, đều do tướng quân tùy cơ xử trí. Nếu ở trận tiền bắt được dân chúng, không ưu đãi ban ơn, e rằng sau này khi tiến đánh, họ sẽ không chịu đầu hàng, khiến cho các bộ tộc đều trở thành kẻ thù, không chịu quy thuận. Xin rằng đối với dân chúng bắt được ở trận tiền khi xuất quân, ngoài việc theo chiếu chỉ ngày mùng một tháng giêng năm Thiệu Thánh thứ 4, cấp cho mỗi người 10 tấm lụa đối với người già, trẻ nhỏ và phụ nữ được tha mạng, thì cứ 5 người tính thành một cấp để thăng chức, không cấp thêm phần thưởng khác. Đối với trai tráng đầu hàng, mỗi người được ban ơn theo lệ chém giết. Đối với dân chúng được người đi chiêu dụ về với nhà Hán, trước thông báo tin tức, dùng quân mã đón ở biên giới, chỉ thi hành theo chiếu chỉ chiêu nạp.” Được chấp thuận. Các lộ đều theo đó.
(Chiếu chỉ ngày mùng một tháng giêng năm Thiệu Thánh thứ 4, không thấy ghi trong ngày tháng này, vì chiếu chỉ không đưa vào Trường biên. Ngày 9 tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ 3, Ất Mùi, Tăng Bố có nói…, có thể tham khảo.)
[15] Ngày Kỷ Mão, Kinh lược sứ Lữ Huệ Khanh của Phu Diên lộ tâu rằng, đã lệnh cho Thống chế quan Lưu An và Trương Cương dẫn quân ra khỏi biên giới để đánh dẹp, chém được thủ cấp, và khuất phục được nhân khẩu. Chiếu ban cho Huệ Khanh và các quan dưới quyền được ban thưởng bạc, trà, thuốc theo thứ bậc; quân lính ra khỏi biên giới được ban thưởng tiền theo mức khác nhau; các tướng sĩ lập công, lệnh cho cơ quan xét thực tình hình, bảo đảm rõ ràng rồi tâu lên.
(Theo 《Lữ Huệ Khanh gia truyền》: Tháng 9, sai Kiềm hạt Lưu An dẫn Đệ tứ tướng; Đô giám Trương Cương dẫn Đệ tam tướng, Đệ ngũ tướng, Đệ lục tướng, Đệ thất tướng ra khỏi biên giới. Ngày 23, An đến Lương Thánh Đài, đánh bại tướng giặc Bố Sấm, chém được hơn 300 thủ cấp, chiêu hàng hơn 600 người. Ngày 24, Cương đến Bạch Địa, đại phá 5.000 kỵ binh của Ngôi Danh Đặc Khắc Tế Sa, truy kích đến Luyện Châu thành, chém được hơn 1.000 thủ cấp, thu được vũ khí, ngựa trâu kể hàng vạn. Sau khi trở về, An lại dẫn 1.800 kỵ binh tinh nhuệ đi đánh dẹp dòng họ Điền, chém được 1.649 thủ cấp; Cương cũng dẫn các tướng đến Kỳ Tiển Bạc[10], chém được 700 thủ cấp. Lúc đó, giặc dùng trọng binh đánh Kinh Nguyên[11], sau đó có người đầu hàng nói rằng quân giặc nghe tin An đi đánh dẹp, không còn chí chiến đấu, nên giải vây Bình Hạ. Triều đình cho rằng có công kìm chế giặc, ban thưởng 300 lạng bạc, 300 tấm lụa; lại ban chiếu thư khen ngợi.)
[16] Lại có chiếu bãi chức Tẩu mã thừa thụ Doãn Trạch của Phu Diên lộ và Lưu Kham của Cao Dương Quan lộ, lệnh cho Lại bộ chọn người khác thay thế.
(Theo 《Bố lục》, ngày mồng 7 và mồng 8 cần xét lại. Trạch xin mở rộng Bình Nhung trại, Vua nói rằng tài năng bình thường, nên bãi chức cả Kham.)
[17] Ngày hôm đó, giặc phương Tây tấn công và bao vây thành Bình Hạ, tổng cộng 13 ngày mới rút lui.
(Chi tiết này dựa theo tấu chương của Chương Tiết vào ngày 10 tháng 2 năm Nguyên Phù thứ 2, bảo đảm rằng Phó tướng thứ 11 Khấu Sĩ Nguyên đã dùng mưu kế khiến giặc kinh ngạc và nghi ngờ, xin ban thưởng ưu đãi, được thêm vào. Chi tiết cụ thể xem ngày 25. Theo chiếu chỉ ngày 2 tháng 9 năm Tuyên Hòa thứ nhất, Kinh Nguyên Liêm phóng Vương Hiếu Kiệt tấu rằng tướng thứ 10 Quách Thành kiên cố phòng thủ, giặc rút lui, bèn truy kích và đánh bại chúng.)
[18] Ngày Canh Thìn, Đại Lý tự tâu: “Các châu huyện thuộc Sát phỏng ty nếu không nằm trên đường chính và không có việc gì để sát cử, thì cho phép không cần đi khắp nơi. Nếu đã qua Giám ty hoặc cơ quan chuyên trách tổng lĩnh mà xử lý không đúng, hoặc bỏ sót việc sát cử, thì cho phép sát cử. Việc nhỏ thì gửi văn bản yêu cầu cơ quan đó sửa đổi, việc lớn thì báo lên, nếu liên quan đến tình trạng tham nhũng thì trình lên Thượng thư tỉnh, giao cho quan chức lân lộ xử lý. Nếu lân lộ thuộc phạm vi Sát phỏng ty thì cho phép gửi văn bản trực tiếp, nếu liên quan đến quan chức được bổ nhiệm thì phải tâu trình.” Được chấp thuận.
[19] Hôm đó, ba viện cùng dâng tấu chương của Trương Tuân: đã chỉ huy Vương Thiệm và những người khác, không kết ước với thủ lĩnh Tây Phiên để tấn công Hạt Chinh, mỗi người đều lệnh giữ yên tĩnh và bảo vệ biên giới. Mọi người nói rằng như vậy, tức là những hành động trước đây đã sai lầm. Tăng Bố lại nói: “Từ khi có việc biên giới, thần đã nói rằng đang thù địch với Tây Khương, Khiết Đan và Thanh Đường không thể để họ gây chuyện. Một phương nhỏ có động, tức là lực lượng không đủ để chống đỡ, hơn nữa việc biên giới cần nhanh chóng có kế hoạch thu liễm. Kẻ địch phương Bắc từ khi Nguyên Hạo xâm phạm biên giới, đã thân chinh đến Yên Kinh, dời quân đến gần biên giới để uy hiếp. Nay tuy chưa dám làm như vậy, nhưng nếu thấy Tây Hạ có dấu hiệu cùng khốn diệt vong, thế tất sẽ hành động. Thần vì vậy muốn tu sửa Hi Hà, Kinh Nguyên, trong thời gian ngắn có kế hoạch nghỉ ngơi, tức là họ không có cơ hội để hành động, sao có thể tự gây chuyện? Nếu chỉ có Thanh Đường có động, thì việc biên giới đã lâm vào cảnh khó khăn. Hành động của Trương Tuân đáng bị trách phạt.” Hoàng đế rất tán thành, lệnh lưu lại chờ đợi.
(Ngày 27 tháng 8 đã sai Tôn Lộ làm Tri Hi Châu, ngày 22 tháng 3 năm sau bị trách phạt.)
[20] Ngày Tân Tỵ, ba viện tâu rằng Lại bộ và Công bộ trình bày: hai viên chủ bạ của Tướng tác giám[12], xin cho một viên đã đến nhậm chức được đổi làm quan câu đương công sự, đợi khi thành tựu thì thay thế. Được chấp thuận, từ nay về sau lệnh cho giám này cử một viên quan kinh triều để đảm nhiệm.
[21] Thị lang Hộ bộ Ngu Sách và những người khác tâu: “Pháp dịch và quy chế nha môn các lộ đã được thi hành thành nếp, nếu lại từng việc xin chỉ dụ để thi hành, rõ ràng là phiền phức. Xin đều theo pháp cũ thời Nguyên Phong, ty đề cử báo danh sách người làm dịch và tiền thuê giấy bút, cùng những việc tăng giảm và thay đổi về ưu đãi nha tiền, Hộ bộ xem xét chỉ huy xong, mỗi quý tâu lên; nếu việc lớn hơn, thì tâu xin quyết định.” Được chấp thuận.
(Sách mới không có.)
[22] Chiếu rằng: “Từ nay về sau, các lộ nếu thiếu chức Tẩu mã thừa thụ sứ thần, thì đem người do Lại bộ tuyển chọn đến, triệu về Xu mật viện để xét duyệt lại. Mỗi lộ chọn hai người làm sứ thần, lệnh cho Nhập nội nội thị tỉnh dẫn vào yết kiến để nhận chỉ, quyết định bổ nhiệm một người.”
(Cùng với ngày mồng 8, mồng 5, ngày Nhâm Thân 22 tháng 11 năm Thiệu Thánh thứ 4, Xu mật viện nói thế, có thể tham khảo.)
[23] Ngày Nhâm Ngọ, Triều phụng đại phu Vương Tổ Đạo được bổ làm Hộ bộ viên ngoại lang, vẫn lệnh cho Cáp môn dẫn vào yết kiến lên điện.
(Tổ Đạo, người Phúc Châu, năm Đại Quan thứ 2 tháng 10 có ghi chép.)
[24] Chư vương phủ Dực thiện Chu Phất được bổ làm Đô quan viên ngoại lang.
[25] Xu mật viện tâu rằng, giặc Tây điểm tập đại binh, đóng ở gần biên giới Kinh Nguyên, đã lâu chưa thấy xuất hiện, e rằng sẽ gây họa ở nơi khác. Chiếu rằng: “Các lộ Thiểm Tây, Hà Đông kinh lược ty phải thăm dò cẩn thận, chuẩn bị đề phòng. Các lộ lân cận, ngoài việc theo quy định hỗ trợ và kiềm chế, nếu giặc ngựa gây họa ở lộ Tần Phượng, thì Hi Hà, Kinh Nguyên phải xem xét tình hình giặc, chọn tướng điều binh, chọn thời cơ thuận lợi, hoặc đánh vào hai bên, hoặc đánh vào hậu quân, do thám quân lương và hậu cần, dùng tinh binh đánh úp, nhất định phải khiến giặc Tây có nỗi lo phải quay đầu, không thể tiến sâu và ở lại lâu, gây họa biên giới, không được sợ hãi trốn tránh hoặc hành động khinh suất. Nếu giặc ngựa vào lộ khác, các lộ lân cận cũng làm theo cách này. Nếu chậm trễ, sẽ bị xử phạt nghiêm khắc.”
(Theo《Bố lục》: Ngày Tân Tỵ, cùng trình báo biên cương. Từ tháng 3, Kinh Nguyên báo rằng, ngày 25 tháng 9, quân lính bị bắt trốn về nói “Từ trước quân đến, người Khương điểm binh 150 vạn, ở phía bắc Thiên Đô, cách trại Đãng Khương 50 dặm”, đến ngày 29 vẫn chưa thấy động tĩnh, không biết ý đồ gì. Có người nói trong nước loạn, các thủ lĩnh bị giết; có người nghi rằng chúng giả vờ ở Kinh Nguyên, rồi đánh vào nơi khác không phòng bị; có người nghi rằng chúng khốn đốn, không thể hành động. Nhưng đều chưa biết rõ sự thật. Vua cũng rất nghi ngờ, nhiều lần hỏi về việc này, bèn hạ chỉ, lệnh các lộ phòng bị nghiêm ngặt, và đánh vào hai bên hoặc hậu quân của chúng. Ngày Bính Tuất, cùng trình báo Kinh Nguyên về việc quân Khương xâm phạm biên giới, từ tháng 9 do thám báo rằng chúng điểm tập đại binh, sau đó quân lính bị bắt trốn về nói “Ngày 25, địch binh 150 vạn, cách trại Đãng Khương 50 dặm đóng quân”, khoảng 10 ngày sau mới hành động. Chúng bao vây 6 thành trại Đãng Khương, Thông Hạp, Bình Hạ, Linh Bình, Cao Bình, Cửu Dương, khoảng 30 vạn quân. Chương Tiết, tướng lộ Vị, gửi thư nói: “Giặc không đến thì thôi, đến thì chắc chắn mắc mưu ta.” Bèn trình lên Vua[13], rằng: “Thần dám tự nhận, giặc này chắc chắn không làm gì được.” Ngày 25 Kỷ Hợi, thưởng công.)
[26] Chiếu rằng từ nay Lại bộ đã trình lên danh sách tuyển chọn các sứ thần Tẩu mã thừa thụ, nếu sau này có chỗ khuyết, những người trước đây bị loại cũng được phép tuyển lại. (Cùng ngày mồng 7 và mồng 5).
[27] Cơ quan Tường định nhất ty sắc lệnh tâu rằng: “Những người góa vợ, góa chồng, cô đơn, nghèo khó không thể tự nuôi sống được, các quan Tri châu, Thông phán, Huyện lệnh và các phụ tá phải xác minh thực tế, do quan phủ lo việc nuôi dưỡng; người bệnh tật thì cấp thuốc men. Các Giám ty khi đi kiểm tra phải xem xét kỹ, những người cần được nuôi dưỡng thì cho ở nhà của những hộ tuyệt tự, nếu không có nhà tuyệt tự thì cho ở nhà quan; và lấy tài sản của những hộ tuyệt tự để chi phí, không hạn chế thời gian, theo phép khất cái mà cấp gạo đậu, nếu thiếu thì lấy tiền lãi thường bình để bù. Những người đã được nuôi dưỡng mà có thể tự nuôi sống được thì ngừng.” Triều đình đồng ý.
[28] Ngày Quý Mùi, chiếu rằng các tượng thần liêu ở Hội Thánh cung đều phải dỡ bỏ.
[29] Phó Tiếp, Thị giảng các vương phủ, được bổ làm Dực thiện các vương phủ; Hà Chấp Trung, Ký thất tham quân, được bổ làm Thị giảng các vương phủ; Từ Tích, Giáo thụ viện Quảng Lăng quận vương, được bổ làm Ký thất tham quân các vương phủ; Hàn Trị, Hiệu lý Bí các, Tri châu Hình Châu, được bổ làm Đề điểm hình ngục lộ Kinh Tây.
[30] Ngày Ất Dậu[14], Tôn Ngu Đinh, Câu đương công sự ty Chuyển vận Thiểm Tây, tâu rằng: “Theo chiếu, khi xa giá đến Duệ Thành cung, các quan cung đình triều trước, mỗi nhà được ban 300 lượng bạc và lụa. Thần nghĩ rằng tiên thần Tư Cung, so với các thần khác, phục vụ lâu năm nhất, thần xin trả lại số bạc lụa được ban, xin theo lệ gần đây của Vương Đào, được cấp một ngôi chùa bỏ hoang dưới quyền Nam Kinh để làm chùa giữ mộ cho tiên thần, theo lệ hai năm cấp một đồng tử.” Chiếu rằng không cho trả lại vật ban, đặc cách cho theo lệ chỉ định một ngôi chùa gần đó, mỗi ba năm cấp một đồng tử.
[31] Xu mật viện tấu: “Nhiều lần nhận được tin báo, giặc phương Tây đóng quân lâu ngày ở vùng biên giới gần Kinh Nguyên, chưa thấy xuất hiện. Nếu trước khi đất chưa đóng băng, đã thấy quân mã rút lui, thì đường Kinh Nguyên có thể nhân cơ hội này, tiến hành xây dựng đồn lũy ở con đường giữa Ngạch Lặc Sắc Khắc.” Chiếu lệnh Chương Tiết, Tôn Lộ xem xét kỹ và nhanh chóng hành động, nếu quả thật quân mã đã rút, đất chưa đóng băng, và xét thấy có đủ khả năng để tiến hành, thì lập tức tiến hành xây dựng. Nếu cần thêm quân mã từ các đường lân cận hỗ trợ, thì Kinh Nguyên sẽ điều động 3.000 kỵ binh trong số 10.000 quân từ đường Hoàn Khánh, còn lại theo chỉ huy trước đây. Trước tiên phải tâu trình việc xem xét có thể tiến hành hay không.”
(Chương Tiết có tấu nghị về việc này, nay chép lại để tham khảo. Sách 《Bố Lục》 chép: Chiếu lệnh Chương Tiết, Tôn Lộ xây dựng thành trại trước và sau khi đất chưa đóng băng.)
[32] Ngày Bính Tuất, Hi Hà tấu: “Nhân Đa Sở Thanh quy thuận nhà Hán, mang theo hơn 40 người trong gia đình. Những vật mang theo như mũ áo, đồ chơi, yên cương đều khác với người Khương. Ông ta nói rằng mình từng làm Ngự sử trung thừa ở phương Tây, chức vụ dưới Tể tướng và Xu mật. Cha là (Khẩu Lăng) Đinh đã chết, cháu là Bảo Tông thay làm Thống quân, Sở Thanh tuy chức cao nhưng không được thống lĩnh quân mã nên về hàng. Ông ta mang theo 200 lạng vàng sống, cùng nhiều vật phẩm khác, như trướng rồng hổ.”
(Sách 《Bố Lục》 chép ngày Bính Tuất.)
[33] Chiếu lệnh Hi Hà cử quan võ và sứ thần áp giải Nhân Đa Sở Thanh về kinh.
(Sách 《Bố Lục》 chép ngày Quý Tỵ, nay gộp vào.)
[34] Ngày Đinh Hợi, Hộ bộ Thị lang Ngu Sách tâu: “Pháp Thị dịch được lập từ triều trước, ý nghĩa ban đầu rất tốt. Các quan lại ở bản vụ nếu có ai dám vi phạm, xin cho Hộ bộ tấu hặc và Ngự sử đài giám sát, đàn hặc.” Được chấp thuận.
[35] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu rằng, Lữ Ôn Khanh, quan sát sứ đi tuần tra ở Hoài Nam, Lưỡng Chiết, đã nhờ Lữ Chấn, tri huyện Giang Đô, mua đất của dân trong huyện. Thần từng tâu xin chọn quan điều tra, nhưng đến nay chưa nhận được chỉ dụ. Chiếu cho Triều thỉnh lang Tăng Trấn đến Dương Châu lập ty xét hỏi.
[36] Tuyên giáo lang Trương Cự được bổ làm Chính tự.
[37] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội tâu rằng, thủ lĩnh lớn quy phụ xin được gia phong chức vụ. Chiếu rằng: “Lữ Vĩnh Tín làm Cam Châu đoàn luyện sứ, kiêm Đô tuần kiểm kiềm hạt các bộ phiên ở vùng Lương Châu, đợi ngày vào yết kiến sẽ ban ấn tín, áo đối, đai vàng, ngựa yên cương. Vợ là Lâm Sấm Cách phong làm Hội Ninh quận quân, đợi ngày vào yết kiến sẽ ban mũ áo. Con trai là Sở Thanh làm Tây đầu cung phụng quan, ban tên là Lương Tự. Tô Sấm Định Mã làm Cung bị khố phó sứ, kiêm Tuần kiểm các bộ phiên ở vùng Hữu sương Trác La.”
(Việc này trong thực lục ghi chép không rõ, sách Thanh Đường, Lũng Hữu lục cũng không có. Theo nhật lục của Tăng Bố, Lữ Vĩnh Tín chính là Nhân Đa Sở Thanh. Bố nói, Hi Hà tâu rằng Nhân Đa Sở Thanh tuy chức cao nhưng không được thống lĩnh quân mã, nên đến quy phụ. Mang theo 200 lạng vàng sống, cùng nhiều vật phẩm khác, có cả trướng rồng, xin được bổ nhiệm ưu đãi. Được chỉ, bổ làm Cam Châu đoàn luyện sứ, Đô tuần kiểm sứ vùng Hữu sương Trác La. Khác với thực lục, cần xem xét thêm.)
[38] Hoàn Khánh tâu, phái Chủng Phác đi ứng cứu Kinh Nguyên.
(Theo nhật lục của Bố, ngày Đinh Hợi.)
[39] Ngày Mậu Tý, chiếu cho Tần Phượng khẩn trương phái binh tướng ứng cứu Kinh Nguyên.
(Theo nhật lục của Bố, ngày Mậu Tý.)
[40] Phụng nghị lang, quyền tri Thiểm Châu Mã Thành bị giáng làm Thông trực lang, vì thời Nguyên Hựu từng nói việc thời Nguyên Phong bị ép tội nặng, nên bị trách phạt.
(Theo lời Trâu Hạo.)
[41] Cơ quan xét lại tố cáo tâu rằng: “Các quan thời Nguyên Hựu xin gia hạn thời gian xét tố cáo, để những người oan khuất được minh oan, nhằm mở rộng ân đức của thánh thượng, cảm hóa khí hòa. Xét lời tâu này không thuận với triều đại trước.” Chiếu giáng Vương Địch làm Đỉnh Châu đoàn luyện phó sứ, an trí ở Lễ Châu.
[42] Hộ bộ tâu: “Nếu bắt được trà tư mạt và trà pha trộn, mà không bắt được phạm nhân chính, xin theo pháp xử trà tư lạp bắt được phạm nhân, ước tính giá trị để bồi thường[15]. Trong số trà pha trộn cần phải hủy bỏ, nếu mỗi cân có bắt được vật bỏ đi mang theo, thì tính giá trị để sung vào tiền thưởng, số dư nộp vào quan; nếu không có hoặc không đủ, thì đợi khi bắt được phạm nhân, truy thu để hoàn lại quan.” Vua nghe theo.
[43] Công bộ tâu: “Nếu ở những chỗ tối trên sông Kim Thủy mà tự ý đào bới, hoặc đặt vật nặng, thì mỗi người đều bị đánh 80 trượng. Nếu lén dẫn nước sông để dùng riêng, cho phép người tố cáo, và quân tuần, người coi giữ bắt được, mỗi người được thưởng 3 quan tiền, lấy từ tài sản của phạm nhân để chi trả.” Vua nghe theo.
[44] Ngày Canh Dần, ra chiếu cho Khai Phong phủ tâu xin xử lý công việc, nếu có tiền lệ thì vẫn theo lệ cũ.
[45] Ngày Tân Mão, ra chiếu cho Đoan vương Cát, Tân vương Ngu làm quan Á hiến và Chung hiến trong lễ Nam Giao[16].
[46] Diêu Lân xin xây chùa ở phần mộ, được ban tên là Hiển Trung. Vì tổ tiên ông từng mở mang biên cương, nên đặc cách cho phép, người khác không được viện dẫn làm lệ.
[47] Tháng 9, ngày Giáp Tuất, Thái Thạc, người phụ trách công việc ở Kinh lược ty Phu Diên lộ, được lệnh của Lại bộ đổi đi làm Đô giám trú bạc ở Trần Châu, theo lời thỉnh cầu của vợ Tôn thị của anh trai Thạc là Thái Xác. (Tăng Bố có nói vào ngày Giáp Tuất tháng 9, có thể tham khảo.) Ban đầu Thạc muốn xin một chức vụ ở kinh đô, Vua hỏi Tăng Bố: “Thạc thế nào?” Bố trả lời: “Tội trạng của người này không sai. Khi Thái Xác còn quyền thế, Thạc đã thực sự làm nhiều việc sai trái. Trước đây vì không có luật xét xử nên đặc cách cho giữ chức vụ, lời thỉnh cầu này không đáng nghe theo. Tuy nhiên, Thạc nói rằng Chương Đôn đã che giấu công lao định sách của Xác và hạ thấp ông ta[17], lại nói rằng khi Xác định sách, đầu tiên đã sai Thạc đến bảo Đôn, không phải do Đôn khởi xướng.” Vua hỏi: “Điều này có đúng không?” Bố đáp: “Việc này không phải ai cũng biết.”
(Trong sổ ghi chép của Bố vào ngày Giáp Tuất tháng 9 có việc này, lời nói về việc Chương Đôn che giấu công lao định sách chắc chắn có ý gì, cần xem xét thêm. Sau khi đổi chức, mọi người đều nói rằng Thạc trong thời Nguyên Phong đã làm nhiều việc sai trái, hưởng lộc rất hậu. Chương Đôn nói rằng theo luật thì không nên xét xử, nên đặc cách cho giữ chức vụ. Bố nói: “Những việc khác không cần hỏi, đến nay nhà ông ta giàu có, tiền của từ đâu mà có? Việc làm sai trái của ông ta là rõ ràng.”)
[48] Giáng chức Thứ sử Vinh Châu, Tổng quản Đăng Châu là Mạnh Tại làm chức Đề cử Sùng Phúc cung, được tùy ý cư trú ở các châu, quân thuộc Kinh Tây lộ, theo lời thỉnh cầu của ông ta.
[49] Lữ Huệ Khanh tâu: “Xin cho con trai là Duy mang bản đồ chín trại đến, thay mặt thần trình bày lợi hại.” Chiếu cho phép vào triều kiến và dâng lên.
(Sổ ghi chép của Bố, ngày Tân Mão.)
[50] Chiếu rằng: “Lệnh thông hành muối ở Kinh Đông, Hà Bắc vào khu vực muối Giải vừa ban xuống, dân chúng chưa biết xin giấy phép[18]. Những vụ án về muối đang được Đại Lý Tự điều tra đều được đặc cách tha bổng. Từ nay trở đi phải tuân theo lệnh mới ban, phải xin giấy phép của quan để buôn bán.”
[51] Nội điện Sùng ban Hướng Tông Quỳ được làm chức Cáp môn Chi hậu.
[52] Ngày Nhâm Thìn, ba tỉnh khảo thí các tông thất về nghệ nghiệp, có tám người đỗ, chiếu cho thăng chức, trong đó Sĩ Mộc được ban tặng danh hiệu Tiến sĩ xuất thân.
[53] Lại bộ tâu rằng, những quan viên được cử giữ chức vụ mà bị chỉ triệu về kinh đô[19], phải đợi khi trở lại nhiệm sở mới được phép tâu cử. Theo đó.
[54] Kinh Nguyên tâu rằng giặc đánh Bình Hạ rất gấp, Hi Hà tâu đã sai Vương Mẫn đến Hữu Sương để kiềm chế.
(Theo 《Bố lục》, ngày 25 Kinh Nguyên được ban tặng bạc và lụa, ngày 28 Vương Mẫn bị cách chức quân sự.)
[55] Ngày Quý Tỵ, chiếu rằng các quan chức thủ khuyết ở Tam tỉnh khi xuất chức, sẽ áp dụng theo quy định xuất chức của các quan thủ khuyết thiếp phòng ở Xu mật viện.
[56] Chiếu thêm sai 10 viên đại tiểu sứ thần chuẩn bị ở Hoàn Khánh lộ, theo lời tâu xin của Hồ Tông Hồi.
(Theo 《Bố lục》.)
[57] Thái bộc khanh Triệu Lệnh Thước tâu: “Thái bộc tự đổi tiền thu thuế, ra bảng kê khai chậm trễ, đã giao cho Đại Lý tự điều tra. Khi bị tra hỏi, biết việc liên quan đến nô bộc, do thần nông cạn, điều tra không đến nơi, dẫn đến bị bàn tán, vẫn tạm giữ chức tự khanh, thực không yên lòng. Xin được bãi chức, đợi khi khác xin đi nơi khác.” Chiếu cho Lệnh Thước làm tri châu Quang Châu.
(Lệnh Thước và Triệu [Sơn Kỷ] đổi chỗ cho nhau, đã ghi ngày 9 tháng 8, ở đây không nên gọi là Thái bộc khanh, mà nên gọi là Hồng lư khanh, thực lục sai vậy. Bia mộ Triệu Lệnh Thước do con là Triệu Y soạn, nói rằng Lệnh Thước làm tri châu Dĩnh Châu được triệu về, lại lĩnh chức Thái bộc, từ chối rằng: “Việc chăn nuôi ngựa, việc võ bị của triều đình, cần người tài. Thần đảm nhiệm nhiều năm, chỉ tránh được sự truất phạt, khó lòng lại đảm đương. Chiếu chỉ của các môn, thần chưa dám nhận.” Không được trả lời. Đến kinh, liền nhận chức. Trước đây các lộ thu thuế, tiền tích trữ ở ngoài, triều đình cho phép người dân đổi tiền để nộp vào Thái phủ, tự ty kiểm tra, trước hết ra bảng gọi khách. Ở Minh Châu[20] có hơn hai trăm vạn tiền, chưa ra bảng, khách Tống mỗ nguyện nộp vào kinh[21], xuất từ Minh Châu, bảo Lệnh Thước nhận đơn, viết tròn giao xét, nhưng tự thừa nghi ngờ người chủ chưa từng ra bảng, khách từ đâu biết được? Xin điều tra. Lệnh Thước phán giao Đại Lý tự, gặp lúc tang chế, quan tại tự chưa kịp sai lại. Lời đồn đến Xu phủ, giao Đại Lý xét án tình[22]. Tấu lên, Mật viện lại xin chỉ, cho rằng chưa xong, xin xét lại. Bèn bắt cả trẻ con, nô bộc, tìm cách che chở rất kín. Bèn đổi Lệnh Thước làm Hồng lư, rồi làm tri châu Quang Châu. Chưa đi thì vụ án xong, án trạng còn đó, xét không có gì giả mạo, bãi hai chức, giáng làm Triều thỉnh đại phu, làm tri quân Quảng Tế. Lúc đầu, lời khai trong ngục hỏi đến[23], Lệnh Thước nói: “Thiên tử không vì tiểu quan không xứng[24], cho giữ chức tự tỉnh, đứng hàng khanh. Phạm tội với hữu ty, há lại lấy thân lại đối đáp với lại được sao?” Chuẩn hỏi đều nhận hết. Người đời cho là oan. Ngày 2 tháng 11 mùa đông năm Nguyên Phù thứ hai, Lệnh Thước làm quân Quảng Tế, lại giáng ba chức, tiểu lại các hạng lần lượt bị biên phối.)
[58] Thái học lục Đặng Ngọc tâu xin chọn quan san định âm nghĩa của Ngũ kinh, Luận ngữ, Mạnh tử. Chiếu rằng những chỗ trong Tam kinh tân nghĩa khác với âm nghĩa cũ, thì lệnh cho quan giảng kinh biên soạn lại âm nghĩa.
[59] Xu mật viện tâu: “Các nơi thuộc Phủ giới, Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc Đông Nam lộ không có tướng phó đóng quân, và những nơi điều quân đóng đồn có số quân mã ít nhất, thì theo lời tâu của tướng đó lên Súy ty, chọn cử một viên quan binh kiêm quản. Nếu quan huấn luyện khuyết hoặc vắng mặt, thì gửi văn thư cho quan binh nơi đó kiêm quyền; nếu không có quan binh thì gửi văn thư cho quan kiêm quản binh quyền; nếu tướng phó khuyết hoặc vắng mặt đi tuần tra[25], cũng theo như thế, và tâu lên cấp trên. Khai Phong phủ tâu lên Ty đề cử tướng binh.” Đều theo lời tâu.
[60] Ngày Giáp Ngọ, Phạm Tổ Vũ, người bị giáng làm Chiêu châu biệt giá, an trí ở Hoá châu, mất.
[61] Ngày Ất Mùi, chiếu rằng võ quan thi đổi sang văn chức, Lại bộ theo phép thi thời Nguyên Phong sửa đổi rồi tâu lên. Theo lời thỉnh cầu của Lại bộ thị lang Hoàng Thường.
(Ngày 27 tháng 11 năm Nguyên Hựu thứ 2, ngày 26 tháng 4 năm Nguyên Phù thứ 3.)
[62] Chiếu rằng quân mã Tần Phượng, Hoàn Khánh điều đi ứng cứu Kinh Nguyên quá ít, lệnh phải tâu rõ; đồng thời phải tìm cách cứu viện, để kiềm chế thế giặc.
(Theo sách 《Bố lục》 ngày Ất Mùi.)
[63] Hi Hà tâu: “Vương Thiệm nói nhận được thư của người Thổ Phồn, nói rằng Nhân Đa Bảo Tông có ý quy thuận nhà Hán[26]. Lệnh cho Kinh lược ty tìm cách chiêu dụ và thu nạp.”
(Theo sách 《Bố lục》.)
[64] Ngày Đinh Dậu, chiếu rằng: “Các châu huyện thuộc Hà Bắc, Kinh Đông lộ bị lụt, nước sông Hoàng Hà dâng cao, nhấn chìm nhà cửa ruộng đất của dân, khiến nhiều người lâm vào cảnh mất nhà cửa. Sai Công bộ viên ngoại lang Lương Chú đi xem xét việc cứu tế cần thiết và tìm hiểu tình hình sông ngòi hiện nay rồi tâu lên.”
(Ngày 7 tháng 9, An Đôn xin sai quan.)
[65] Ba tỉnh tâu: “Xem xét việc tố cáo của Sở Tố Lý: Trong các công án có những lời trình bày không thuận với triều đại trước, cần ghi rõ chức vụ, họ tên để tâu lên. Ngoài những điều đã liệt kê và giải thích trước đây, nay xét thấy có những tờ trình trong đó chỉ nói về việc khen ngợi việc đặt ra Sở Tố Lý vào năm Nguyên Hựu, chưa rõ có nên tâu lên hay không.” Chiếu chỉ rằng những lời lẽ quá đáng thì phải giải thích rõ. Lại tâu: “Diêm Lệnh, Đề cử Quỳ Châu Lộ, bị chỉ định điều tra Vương Quang Tổ, đã tự tiện không truy bắt để điều tra, đặc cách truy thu hai chức quan và bãi chức. Việc bãi chức vào năm Nguyên Hựu rõ ràng là không đúng.” Chiếu chỉ rằng Diêm Lệnh, Triều phụng đại phu, quyền Thiểm Tây Lộ Chuyển vận sứ, giáng làm Triều thỉnh lang, và lệnh chỉ năm Nguyên Hựu không được thi hành.
(Trâu Hạo vân vân.)
[66] Quyền Điện trung thị ngự sử Đặng Phỉ tâu: “Tần Định, vừa được bổ nhiệm làm Chuyển vận phán quan Kinh Đông Lộ, trước đây vì cháu là Quan thân thiết với Tô Thức, Tô Triệt, nên được quyền làm Giám ty. Xin bãi bỏ chức vụ mới.” Chiếu chỉ Tần Định làm Tri châu Hào.
[67] Kỷ Hợi, chiếu rằng: “Triều tán lang Uông Diễn, Doanh châu phòng ngự suy quan Dư Sảng đều bị trừ danh, lột chức, vĩnh viễn không được bổ nhiệm. Diễn đưa đến Chiêu châu, Sảng đưa đến Phong châu để quản thúc, đồng thời ghi rõ những điều họ đã dâng sớ trình bày.” Trước đó, Thái Kinh tiến cử Sảng vào triều, Chương Đôn ghét ông ta, tâu rằng: “Sảng và Diễn vào cuối năm Nguyên Phong đều dâng sớ phỉ báng triều đình trước; Sảng lại vào năm Nguyên Hựu từng dâng sớ xin Tuyên Nhân thái hậu trả lại chính quyền, là kẻ gian trá, phản phúc.” Vì thế có mệnh lệnh này.
(Theo sử chép của Tăng Bố: Ngày Nhâm Thìn, Chương Đôn ở lại triều rất lâu. Bố vào chầu lần nữa, Vua hỏi Dư Sảng là ai? Bố đáp: “Thần có họ hàng với ông ta. Nhưng người này không có đức hạnh, mọi người đều biết. Cũng nghe nói Thái Biện tiến cử ông ta vào triều, người này cũng thông minh, nhưng gian trá không đáng tin, e rằng không nên đề bạt.” Đó là do Chương Đôn công kích ông ta. Lại theo sử chép của Tăng Bố: Ngày Quý Tỵ, tam tỉnh dựa vào bản sớ của Dư Sảng dâng vào năm Nguyên Hựu phỉ báng triều đình trước mà Chương Đôn thu được, cùng với thông phán Vĩnh Khang quân Uông Diễn cũng như vậy, đều bị lột chức, vĩnh viễn không được bổ nhiệm. Vua dụ: “Dư Sảng đã bị lột chức, Chương Đôn muốn quản thúc thì tạm thôi; lại Thái Biện nói từng dâng thơ cho chấp chính, khanh chắc có, hãy đem đến đây.” Tăng Bố nói: “Trong thơ cực kỳ ca ngợi chính sự thời Hi Ninh, Nguyên Phong, Thiệu Thánh, cho rằng ‘người tài xuất hiện, chính sự thi hành đều là điều sách vở chưa từng ghi, xưa nay chưa từng có, các bậc lão thần trong triều đều là bậc như Hoành Yêu, Y Doãn, Chu Công, Tất Công, Triệu Công’, trái ngược hẳn với bản sớ dâng vào năm Nguyên Hựu.” Vua cũng cười nhạt. Đến ngày Ất Mùi, trình thơ của Sảng, Vua càng cười nhạt hơn. Lại sai Tăng Bố đến chỗ Chương Đôn mượn sách của Sảng xem. Tháng 11, ngày Ất Tỵ, lại có việc về Dư Sảng.)
[68] Viện Xu mật tâu: “Kinh lược sứ Chương Tiết ở Kinh Nguyên lộ tâu rằng: Giặc Tây xâm phạm biên ải, từ trại Linh Bình phân bố quân mã, kéo dài mấy chục dặm, ước chừng ba mươi vạn, chuyên ý đánh thành Bình Hạ, tổng cộng mười ba ngày. Các tướng và quan trại ở các nơi ngày đêm chống giữ, nên bảo toàn được vô sự.” Chiếu phong Chương Tiết làm Long đồ các học sĩ, Tả trung tán đại phu, ban thưởng trà, thuốc và một ngàn lượng bạc, một ngàn tấm lụa. Lại chiếu phong tướng giữ thành Bình Hạ là Hoàng thành sứ, Khang châu Đoàn luyện sứ Quách Thành làm Đông thượng các môn sứ, Hùng châu Phòng ngự sứ, thăng làm quyền Kinh lược sứ bản lộ; còn các quan từ Tri thành trở xuống, các sứ thần lớn nhỏ cùng tướng hiệu, quân sĩ người Hán, người Phiên, đều giao cho Kinh lược ty xét kỹ thứ tự giữ thành, căn cứ vào công trạng cao thấp, chia làm các bậc, tâu lên rõ ràng.
(Truyện tâu của Chương Tiết chép rằng[27]: Ngày mùng một0, chúa Hạ cùng mẹ tự mình đem mấy chục vạn quân vây thành Bình Hạ, ngày đêm gấp rút tấn công. Từ ngày Kỷ Mão đến ngày Nhâm Thìn, tổng cộng mười bốn ngày[28], việc giữ thành càng vững chắc. Giặc dùng sức làm xe cao, gọi là xe đối lũy, đứng trên đó để nhìn xuống thành, chở mấy trăm người lấp hào mà tiến, chợt có gió lớn thổi gãy xe, giặc tan vỡ lớn, một đêm đều chạy trốn. Mẹ chúa Hạ khóc lóc, rách mặt mà về. Tin thắng trận tâu lên, Vua khen ngợi, phong Chương Tiết làm Long đồ các học sĩ, Tả trung tán đại phu, sai trung sứ đem chiếu thư ban thưởng, thêm ban một ngàn lượng bạc, một ngàn tấm lụa, áo đối, đai vàng, yên bạc, ngựa quý.
Sách “Nhật lục” của Tăng Bố chép: Ngày Bính Tuất, cùng trình tấu báo giặc Khương xâm phạm biên ải, từ tháng 9 có tin thám báo rằng đang tập hợp đại quân, sau đó có quân lính bị bắt trốn về nói: “Ngày 25 tập hợp một trăm năm mươi vạn quân[29], đóng quân cách Đãng Khương năm mươi dặm”, tổng cộng mười ngày mới động binh. Vây kín sáu thành trại là Đãng Khương, Thông Hạp, Bình Hạ, Linh Bình, Cao Bình, Cửu Dương, ước chừng ba, bốn mươi vạn.
Ngày Nhâm Thìn, Kinh Nguyên tâu giặc đánh Bình Hạ rất gấp. Ngày Bính Thân, nhận được thư tư của Chương Tiết, báo giặc đánh Bình Hạ chưa dứt, nhưng các tướng tá đều là người giỏi nhất trong lộ, không phải lo. Lại viết thư cho Chương Đôn, cũng nói chắc chắn giữ được vô sự, sợ Vua lo lắng, nên tâu lên biết. Ngày Đinh Dậu, trình lên thư và thư tư của Chương Tiết. Ngày Kỷ Hợi, Kinh Nguyên tâu giặc Tây từ giờ Dậu ngày 17 rút lui, đến ngày 18 đều chạy trốn. Đánh Bình Hạ mười bốn ngày, lấp hào Bình Viễn, lại đắp đường ở trong hào mấy chỗ, thẳng đến sát thành[30], đào mấy lỗ, đều có thể chứa mấy người; lại làm trăm loại thang mây, xe công thành. Nhưng trong thành chống giữ có phương pháp, cuối cùng không thể phá được. Người Khương trúng tên đá mấy ngàn, bị thương gấp đôi. Mong quân quan ra đánh, nhưng Tổng quản Vương Ân đều giữ quân không động, cỏ lương, gia súc ngoài đồng thu dọn không sót gì. Giặc không được gì, lâu ngày hết lương, bèn chạy về. Quan quân trong thành trại không tổn thất gì.
Các trại khác tuy không bị đánh, nhưng bị vây khắp nơi, các tướng tá đều mở cửa đón giặc, thỉnh thoảng ra khiêu chiến, đêm dùng quân nhẹ cướp trại, giặc rất kinh hãi. Đều đáng khen. Chương Tiết thăng Tả trung tán đại phu, tướng giữ Bình Hạ là Quách Thành thăng Đông thượng các môn sứ, Dao phòng Kiềm hạt, các quan từ Tri thành trở xuống, lệnh nhanh chóng xếp hạng công trạng tâu lên. Chương Tiết được ban một ngàn lượng bạc, một ngàn tấm lụa, lại ban chiếu khen, ban cho Quách Thành mỗi thứ ba trăm[31], còn lại hai trăm, một trăm năm mươi, một trăm và năm mươi, tổng cộng bốn bậc, lại có hộp bạc, trà, thuốc khác nhau, quân sĩ từ hai mươi tấm đến mười tấm, tổng cộng ba bậc, người già, trẻ, phụ nữ làm việc trên thành được năm tấm.)
[69] Kinh lược ty Hà Đông tâu rằng: Thống chế quan Trương Thế Vĩnh cùng các tướng lĩnh đem quân vào địa giới phía Tây để kìm chế địch, đến Bạch Thổ Xuyên gặp giặc giao chiến, chém giết và bắt sống hơn 500 tên. Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tâu rằng: Quân giặc đã rút lui, các binh sĩ Hán, Phiên chiến đấu phòng thủ cùng dân cư vùng biên giới bị giặc đốt phá nhà cửa, giết hại và bắt người, đốt cướp lương thực, xin ban thưởng để khích lệ. Chiếu ban tiền, lụa theo thứ bậc. Quân binh ứng phó của Hoàn Khánh, Tần Phượng và những người có công chống giặc cũng được ban thưởng như vậy. Những người bị đốt phá nhà cửa, giết hại và bắt người, đốt hủy lương thực, dẫm nát ruộng đồng, vẫn được cấp lương thực; Quách Thành được ban 300 lạng bạc và tấm lụa, từ Tri thành trở xuống được ban thưởng theo thứ bậc.
(Ngày 18, hai lộ tâu như vậy. 《Cựu lục》 chép: Kinh lược ty Hà Đông tâu rằng: Bệ hạ anh dũng, thu phục lãnh thổ, người Khương kinh sợ, không dám tranh giành. Đến nay đại quân tiến vào, thất bại mà rút lui. Tây Hạ từ đó suy yếu, vùng đất Hoành Sơn được thiết lập các thành trại. 《Tân lục》 biện luận rằng: Đã nói “người Khương kinh sợ, không dám tranh giành”, lại nói “đến nay đại quân tiến vào”, tức là dám tranh giành. Nay xóa bỏ.)
[70] Đặt ra quy định phạt các sứ thần tuần giáo.
[71] Trước đó, ty Thừa chỉ truyền tuyên, khoa hiệu các tướng hiệu quân Phụng Nhật phải xem xét kỹ năng quân sự mỗi tuần, nếu không đạt được một phần, sứ thần tuần giáo sẽ bị thay thế. Lại lệnh cho Viện Mật thêm hình phạt đối với các tướng hiệu và giáo đầu. Tăng Bố dâng lên quy định về hình phạt, nhân đó tâu: “Triều trước khi tuần tra các quân, chỉ ban ân huệ mà thôi, nếu kỹ năng không đạt chuẩn, thì quản quân sẽ xử lý. Gần đây do Tống Cầu thỉnh cầu, mới đặt ra luật, nay nếu lại thêm hình phạt, e rằng sẽ gây bất ổn trong quân.” Vua giật mình nghe theo. Bố nói: “Từ thời tổ tông, việc cai quản tướng sĩ thường để ân huệ thuộc về nhà Vua, uy lệnh thuộc về quản quân. Nay lại ngược lại, đó là do quản quân thất chức. Phàm việc nghiêm minh quân chính, há lại đợi triều đình đặt ra luật rồi mới thi hành? Thần cũng sẽ lấy ý này để răn dạy họ.” Vua rất tán đồng. Bố lại tâu: “Thần nghe được một số việc, không dám không tâu hết. Hôm trước, nhiều người trong quân Phụng Nhật bị xử phạt, nghe nói cả doanh trại đều khóc. Khi nghe tin những người hầu hạ lâu ngày bị xử phạt vì hô “trúng đích” dù không trúng, ai nấy đều kinh sợ, chỉ cần bắn cưỡi ngựa hơi không đúng phép, liền bị kéo xuống.” Vua hỏi: “Không trúng mà lại hô trúng?” Bố đáp: “Thần biết họ có tội, nhưng xin hãy khoan dung.” Vua cũng cho là phải.
[72] Xu mật viện tấu: “Giặc phương Tây đã điểm tập binh mã, tất sẽ có hành động. Cần phải chuẩn bị trước các việc xây dựng thành trại.” Chiếu rằng: “Việc xây dựng thành trại sắp tới[32], cần chuẩn bị lương thảo, lầu canh, vật liệu xây dựng cùng các dụng cụ đắp thành, khí giới phòng thủ, đồ dùng các loại[33], đều giao cho Chương Tiết lo liệu trước. Chuẩn bị đầy đủ mọi thứ, đợi khi xuân ấm, có cơ hội thuận lợi, sẽ theo chỉ dụ gần đây, phối hợp với Hi Hà lộ, điều động binh mã từ Hoàn Khánh, Tần Phượng hai lộ, kịp thời tiến hành xây dựng, không để xảy ra sai sót khi hành sự. Trước hết phải tâu trình rõ các việc đã chuẩn bị.”
(Chương Tiết tấu nghị có ghi chép việc này, nay chép lại để tham khảo.)
[73] Ngày Canh Tý, ban chiếu cho Thiểm Tây, Hà Đông không được vì giặc phương Tây đã rút lui mà lơ là phòng bị biên giới, phải tăng cường phòng ngự, nếu có sơ suất sẽ bị xử phạt nghiêm khắc.
(Theo 《Bố Lục》.)
[74] Kinh Nguyên tâu rằng giặc phương Tây lại dùng kỵ binh nhẹ xâm phạm khu vực trại Canh Hưng, Thiên Thánh, sau đó lại tâu đã rút lui.
(《Bố Lục》 ngày Canh Tý.)
[75] Trung thư tỉnh tâu: “Năm Nguyên Hựu thứ nhất, tháng giêng, Khởi cư xá nhân Hình Thứ dâng thư nói rằng vào đầu niên hiệu Hi Ninh, Vương An Thạch và Lữ Huệ Khanh nắm quyền, lúc đó thần được triệu đối, Tiên đế hỏi về hai người này, thần đã nói rõ điểm yếu của An Thạch và sự gian trá của Huệ Khanh, cuối cùng bị họ bài xích. Lại nói rằng Thái hoàng thái hậu thân chính, dùng người trung lương, loại bỏ hết tệ nạn. Thần lúc đó được thăng làm Hữu ty viên ngoại lang, chức vụ thuộc quan của tể tướng, được tham dự chính sự, thần tự cho là thời cơ ngàn năm có một. Lại nói: Hàn Duy là người đức độ, đứng ngang hàng với Tư Mã Quang, Lữ Công Trứ.” Chiếu giáng Hình Thứ làm Thừa nghị lang, nhậm chức Tri quân Nam An.
[76] Hình Thứ trước đó bị cách chức Trung thừa, giữ nguyên chức Tri châu Nhữ Châu (ngày 14 tháng 4), sau năm tháng, đổi làm Tri phủ Ứng Thiên (ngày 4 tháng 9). Chương Đôn sợ Hình Thứ được dùng lại, bèn tìm ra bức thư Hình Thứ dâng năm Nguyên Hựu đầu, tâu với Vua rằng: “Hình Thứ ngoài việc trừ Thái Xác ra, không có việc gì không theo Nguyên Hựu.” Nên đặc cách trách phạt.
(Thư của Hình Thứ được chép đầy đủ vào ngày 27 tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 8.)
[77] Chiếu cho lộ Kinh Nguyên xây dựng một đạo quán tại thành Bình Hạ, đặt tên là Linh Hựu, ban cho ba khoảnh ruộng, mỗi năm cho một đồng tử xuất gia.
[78] Tập hiền điện tu soạn, quyền Tri châu Tần Châu Lục Sư Mẫn tâu rằng pháp chế trà đời trước nay đã khôi phục, xin được từ chức. Tăng Bố nói: “Sư Mẫn tính thời gian, sang năm sẽ được thăng chức. Thần từng nói rằng tướng biên giới không nên thay đổi nhiều, chi bằng phong làm Đãi chế, để yên tâm tại chức.” Vua nói: “Tiên triều đã dùng lâu, nếu Tiên đế còn tại vị, đã làm Đãi chế từ lâu rồi.” Bèn phong làm Bảo văn các Đãi chế.
[79] Chuyên việc đốc thúc việc đúc tiền và khai thác mỏ sắt, Giám sự Lã Tiềm tâu rằng, xin áp dụng luật kho để xử lý các việc liên quan đến khai thác mỏ sắt. Triều đình đồng ý.
[80] Ngày Tân Sửu, Thái thường tự tâu rằng, Đại nhạc lệnh Diệp Phòng nói rằng trong lễ tế trời đất không có nhạc triệt đậu, xin soạn thêm chương nhạc. Triều đình ra chiếu cho Học sĩ viện soạn thảo.
[81] Triều đình ra chiếu cho các Kinh lược ty ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ, chuẩn bị sai sứ thần, mỗi nhiệm kỳ là ba năm. (Phần mới bị bỏ).
[82] Ngày Nhâm Dần, Tam tỉnh tâu rằng, trong kỳ thi bổ sung ở Thái học, Hữu ty lý tham quân Bàng Tuyền ở Kiến Châu và Huyện úy Tạ Đại Phương ở Đông Dương huyện, Vụ Châu, đỗ kỳ thi học quan. Triều đình ra chiếu cho cả hai làm Giáo thụ ở châu học. (Phần mới bị bỏ).
[83] Tam tỉnh tâu: “Các quan tâu rằng: Khi cứu xét các vụ án hình ngục ở kinh thành, tất cả các vụ án đang xét xử và đã tâu lên để xử đoán, đều được phép lấy hồ sơ. Trước đây, Khai Phong phủ tránh việc Ngự sử đài kiểm tra các vụ án đã xử đoán, nên dẫn điều sắc của Hình sát thượng án: Tất cả các vụ án đang xét xử và đã tâu lên để xử đoán, nếu không phải do kiện tụng thì không được lấy hồ sơ, xin thi hành. Ở kinh thành, hình ngục thuộc Hình sát hạ ngục rất nhiều, các giáo lệnh tự thành một cơ quan[34], nay chỉ có Khai Phong phủ không áp dụng lệnh này.” Triều đình ra chiếu cho Ngự sử đài và Hình sát thượng hạ án lấy hồ sơ văn tự, vẫn theo điều lệ cũ.
[84] Kinh Nguyên tâu rằng, đã giữ lại binh mã của Vương Ân để tu sửa tường thành Bình Hạ. (Theo sử liệu của Bố, ngày Nhâm Dần).
[85] Hi Hà Lan Hội Lộ Kinh lược ty tâu: “Phó Đô tổng quản Vương Mẫn thống lĩnh tướng binh thẳng đến Trác La Hữu Sương về phía đông để đánh dẹp[35], nhằm kìm chế thế lực giặc ở Kinh Nguyên. Đến La Tát Nhĩ, gặp giặc không rõ số lượng, kéo đến nghênh chiến. Mẫn thân chinh dẫn tướng sĩ xông lên đánh, đại phá quân giặc, chém được hơn một nghìn ba trăm thủ cấp, trong đó có một thủ cấp là phò mã ngụy Vượng La. Bắt sống hơn ba trăm người, thu được hai vạn năm nghìn con trâu, ngựa, dê, lạc đà, thiêu hủy gần hết kho tàng của các bộ tộc trong vòng mấy trăm dặm.” Chiếu rằng: “Tất cả quân binh xuất giới, ban thưởng tiền tùy theo mức độ. Những tướng sĩ lập công, Kinh lược ty phải xem xét công trạng, bảo đảm rõ ràng rồi tâu lên.” Sau đó, Kinh lược ty tâu rằng Mẫn đánh giặc chỉ đến La Tát Nhĩ, không thể tiến sâu để phá tan sào huyệt. Chiếu rằng Mẫn bị cách chức Long Thần Vệ Tứ Sương Đô chỉ huy sứ, vẫn giữ chức Cát Châu thứ sử, làm Phó tổng quản Hi Hà Lan Hội. Sau đó lại bị giáng làm Đô kiềm hạt, bị cách chức chính nhiệm.
(Ngày 18 Hi Hà tâu cử Mẫn, ngày 29 bị cách chức quân vụ, nay kèm theo việc cách chức chính nhiệm và giáng làm Kiềm hạt. 《Tăng Bố nhật lục》 chép việc Mẫn bị cách chức chính nhiệm vào ngày 2 tháng 11. Nay cũng phụ chép vào đây.)
[86] Chiếu rằng: “Các sứ thần Tẩu mã thừa thụ ở các lộ, phải tuân thủ các điều lệ và các chỉ dụ cơ mật được ban, nếu không phải là chỉ dụ riêng cho bản quan, thì phải thu thập biên soạn, sao chép thành sách, cất giữ kín trong ty để sử dụng. Sách cơ mật, giao cho sứ thần đặt tủ, tự mình khóa niêm phong; các văn bản hành chính cũng phải đặt kho để lưu trữ. Các điều lệ và chỉ dụ cơ mật đã biên soạn[36], cũng phải sao chép một bản, kèm theo lời cam đoan không thiếu sót, tâu nạp lên Xu mật viện. Từ nay về sau, tất cả các điều lệ và chỉ dụ được ban, cùng các văn bản hành chính, cũng phải theo cách này tiếp tục sao chép lưu trữ. Trừ những chỉ dụ riêng cho bản quan và các văn bản đã tâu báo, không được mang theo.”
[87] Ngày Quý Mão, ba tỉnh tâu: “Xét lại việc năm Nguyên Hựu, Quan sát sứ quản nội châu Mật, Phò mã đô úy Trương Đôn Lễ tấu rằng: ‘Gần đây Bệ hạ quyết đoán từ thánh tâm, cách chức tể thần Thái Xác, thăng Tư Mã Quang làm thượng tướng, theo lời thần nói, việc này có năm điều lợi.’ Vậy xin đặc biệt xem xét.” Chiếu chỉ viết: “Lễ tiết thờ Vua, ở chỗ biết giữ phận mình; phương pháp trị bề tôi, không vì người thân quý mà làm rối phép. Dám xâm phạm công luận, nên chính hình phạt. Tiết độ quan sát lưu hậu quân Vũ Thắng, Kiểm hiệu Tư không, Trì tiết các việc quân sự châu Đặng, Thứ sử châu Đặng, Phò mã đô úy Trương Đôn Lễ, được chọn từ triều trước, may được ở trong thân thích; được hưởng ân sủng, vượt lên làm quan tốt. Khi mới buông rèm, đáng lẽ phải sâu sắc nhớ ơn tiễn đưa. Thế mà lại quên ơn phạm phận, xấu xa kết bè với kẻ tà; bí mật dâng sớ, công khai chê bai người trước. Dẫn lời khen ngợi kẻ có tội, cho là nên khen ngợi; muốn bè đảng của hắn, đều được dùng. Dâng mưu như thế, ý định là gì! Xét kỹ tội lỗi, nên trị tội. Nhưng nghĩ đến tình thân thích, đặc biệt khoan dung không đày xa. Giáng chức về nhà, càng phải tự xét mình. Có thể đặc biệt giáng làm Tả Thiên Ngưu vệ Đại tướng quân, Phò mã đô úy, đặc miễn an trí, nhưng cấm vào chầu.”
(Báo 《Hữu Thánh để báo》 chép thư của Đôn Lễ rất chi tiết[37], nay chỉ theo thực lục. Bố lục ngày Ất Tỵ tháng 11 chép: Vương Hiến Khả tái nhiệm châu Lô được thăng chức, Vua bảo Hiến Khả năm Nguyên Hựu cũng có dâng sớ. Trước đó, Chương Đôn dâng thư của Dư Sảng, xuất từ nhà hắn, người ta rất nghi ngờ. Vua bèn tìm kiếm, trong cung được bản chính, trong cung được thư xin trả lại chính quyền. Nhưng Tuyên Nhân tháng 6 đã uống thuốc, Sảng ngày 13 tháng 7 xin trả lại ngôi, ngày 3 tháng 9 thì băng hà, nên không cứu được việc giáng chức trước[38]. Vua nhân tìm thư của Dư Sảng, bèn thấy thư của Vương Sư Ước, Trương Đôn Lễ dâng. Sau đó cả hai đều bị giáng chức. Vua lại nói, Chu Đỉnh, Lý Hứa cũng có thư; lại nói, Hứa theo Trần Diễn, có thể bãi chức các. Khi dâng lên, lại nói việc không rõ, tạm thôi, mà thư của Chu Đỉnh cũng không đưa ra, có thể thấy ý nhân hậu của Vua. Nhưng từ việc Sảng đến nay, vẫn chưa yên, mà Tự Thần và Trung ty lại nhiều lần lấy việc tố cáo để bắt tội, xin thi hành. Nhưng ý Vua vẫn chậm, nên bị họa cũng ít, chỉ là bọn tiểu nhân hung hãn, chưa chịu thu liễm. Việc trách phạt Dư Sảng, vào ngày 25.)
[88] Hán tự: Vương Trạm, Đô kiềm hạt Phu Diên lộ, được bổ làm Tổng quản Thiền châu.
(Ngày 17 tháng 12 năm Thiệu Thánh thứ 4, từ Kinh Nguyên chuyển sang Thiền châu, cần xem xét. 《Tăng Bố lục》: Ngày Quý Mão, đối lại, bãi chức Đô kiềm hạt Phu Diên của Vương Trạm, bổ làm Tổng quản Ký châu.)
[89] Chiếu ban cho đạo quán Xung Hữu ở núi Vũ Di, Kiến Châu một ngàn khoảnh ruộng tốt. [39]
[90] Chiếu cho Triều thỉnh lang, Bí các Hiệu lý, quyền Tri Lộ châu Âu Dương Phỉ bị cách chức, giao về Lại bộ để bổ nhiệm vào chức vụ thích hợp. Vì trong thời kỳ quyền thần mê hoặc đất nước thời Nguyên Hựu, Phỉ đã kết bè kết đảng với kẻ gian ác, thường xuyên mong cầu tiến thân, nên bị trách phạt như vậy.
(Theo 《Tất Trọng Du tác Âu Dương Phỉ truyền》 chép: Khi Chương công Tử Hậu nhậm chức Tể tướng, Thúc Bật Phủ nhiều lần xin ra ngoài làm quan, nên được bổ làm Triều tán lang, Bí các Hiệu lý, Tri Tương châu. Có người tên là Ngụy Thái, là anh trai của Vệ quốc phu nhân, vợ của Tăng công Tử Tuyên. Ông ta ở Tương châu hai mươi năm, dựa vào thế lực của Tử Tuyên, sống nhờ ở Hán Nam. Tuy là thường dân, nhưng các châu quận đều tiếp đãi ông ta với lễ nghi của quan phó, nhưng ông ta vẫn không hài lòng. Ông ta thường chiếm đoạt ruộng đất công tư, ép mua bán, tranh giành lợi ích với dân, trước sau không ai dám làm gì. Sau đó, ông ta xin khu đất hoang ở phía đông cổng châu, nơi có tòa nhà quan bỏ hoang, làm đất hoang. Các quan chức trong châu đều tìm cách che đậy, làm thành văn bản rồi trình lên. Thúc Bật Phủ nói: “Ai bảo phía đông cổng châu lại có đất hoang để xin?” Rồi từ chối. Các quan chức trong châu lại khuyên Thúc Bật Phủ: “Thái đã ngang ngược ở Hán Nam lâu ngày, không dễ kiềm chế. Ông ta xin đất mà chậm trễ không cho, đã là không nên, huống chi là từ chối hẳn?” Thúc Bật Phủ đáp: “Đất hoang phải ở nơi hoang dã. Thái xin đất ở phía đông cổng châu, lấy đất ở cổng châu làm đất hoang để bán cho người khác, không phải là chính sách; sợ Thái mà bóp méo lệnh về đất hoang, không phải là pháp luật.” Thái nghe xong tức giận, kiện lên Chuyển vận ty. Chuyển vận ty chuyển đơn kiện về châu, Thúc Bật Phủ vẫn kiên quyết không chấp nhận, Thái bèn gièm pha Thúc Bật Phủ với Tử Tuyên. Sau khi bị cách chức ở Tương châu, ông được bổ làm Triều thỉnh lang, Tri Lộ châu. Rồi lại bị cách chức ở Lộ châu, được trở về Lại bộ với chức Hiệu lý[40], sau đó bị giáng hai cấp. Ngày Quý Mùi tháng 7 năm Nguyên Phù thứ hai, Phỉ được bổ làm Lại bộ lang với chức Triều thỉnh.)
[91] Tần Phượng lộ Tẩu mã thừa thụ Trịnh Tiếp tâu xin từ nay trở đi, nếu binh mã của lộ này ra khỏi địa giới sang lộ khác, số lượng trên một vạn người, thì cử một viên Tẩu mã thừa thụ đi theo quân để quản lý binh mã của lộ mình. Được chấp thuận. Hoàn Khánh lộ cũng áp dụng theo.
[92] Chuyển vận ty Hà Đông tâu rằng, sau khi xem xét, các châu quân trong lộ này vì kinh lược ty quy định số lượng mua ngựa, đã phân bổ mua nhiều hơn so với hộ dân, đến quân Chiêu Đức, cấp giấy công cứ, cho phép dân đến Thiểm Tây mua ngựa, đồng thời ép buộc các hộ thị trường kết hợp mua ngựa quân và làm tờ khai quan.[41][42] Chiếu rằng các quan tri châu, thông phán Hà Đông lộ bị giáng chức, kéo dài thời hạn, phạt đồng tùy mức. Phàm bị giáng chức, đều kéo dài thời hạn hai kỳ.
(《Thực lục》 ghi chép tên người bị trách phạt rất chi tiết, nay theo 《Tân lục》.)
[93] Điện tiền ty tâu rằng, Đô chỉ huy sứ Hổ Dực hữu đệ nhất quân, Thứ sử Vinh Châu Thôi Cát, nghỉ bệnh đã đủ 100 ngày, không muốn về hưu, nên bổ nhiệm làm Đô chỉ huy sứ Mã bộ quân bản thành của quận. Chiếu rằng vì là người theo hầu Thần Tông hoàng đế, đặc cách theo lệ cho làm Phó đô đầu Mã bộ quân Ngự tiền trung tá; vẫn giữ chức Thứ sử Dao quận như cũ.
[94] Ngự sử đài tâu: “Theo pháp nguyên phong, các việc dự yến tiệc, chúc mừng, tuyên chế, dâng biểu, phụng uý, hành hương, họp bàn, nếu có việc công gấp hoặc phải trực ở điện, không kịp tham dự, và những trường hợp được miễn theo điều lệ, đều phải báo Ngự sử đài. Pháp nguyên hữu quy định những trường hợp được miễn không phải báo, xin theo pháp nguyên phong.” Theo lời tâu.
[95] Lại có lời tâu: “Sở Tường định nhất ty sắc lệnh tâu rằng: Theo sắc lệnh tháng 9 năm Nguyên Phù thứ nhất, các trường vụ ở phủ giới và các lộ dùng ruộng đất, nhà cửa để thế chấp, không bán nữa, mà đều gọi người đến thuê cày. Thần xét kỹ việc các trường vụ mua lại ruộng đất thế chấp, từ thời Hi Ninh, Nguyên Phong trở lại đây, pháp luật quy định đều là bán đi để bù đắp số thiếu hụt. Tuy nhiên vẫn có những nơi bán không đạt được số lượng như thời Nguyên Hựu, dẫn đến việc các quan lại kiểm định phải bồi thường theo pháp luật, mà các quan lại kiểm định vẫn còn có người tăng giá ước tính sai lệch. Nay nếu không bán đi, mà bắt hết phải cho thuê cày, e rằng có chỗ bất tiện, kính xin sửa đổi.” Được chấp thuận.
(Sách mới không chép.)
[96] Ngày Giáp Thìn, ban chiếu rằng: Công chúa Trưởng nước Tào, trong đại lễ sắp tới, được hưởng ân huệ dành cho người thân, đặc cách cho phép chuyển lại cho người trong nhà, sứ thần Hà Bá Thông, Trương Hiệp mỗi người được thăng một chức.
[97] Hữu chánh ngôn Trâu Hạo tâu: “Thần thấy từ thời Thiệu Thánh trở lại đây, các quan ngôn sử vì bàn việc không đúng, bị giáng chức điều đi nơi khác, lâu nay chưa được phục chức. Thần e rằng những người tầm thường sẽ vì thế mà lấy việc can gián làm điều cấm kỵ. Nay đại lễ sắp tới, ân huệ ban khắp muôn phương, không vật gì không được hưởng ơn lớn. Các quan ngôn sử bị giáng chức từ thời Thiệu Thánh trở lại đây, cũng mong Thánh từ xem xét tình lý mà cho phục chức, không chỉ để thấy triều đình chưa từng vì lời nói mà phế bỏ người, mà còn đủ để khích lệ khí thế dám nói thẳng trong thiên hạ.”
(Bản tấu của Trâu Hạo này ghi là dâng vào tháng 10 năm Nguyên Phù thứ nhất. Nay phụ vào cuối tháng. Có thể tham khảo chiếu xá văn ngày 20 tháng 11.)
[98] Hạo lại tâu: “Thần nghe các quan tâu xin, xin lấy nghĩa lý trong ba kinh 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ》 ra đề thi cử nhân, được chỉ huy xuống cho các nơi liên quan xem xét, cho là có thể thi hành. Thần trộm nghĩ rằng, ý chỉ của ba kinh đã lâu bị chú sớ làm mờ. Từ khi Vương An Thạch và con trai vâng chiếu giải thích để truyền bá cho thiên hạ, các học giả biết theo đâu, đã hơn hai mươi năm, công lao đối với danh giáo há nhỏ sao! Nhưng gọi là nghĩa, thì chỉ là giải thích ba kinh mà thôi, không phải là kinh. Lấy kinh để đào tạo sĩ tử, mà lại lấy những thứ không phải là kinh để thi hỗn hợp, rất mất ý của tiên đế chuyên dùng kinh thuật, đó là điều không thể thứ nhất. Không bó buộc trong chú sớ, nhất loạt ra đề, lại lấy thơ phú và thời sự để so sánh, cũng không phải là ý của tiên đế khi cải cách khoa cử, đó là điều không thể thứ hai. Nếu cho rằng đề thi có hạn, nên lấy cách này để cứu vãn tệ nạn, thì 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ》 vốn đã có nghĩa, không biết 《Dịch》 và 《Lễ Ký》 sẽ xử lý thế nào? Năm kinh cùng thi mà sự thể không đều, đó là điều không thể thứ ba. Học giả thấy nghĩa lý ba kinh văn tự nhiều, ắt sẽ chọn những thứ ít tốn công sức mà học. Trong khoảng thời gian, sẽ đổi hết 《Dịch》 và 《Lễ Ký》, mà 《Thi》, 《Thư》, 《Chu Lễ》 có lúc sẽ thành vật bỏ đi, đó là điều không thể thứ tư. E rằng từ nay về sau, lại có người tâu xin bỏ 《Dịch》 và 《Lễ Ký》, chỉ lấy ba kinh có nghĩa ra đề thi, thế cũng không thể ngăn được, đó là điều không thể thứ năm. Việc liên quan đến quốc thể, càng phải xem xét cẩn thận. Kính mong thánh từ đặc biệt ban chỉ huy, chỉ lệnh theo như cũ tuân theo điều chế của tiên triều ra đề thi hành.”
(Xét rằng tấu chương của Trâu Hạo không rõ thời gian, nhân ngày 19 tháng này lệnh cho quan biên soạn âm nghĩa ba kinh, phụ lục cuối tháng. Sau đó ra đề thi vẫn theo pháp cũ, ắt là theo lời Hạo vậy.)
- Hà Trung phủ Giải châu tiểu trì diêm, sách 《Tống hội yếu》 quyển 24, mục Thực hóa 24-32 chữ 'Hà' trên có chữ 'Dục'. ↵
- Muối đất tư ở các châu Thương, Hoa, chữ 'Thương' trong 《Tống sử》 quyển 181, mục Thực hóa chí và 《Tống hội yếu》 dẫn trên viết là 'Đồng'. ↵
- Muốn dời một nghìn hộ thượng đẳng đến đó, chữ 'Nhất' trong các bản và bản hoạt tự viết là 'Nhị'. ↵
- Thăng ba chức, chữ 'Gia' nguyên bản thiếu, căn cứ vào các bản và câu dưới 'lại ban vàng thăng chức' mà bổ sung. ↵
- Việc phương Bắc hư thực, các bản và bản hoạt tự chữ 'Bắc' viết là 'Thử'. ↵
- Các bản và bản in hoạt tự có thêm hai chữ 'Trục quan' trước 'Trục nguyệt'. ↵
- Đất gần gũi với người, sách 《Tống sử》 quyển 98 chí Lễ, 《Tống hội yếu》 Lễ 14-59 chữ 'dữ' viết là 'ư'. ↵
- Các bản khác chữ 'bạch' viết là 'tệ'. ↵
- Chỉ là vẽ màu tinh xảo hơn nơi khác, chữ 'hội' nguyên là 'tăng', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- Kỳ Tiển Bạc, các bản khác và bản hoạt tự chép là 'Lãng Tiển Bạc'. ↵
- Lúc đó, giặc dùng trọng binh đánh Kinh Nguyên, chữ 'thời' nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung. ↵
- hai viên chủ bạ của Tướng tác giám, chữ 'chủ' nguyên bản là 'ngôn', theo bản khác sửa lại ↵
- Nguyên văn 'cộng' sửa thành 'cụ' theo các bản khác. ↵
- Nguyên bản ghi 'Ất Hợi', xét 'Ất Hợi' là ngày mùng một tháng này, ngày này là ngày 11, nên sửa thành 'Ất Dậu', nay theo bản các. ↵
- Ước tính giá trị bồi thường, sách 《Tống sử》 quyển 184, chí về thực hóa và đoạn dưới chữ 'thường' đều viết là 'thưởng'. ↵
- Tân vương Ngu, chữ 'Tân' nguyên bản viết là 'Tuỵ', căn cứ vào 《Tống sử》 quyển 18, kỷ về Triết Tông và 《Tống hội yếu》 đế hệ 1-39 mà sửa lại. ↵
- Chữ 'chi' trong câu 'Nhiên thạc ngôn Chương Đôn yểm xác định sách công ức chi' ban đầu bị thiếu, theo bản trong các kho lưu trữ thì bổ sung. ↵
- Trong 《Tống Hội Yếu》 phần Thực hóa 24-32, chữ 'dẫn' có thêm bốn chữ 'tiện hành hưng phiến'. ↵
- Những quan viên được cử giữ chức vụ mà bị chỉ triệu về kinh đô, chữ 'triệu' nguyên là 'Chiếu', căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 quyển 28, tờ 27 sửa lại. ↵
- Minh Châu nguyên bản là 'Lạc Châu', theo các bản và bản hoạt tự sửa. Phần sau cũng sửa. ↵
- Khách Tống mỗ nguyện nộp vào kinh, 'nộp vào' các bản chép là 'vào nộp'. ↵
- Giao Đại Lý xét án tình, 'án' nguyên bản là 'nhân', theo các bản sửa. ↵
- Lời khai trong ngục hỏi đến, 'mục' nguyên bản là 'nhật', theo các bản và bản hoạt tự sửa. ↵
- Thiên tử không vì tiểu quan không xứng, 'tiếu' nguyên bản là 'túc', theo các bản sửa. ↵
- chữ 'cố' trong 'hoặc giả cố xuất tuần' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào các bản khác và văn trên mà bổ sung. ↵
- chữ 'đa' trong 'Nhân Đa Bảo Tông' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào quyển 504 sách này, mục ngày Nhâm Thìn tháng 11 năm Nguyên Phù thứ nhất và 《Tống sử》 quyển 486, phần Hạ quốc truyền mà bổ sung. ↵
- 'Tấu truyện' trong truyện tâu của Chương Tiết, ở phần trên quyển này chép là 'Tấu nghị'. ↵
- Từ ngày Kỷ Mão đến ngày Nhâm Thìn, tổng cộng mười bốn ngày. Nguyên văn chép 'Ất Mão', nhưng từ Ất Mão đến Nhâm Thìn là ba mươi tám ngày, từ Kỷ Mão đến Nhâm Thìn mới là mười bốn ngày. Chữ 'Ất' và 'Kỷ' gần giống nhau nên nhầm, nay căn cứ vào bản trong các và sách 'Tây Hạ kỷ sự bản mạt' quyển 27 mà sửa lại. ↵
- 'Tập hợp một trăm năm mươi vạn quân', ở phần trên quyển này, tiểu chú điều Nhâm Ngọ chép là 'giặc binh', sách 'Tây Hạ thư sự' quyển 30 chép là 'quân Hạ'. ↵
- 'Thẳng đến sát thành', nguyên văn thừa chữ 'nhất', căn cứ vào các bản mà bỏ. ↵
- 'Ban cho Quách Thành mỗi thứ ba trăm', nguyên văn thiếu chữ 'ban', căn cứ vào các bản và phần dưới mà bổ. ↵
- 'Xây dựng' nguyên bản viết là 'tận', theo các bản khác và văn trên sửa lại. ↵
- Lầu canh, vật liệu xây dựng cùng... 'Vật liệu' nguyên bản viết là 'gỗ', theo các bản khác sửa lại. ↵
- chữ 'giáo' trong bản các các là 'sắc'. ↵
- thẳng đến Trác La Hữu Sương về phía đông để đánh dẹp 'thẳng' nguyên là 'kinh', theo bản khác sửa. ↵
- các điều lệ và chỉ dụ cơ mật đã biên soạn 'đã' nguyên là 'liệt', theo bản khác sửa. ↵
- 'Hữu Thánh' nguyên bản là 'Nguyên Hựu', theo các bản và bản chữ hoạt tự sửa. ↵
- Các bản chữ 'không' có thêm chữ 'năng'. ↵
- Chiếu ban cho đạo quán Xung Hữu ở núi Vũ Di, Kiến Châu một ngàn khoảnh ruộng tốt. Các bản khác chép 'một ngàn' là 'mười', có lẽ đúng là như vậy. ↵
- 'Hiệu' nguyên bản viết là 'Giao', theo các bản khác và bản hoạt tự sửa lại. ↵
- 'Quân' chữ nguyên thiếu, căn cứ vào bản các và 《Tống hội yếu》 binh 24-27 bổ sung. ↵
- 'Trạng' dưới có chữ 'thực' trong bản các. ↵