VII. TỐNG TRIẾT TÔNG
[PREVIEW] QUYỂN 504: NGUYÊN PHÙ NĂM THỨ NHẤT (MẬU DẦN, 1098)
Từ tháng 11 năm Nguyên Phù thứ nhất đời Triết Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 11, ngày Ất Tỵ mùng một, Thừa nghị lang Đô Huống được bổ làm Kim bộ viên ngoại lang, Hứa Kỷ làm Ngu bộ viên ngoại lang.
[2] Phương Thiên Nhược, Tân Chương Tín quân Tiết độ suy quan, được thử làm Chính tự.
[3] Trước đó, khi Thiên Nhược mới được triệu đối, Tăng Bố nói rằng Thiên Nhược không nên tiến cử. Vua hỏi: “Ai tiến cử vậy?” Bố đáp: “Thần không biết.” Vua nói: “Là Từ Đạc.” Bố tâu: “Thiên Nhược hung ác, mọi người đều ghét. Lâm Dự từng nói: ‘Ở Mân có hai kẻ hung ác, một người ở Quán các là Lâm Đán, một người đỗ cao khoa là Thiên Nhược. Đây là điều bất hạnh của triều đình.’ Trước đây, trong bài văn thi, hắn muốn cấm cố con cháu người Nguyên Hựu, tịch thu gia sản của họ. Đây là lời nịnh hót, không dám nói thẳng, mong bệ hạ xem xét.” Vua nói: “Hãy tạm cho hắn vào chầu.” Bố tâu: “Đã triệu đối thì không thể dừng lại, nhưng khi tiến cử, mong bệ hạ lưu ý xem xét kỹ.” Vua gật đầu đồng ý.
(Theo sử ký của Tăng Bố, tháng 10 ngày Nhâm Thìn, nay ghi chép kèm theo đây.)
[4] Tây tác phường sứ, Anh Châu thứ sử, Tri Lô Châu Vương Hiến Khả, sau khi mãn nhiệm kỳ thứ hai, được thăng làm Tả Kỳ Kỵ sứ, lại tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba. Vua bảo Tăng Bố: “Hiến Khả thời Nguyên Hựu cũng có dâng sớ.”
(Hiến Khả bị cách chức vào ngày 18 tháng 5 năm thứ hai.)
[5] Bố từng kể lại việc tố cáo và xử lý sự việc rằng: “Trước đây, Chương Đôn dâng lên bức thư của Dư Sảng, xuất phát từ nhà Đôn, mọi người đều nghi ngờ. Vua bèn cho lục tìm trong cung, tìm được bản chính, lại tìm được bức thư xin trả lại chính quyền. Tuy nhiên, Tuyên Nhân tháng sáu đã uống thuốc, Dư Sảng ngày 13 tháng bảy xin phục vị, đến ngày 3 tháng chín thì băng hà, nên không thể cứu được việc bị giáng chức trước đó. Vua nhân đó kiểm tra các văn bản của Dư Sảng, bèn thấy được bức thư của Trương Đôn Lễ và Vương Sư Ước dâng lên. Sau đó, cả hai người đều bị giáng chức. (Sư Ước bị giáng vào ngày 6 tháng này.) Vua lại nói, Chu Đỉnh, Lý Hứa và những người khác cũng đều có thư, lại nói Hứa phụ thuộc Trần Diễn, có thể bãi chức các. Khi dâng lên, lại nói việc không rõ ràng, nên thôi, và các văn bản của Chu Đỉnh cũng không được đưa ra, điều này có thể thấy được đức nhân hậu của thánh đức. Tuy nhiên, từ sau sự việc của Dư Sảng đến nay, mọi chuyện vẫn chưa dứt, mà Kiển Tự Thần và An Đôn lại nhiều lần dùng văn bản tố cáo và xử lý sự việc để thêu dệt, xin thi hành. Chỉ có ý Vua vẫn chậm rãi, nên những người bị hại cũng ít, nhưng bọn tiểu nhân hung hãn vẫn chưa chịu thu liễm.”
[6] Ngày Bính Ngọ, Vua phê: “Xem xét lại mệnh lệnh gần đây, Ngự Liễn Viện sắp tới Nam Giao, sai điều 50 quan đô liễn khiêng vật phẩm trước ngự, tự có thể xem xét nơi nào nhàn rỗi, xin rút lui để ứng phó. Viện này nhận chỉ thánh, qua đêm mới tấu, lại dẫn dụng điều lệ thường, không thi hành nữa. Tất cả quan lại liên quan, có thể giao cho Đại Lý Tự nhanh chóng xét hỏi và tấu lên.” (Sự việc ngày 3 tháng 11 trong 《Ngự Tập》, cần xem xét kỹ.) Lại phê: “Quan Ngự Liễn Viện là người thân cận nhất khi tiến cử xe ngự. Nay Lương Cát, xuất thân từ quân ngũ, có vẻ không phù hợp, có thể giao cho Lại Bộ xem xét, chọn người khác thay thế. Từ nay về sau, nếu thiếu quan, cứ theo đó mà làm.”
[7] Ngày Đinh Mùi, Quyền Điện trung Thị ngự sử Đặng Phỉ tâu: “Trước đây từng bàn về việc Hữu ty Lang trung Tôn (Mộc Tỵ) đi sát phỏng Hà Bắc, đầu tiên tiến cử thân đảng và môn nhân của các đại thần đang nắm quyền, nghe nói đã có chiếu bãi chức Hữu ty của (Mộc Tỵ), điều đi làm quan ở quận nhỏ. Xin sớm ban lệnh trách phạt để làm gương cho thiên hạ.” Gặp lúc (Mộc Tỵ) qua đời, chiếu rằng (Mộc Tỵ) vì là Hữu ty Lang trung khi qua đời, nên các ân lệnh đáng được hưởng đều không thi hành.
(Ngày 4 tháng 9, An Đôn có tâu, có thể tham khảo.)
[8] Hộ bộ tâu rằng trong lệnh về bổng lộc có ghi: “Quan lại về hưu nếu bản thân được đặc ân thăng chức, thì đều căn cứ theo chức vụ mới để cấp tiền lương”, xin thêm vào phần chú thích dòng chữ: “Những người được hưởng ân tứ y phục cũng theo quy định này.” Được chấp thuận.
(Bản mới không có.)
[9] Ngày Mậu Thân, Công bộ dâng lên quy định về việc xếp hạng các Giám quan đúc tiền khi mãn nhiệm kỳ, Hộ bộ dâng lên phương pháp bắt châu chấu, đều được chấp thuận.
(Bản cũ ghi rất chi tiết, nay theo bản mới.)
[10] Ngày Kỷ Dậu, Ngự sử Trung thừa An Đôn tâu rằng gần đây có tấu về việc Hàn lâm học sĩ Tưởng Chi Kỳ, vào đầu năm Nguyên Hựu, đã tâu xin xóa án cho Lý Sân, Tri châu Bạc, về tội khi còn làm Đề hình Giang Tây bị cách chức là quá nặng, mong xem xét lại tờ tấu trước và sớm ban chỉ xử lý. Chiếu cho Tưởng Chi Kỳ nộp phạt 10 cân vàng.
(Trâu Hạo có tâu.)
[11] Giám sát Ngự sử Thái Đạo tâu rằng các châu Tề, Vận, Tân, Thương bị lụt lớn, thiệt hại rất nghiêm trọng, nguyên nhân chính là do Bắc Ngoại Đô thủy Thừa ty từ tháng 7 năm ngoái đến nay, trong vòng một năm, hầu như không có biện pháp gì để phòng chống, dẫn đến tai họa ngày nay. Chiếu phạt Quyền Bắc Ngoại Đô thủy Thừa Đậu Nột 30 cân vàng. Lại lệnh cho Lương Chú điều tra kỹ những nơi nước sông tràn ngập, xem thuộc trách nhiệm của cơ quan nào và những người có tội, tâu lên đầy đủ.
[12] Quyền Điện trung thị ngự sử Đặng Phỉ tâu: “Các Giám ty Hà Bắc[1] cùng tiến cử Quyền Bắc ngoại đô thủy thừa Đậu Nột chính thức nhậm chức. Xét ra, Nột là con rể của đại thần đang nắm quyền, các Giám ty tham lam nịnh bợ quyền quý, vội vàng xu nịnh, quên mất chức phận, vượt quyền tiến cử, không chút e dè, xin trị tội phạm phận và xu phụ quyền thế.” Chiếu chỉ cho Lý Trọng, Trần Hệ, Vương Phu mỗi người nộp phạt 20 cân vàng.
(Đậu Nột là con rể của Chương Đôn. Trần Quán nói Vương Phu làm Đề cử Hà Bắc thường bình, sự việc ghi trong thực lục ngày 8 tháng 3. Trần Hệ làm Đề cử Hà Bắc lộ thường bình, vào ngày 6 tháng 5 năm Thiệu Thánh thứ 4. Lý Trọng làm Đề điểm Hà Bắc đông lộ hình ngục, cũng vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 4.)
[13] Ba tỉnh kiểm tra lại việc năm Nguyên Hựu thứ 7, Tuyên đức lang Tống Bảo Quốc tấu xin Thái hoàng thái hậu thân hành đến Thái miếu làm lễ. Chiếu chỉ truy hủy tất cả văn tự từ khi xuất thân của Tống Bảo Quốc, tước bỏ tên trong sổ quan chức.
(Tống Bảo Quốc trước kia được ghi chép đặc biệt chi tiết, nay theo bản mới.)
[14] Kinh lược ty Hoàn Khánh lộ tâu[2], Đô kiềm hạt Trương Thành cùng các tướng đánh đuổi giặc Tây xâm phạm Kinh Nguyên, bắt được hơn 500 tên. Chiếu chỉ ban thưởng tiền cho quân lính dưới quyền Trương Thành theo thứ bậc; các tướng sĩ có công, giao cho Kinh lược ty xét rõ rồi tâu lên.
[15] Xu mật viện tâu: “Gần đây giặc Tây đem toàn lực xâm phạm Kinh Nguyên lộ, bao vây thành trại, chỉ dựa vào quân đông, cốt sao đánh nhanh. Kinh lược ty bản lộ cùng các quan Thống chế, Phó đô tổng quản Vương Ân, các quan Thống lĩnh Diêu Hùng, Diêu Cổ, cùng các tướng Thống chế Hoàn Khánh, Tần Phượng là Chủng Phác, Vương Đạo, đều biết giữ vững, không khinh suất giao chiến, bảo toàn được quân sĩ, lại đóng giữ nơi hiểm yếu, phô trương thanh thế, khiến giặc không thể tiến sâu gây họa, khiến chúng không thu được lợi gì, đành thất vọng rút lui.” Chiếu chỉ ban thưởng bạc lụa cho Vương Ân và các tướng theo thứ bậc.
[16] Triều tán lang Dương Đĩnh được bổ làm Ngu bộ viên ngoại lang.
[17] Canh Tuất, Lại bộ tâu xin rằng những người được tuyển chọn nếu hợp lệ để dùng cử chủ quan thăng cải chức quan, ngoài việc tuân theo điều lệ hạn định số người và hợp dụng chức ty, còn cho phép tâu cử thêm, nhưng không được quá hai người. Được chấp thuận.
(Không có trong bản mới.)
[18] Ba tỉnh tâu rằng Trấn An lưu hậu, Phò mã đô uý Vương Sư Ước, vào thời Nguyên Hựu đã từng tâu xin cho phép một hai sứ thần trong điện trung, hoặc thần có văn tự[3], bí mật sai người nhận và dâng lên, lợi hại có thể hay không đều do Bệ hạ quyết định. Chiếu giáng Sư Ước làm Thái châu Đoàn luyện sứ.
(Sách 《Bố lục》 ngày Ất Tỵ tháng 11 chép rằng…, có thể tham khảo.)
[19] Hộ bộ tâu xin rằng các quan giám sát tại viện khúc ở kinh đô, mỗi năm nếu hoàn thành được khoản thuế 30 quan, thì giảm một năm khảo hạch. Được chấp thuận.
(Không có trong bản mới.)
[20] Tân Hợi, Vua ngự đến Lễ Tuyền Quan.
[21] Nhâm Tý, sở biên tu văn tự của Xu mật viện tâu: “Việc huấn luyện kỹ năng cho bộ quân dưới quyền các tướng, đều theo pháp lệnh hành hải; ngoài những người có danh tiếng, lấy mười phần làm chuẩn, bố trí sáu phần cung nỏ, hai phần thương bài thủ. Khi kết thành đội thì theo pháp đội; số thương bài thủ thiếu trong đội, sẽ dùng người hỗ tập để thay thế.” Được chấp thuận.
[22] Quý Sửu, Tuyên khánh sứ, Vinh châu Phòng ngự sứ, Nhập nội Phó đô tri Lương Tòng Chính được làm Cảnh Phúc điện sứ.
[23] Ba tỉnh tâu rằng vào cuối năm Nguyên Phong và năm Nguyên Hựu, Vương Củng nhiều lần dâng sớ bàn luận chính sự triều đình, bên trong bên ngoài đều là gian thần, muốn thay đổi hoàn toàn pháp độ của triều đình trước; Trương Bảo Nguyên nhiều lần dâng sớ bàn luận chính sự triều đình, phụ họa với gian thần. Chiếu chỉ rằng Triều tán lang Vương Củng đặc biệt truy hủy các văn tự cáo sắc từ khi xuất thân, bãi chức, giam lỏng tại Toàn Châu; Thông trực lang Trương Bảo Nguyên đặc biệt bãi chức, kéo dài thêm ba kỳ, cho cư trú tại Hiệp Châu.
(Theo báo cáo cuối năm Nguyên Phù: Người bị giam lỏng tại Toàn Châu, cựu Triều phụng lang, Thiêm phán Châu Vinh Vương Củng, vào cuối năm Nguyên Phong và năm Nguyên Hựu nhiều lần dâng sớ bàn luận chính sự triều đình, bên trong bên ngoài đều là gian thần, phụng thánh chỉ, đặc biệt truy hủy các văn tự cáo sắc từ khi xuất thân, bãi chức, giam lỏng tại Toàn Châu, phụng thánh chỉ tha về. Do đó có thể khảo cứu việc Trần Thứ Thăng tâu về Chương Đôn, xem thêm ngày 26 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ hai[4].)
[24] Lại bộ viên ngoại lang Vương Bác Văn tâu: “Theo luật, người thuộc hạ của tông thất, nếu dùng roi gậy tranh giành đường ngựa, sẽ bị đánh 80 trượng. Xin lệnh cho trăm quan cùng áp dụng một pháp luật.” Được chấp thuận, và xin tăng thêm hai bậc[5].
(Không có trong bản mới.)
[25] Đề cử Vĩnh Hưng quân đẳng lộ thường bình đẳng sự Thái Triệu tâu: “Theo điều tra đến ba châu Bân, Ninh, Khánh, trước đây khi tu sửa thành trại An Cương thuộc lộ Hoàn Khánh, đã thu mua gỗ từ các hộ giàu có[6]. Ngoài việc Tri châu Bân Châu Cừu Bách Ngọc đã bị giáng hai chức, Long đồ trực học sĩ, Hữu trung tán đại phu, Tân tri Hi Châu Tôn Lộ, Hoàng thành sứ, Văn Châu thứ sử, Tri Hãn Châu Lam Tòng Chu, Triều phụng lang, Thông phán Thái Nguyên phủ Lý Công Dụ, Phụng nghị lang, Tân tri Tào Châu Nam Hoa huyện sự Hàn Tự, Tuyên nghĩa lang, Tri Kinh Châu Cảnh Nghị đều bị giáng một chức.”
[26] Ngày Kỷ Mùi, Thị lang Lại bộ Hoàng Thường tâu: “Theo quan chế thời Nguyên Phong, phàm những người nhập phẩm đều được cấp cáo thân, còn những người không có phẩm thì được cấp hoàng điệp, vì vậy dù là tiểu sứ thần cũng đều được cấp cáo thân. Sau này, vì việc thời vụ cần giản tiện, nên mới thi hành tuyên tráp chỉ huy, điều này về lý là không ổn. Xin từ chức tá, phụng chức trở lên, đều được cấp cáo thân, theo đúng quan chế thời Nguyên Phong.” Được chấp thuận.
(Sách cũ chép là khôi phục chế độ cấp cáo thân của tiên đế, sách mới đã bỏ.)
[27] Tam tỉnh tâu: “Nghe nói giá than đá trong chợ cao, mùa đông lạnh, dân nghèo không đủ dùng.” Chiếu chỉ giao riêng cho Ngô Cư Hậu lo việc bán than đá ở kinh thành.
(Sách mới đã bỏ.)
[28] Sở tường định trùng tu đại lễ sắc lệnh tâu rằng theo chiếu chỉ tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 4, khi tế tự ở tông miếu, người hát ở trên điện thì không cần bày thêm chuông khánh; cung giá ở sân thì không cần bày thêm đàn sắt; các nhạc cụ bằng bầu và trúc ở dưới điện thì không cần đặt ở bậc thềm. Chiếu chỉ rằng chuông khánh dùng khi hát đăng ca, đều theo chiếu chỉ năm Nguyên Phong thứ 4.
(Sách cũ chép là khôi phục lễ chế của tiên đế, sách mới đã bỏ.)
[29] Ty Phong tâu: “Theo pháp chế thời Nguyên Phong: ‘Từ Trung tán đại phu, tướng quân, đoàn luyện sứ, tạp học sĩ trở lên, mẹ và vợ đều được phong tặng quận quân; các quan thăng triều còn lại, mẹ và vợ đều được phong huyện quân. Từ Ngân thanh quang lộc đại phu, thái tử thiếu bảo, tiết độ sứ trở lên được phong quận phu nhân; từ Khai phủ nghi đồng tam ty trở lên được phong quốc phu nhân, đều dựa vào chức quan của con để phong tặng.’ Thời Nguyên Hựu cải cách chế độ, làm rối loạn pháp chế trước.” Chiếu chỉ rằng việc phong tặng đều theo pháp chế thời Nguyên Phong.
(Sách cũ chép là khôi phục pháp chế phong tặng của tiên đế, sách mới đã bỏ.)
[30] Ngày Canh Thân, Hình bộ tâu: “Những người đầu quân đổi ngạch nếu không có gia nghiệp, cho phép nộp tiền mặt từ 50 quan trở lên, nguyện nộp cho quan phủ thu quản để làm của thế chấp, thì được phép đầu quân đổi ngạch. Ở kinh thành thì nộp vào kho Kiểm hiệu của Phủ ty, ở ngoài thì nộp vào kho Quân tư của châu phủ mình thuộc về.” Vua theo lời tâu.
(Sách mới không chép.)
[31] Ngày Tân Dậu, Vua trai giới ở điện Đại Khánh.
[32] Ngày Nhâm Tuất, làm lễ tiến hưởng ở cung Cảnh Linh, xuống chiếu rằng quan đọc sách đến chỗ tên Vua thì không đứng dậy, từ nay về sau mỗi khi đọc sách đều làm như vậy, định thành lệnh. Sau đó, Vua trai giới ở Thái Miếu.
[33] Ngày Quý Hợi, làm lễ triều hưởng ở tám nhà thờ, rồi trai giới ở Thanh Thành thuộc Nam Giao.
[34] Ngày Giáp Tý, tiết Đông chí, làm lễ tế Trời ở đàn Viên Khâu, lấy Thái Tổ làm phối hưởng. Lễ xong, quần thần chúc mừng ở điện Đoan Thành. Vua trở về, ngự ở cửa Tuyên Đức, đại xá thiên hạ. Những quan viên bị biếm trích, trừ những người thuộc đảng Nguyên Hựu và những người có chỉ riêng, nếu chưa được dời đi nơi khác thì cho dời đi.
(Cuối tháng 10, có chép việc của Trâu Hạo.)
[35] Ngày Mậu Thìn, xuống chiếu cho Tân Vương Ngu và Giản Vương Tự, theo lệ của Thân Vương Tất khi ra khỏi phủ, được thêm tiền công sứ.
[36] Ngày Canh Ngọ.
(Xét: Ngày này nguyên bản có chỗ khuyết.)
[37] Ngày Tân Mùi, làm lễ cung tạ ở cung Cảnh Linh.
[38] Ngày Nhâm Thân, đến cung Thượng Thanh Trữ Tường.
[39] Tháng này, Cao Ly phái sứ giả Doãn Quán đến triều cống.
(Ngày mồng 2 tháng giêng năm thứ hai, theo lời của quán bạn Cao Ly, sứ giả Cao Ly Doãn Quán muốn vào ngày 13 từ biệt triều đình. Chiếu lưu lại. Kiểm tra các sách thực lục, không thấy ghi chép về ngày tháng Doãn Quán vào yết kiến. Lại xét sách 《Kê Lâm Chí》 của Vương Vân viết: Năm Nguyên Hựu thứ 5 và năm Nguyên Phù thứ nhất, sứ giả triều cống lại đến. 《Từ Cạnh Đồ Kinh》 cũng chép năm Nguyên Hựu thứ 5. Vậy thì đã thấy vào ngày mồng 5 tháng 12[7], riêng năm Nguyên Phù thứ nhất cần tra cứu thêm, tạm ghi vào cuối tháng 11. Lại xét, sứ giả Cao Ly từ năm Nguyên Hựu trở lại đây, nhiều lần đến kinh sư, không rõ vì sao Vương Vân chỉ nhắc đến hai năm[8], hay là khi viết sách chỉ có sứ giả triều cống này[9]? Cần tra cứu thêm.)
[40] Tháng 12, ngày mùng một Ất Hợi, chiếu rằng từ nay khi tuyên đọc sách xá tội và đức âm, cử một viên quan tiểu lưỡng tỉnh đến nơi tuyên đọc để chỉ ra cách ngắt câu[10].
[41] Bảo Văn Các đãi chế, Tri Tần Châu Lục Sư Mẫn thí Hộ bộ Thị lang.
[42] Tri Xu mật viện sự Tăng Bố tâu: “Bệ hạ vừa rồi vào ngày Giáp Tý đông chí, thân hành tế lễ ở Viên Khâu, từ khi phụng thờ ở Cảnh Linh, đã dẹp bỏ thảm hoàng đạo, chiếu cho quan đọc sách khi đến tên Vua thì không đứng dậy. Khi đến đại thứ, lại chiếu cho bách quan không được trở về ban, để tỏ rõ lòng kính sợ sâu xa. Đến cửa Thái Miếu thì xuống xe, vào trai cung và lên xe đi giao đều bỏ lọng, từ chối kiệu, đi bộ tiến lên. Khi dâng lễ, đến điện Thần Tông, cảm động rơi lệ. Khi trở về vị trí, nước mắt vẫn chưa khô, lòng thương xót khiến tả hữu đều cảm động. Thần đảm nhiệm chức phụ thần, nhiệm vụ là tán đạo, đều tận mắt chứng kiến. Kính xin ban bố cho sử quan[11], ghi vào điển sách.” Vua nghe theo.
[43] Ngày Bính Tý, văn vũ bách quan đều được gia ân theo sách xá của Nam Giao. Cấp sự trung Phạm Thang tâu: “Trung thư tỉnh gửi đến tân Tri châu Minh Châu Diệp Đào đổi làm Tri châu Hoài Dương quân, vì trong năm Nguyên Hựu có việc kêu oán cho những người bị tội triều trước là không đúng. Xét kỹ tờ trình của Đào, lời lẽ không khiêm tốn, xúc phạm triều trước. Nay chỉ giáng làm Tri châu quân, vẫn còn dân xã, chưa dám viết sớ thi hành.” Chiếu cho Đào làm Tri châu Hưng Quốc quân; Thang lại tâu, đổi làm Quản câu Sùng Hi quán.
(Trần Quán nói thế, Trâu Hạo nói thế.)
[44] Hộ bộ tâu: “Các kho vụ cấp vật dụng cho các cơ quan, đều do giám chuyên ký tên đóng dấu cung cấp và giao cho người nhận, đợi đến nơi quan chức kiểm nhận cân đo giao nhận; những thứ không thể ký tên đóng dấu thì chỉ đóng dấu mẫu giao nhận.” Vua nghe theo.
(Sách mới không ghi.)
[45] Ngày Đinh Sửu, Hồng lư thiếu khanh Triệu Sơn Kỷ được bổ nhiệm làm Thái bộc thiếu khanh.
(Theo 《Cựu lục》, ngày 9 tháng 8, Thái bộc khanh Triệu Lệnh Thước được bổ làm Hồng lư thiếu khanh, Triệu Sơn Kỷ làm Thái bộc thiếu khanh. 《Tăng Bố nhật lục》 chép: Lệnh Thước vì việc thu thuế và đổi giấy tờ nên bị điều chuyển vị trí[12]. Lại theo 《Cựu lục》, ngày 19 tháng 10 lại chép Triệu Lệnh Thước làm Tri châu Quang Châu, ở đây lại chép Hồng lư thiếu khanh Triệu Sơn Kỷ làm Thái bộc thiếu khanh, không khớp với ghi chép ngày 9 tháng 8, e rằng thực lục có sai sót, cần xem xét kỹ để sửa lại.)
[46] Hữu ty viên ngoại lang Lưu Chửng được thử chức Thái thường thiếu khanh, Thái thường thiếu khanh Trương Thương Anh được bổ làm Tập hiền điện tu soạn, kiêm chức Phát vận sứ các lộ Giang, Hoài, Kinh, Chiết.
(《Gia truyền》 chép: Ông được triệu làm Thái thường thiếu khanh, chưa kịp vào triều yết kiến, đã được đổi làm Tu soạn, Phát vận sứ. Theo ghi chép, Thương Anh được bổ làm Thái thường thiếu khanh vào ngày 26 tháng 11 năm thứ 4, không lý nào hơn một năm không nhậm chức. Ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Sửu, Tăng Bố bàn việc bổ Thương Anh làm Đãi chế, Tri châu Doanh Châu, cũng nói là từ chức Thái thường thiếu khanh mà bổ. 《Gia truyền》 chắc chắn có sai sót, nay bản truyện dựa theo 《Gia truyền》 nên cũng sai.)
[47] Kinh lược sứ lộ Phu Diên Lữ Huệ Khanh tâu rằng, tại thành Uy Nhung và các nơi khác đã tiếp nhận thủ lĩnh quy thuận từ phương Tây là Mật Ô Thành Vĩ, xét theo lệ nên bổ làm Nội điện sùng ban. Được chấp thuận.
[48] Quán bạn Cao Ly sở tấu: “Doãn Quán đã định ngày khởi hành về nước vào tháng giêng năm sau, thần đã khéo léo khuyên bảo Quán nên tạm dừng lại. Sau đó, trong bữa ăn, họ lại nói nghe nói đang sửa cầu châu, sợ rằng cửa sông sẽ bị đóng lại không có nước. Thần chưa thấy thời hạn hoàn thành việc đào sông, lo ngại sứ đoàn lên đường sẽ gặp trở ngại vì nước sông.” Vua phê: “Xét thấy sứ giả Cao Ly đến kinh đô chưa lâu, nên gửi thông báo cho quán bạn sở, tỏ ý triều đình đã nhiều lần ưu đãi và muốn lưu lại. Việc đào sông và xây cầu, có thể xem xét kéo dài thêm ngày tháng rồi mới bắt đầu, đồng thời gửi thông báo để họ biết, nhân lúc rảnh rỗi khéo léo giải thích.” Sau đó, lệnh cho sứ giả Cao Ly vào cuối tháng hai từ biệt triều đình, đầu tháng ba chọn ngày tiễn đưa.
(Sự việc ngày 3 tháng 12 trong 《Ngự tập》, 《Thực lục》 ghi ngày 2 tháng giêng năm sau, nên bỏ phần này giữ lại phần kia.)
[49] Ngày Mậu Dần, nước Liêu cử sứ giả là Tiêu Chiêu Ngạn, chức Phụng Quốc quân Tiết độ sứ, và phó sứ là Trung tán đại phu, Thái thường thiếu khanh, sung chức Càn Văn các đãi chế Vương Tông Độ đến chúc mừng lễ Hưng Long tiết.
[50] Ngày Kỷ Mão, Thượng thư Tả thừa Thái Biện tâu: “Mùa thu vừa qua, lễ Đại hưởng được cử hành ở Minh đường, thần được sai làm người dâng lễ đầu tiên, đến điện Vọng tế ở Nam Giao để hành lễ. Thần thấy điện này quy mô nhỏ hẹp, bậc thềm thấp, chưa đủ để thể hiện sự trang nghiêm. Nghe nói Minh đường là cung điện thiên tử ban bố chính sự, nơi tiếp kiến chư hầu, và là nơi tiên vương tế tự tổ tiên, phối hưởng với Thượng đế, để bày tỏ lòng hiếu kính. Triều đình từ thời Hoàng Hựu đã khôi phục điển lễ, bắt đầu cử hành tế tự ở điện Đại Khánh, đến nay vẫn theo lệ đó, đúng là giữ được ý nghĩa cổ xưa của tế tự tổ tiên. Chỉ có việc hàng năm cử hành tế lễ ở nơi này vẫn chưa thật ổn[13]. Kính nghĩ rằng việc tế tự Thượng thần, phối hưởng với tiên đế là việc trọng đại, dù sai quan đại thần thay mặt cũng phải làm đúng lễ[14]. Thần thấy điện Đoan Thành ở trai cung Nam Giao mới xây, là nơi thiên tử trai giới tế tự và sau lễ tiếp kiến quần thần. Điện này ở phía nam kinh thành, cao ráo rộng rãi, có thể dùng để tế thần, cử hành lễ ở đây cũng hợp với ý nghĩa cổ xưa. Xin từ nay về sau, ngoài lễ Đại hưởng vẫn theo lệ cũ, còn lễ Đại hưởng mùa thu hàng năm xin đổi cử hành ở điện Đoan Thành.” Được chấp thuận.
[51] Chiếu truy phong tằng tổ phụ của Hoàng thái hậu là Hướng Mẫn Trung làm Ngụy vương, truy phong làm Hàn vương, tổ mẫu là Lương thị, Trương thị, Tống thị, Vương thị được cải tặng làm Trần quốc, Lỗ quốc, Dự quốc, Ung quốc Thái phu nhân; ông nội là Hướng Truyền Lượng được truy phong làm Lỗ vương, truy phong làm Đường vương, bà nội là Ngô thị được cải tặng làm Duyễn quốc. Cha là Hướng Kinh được truy phong làm Trần vương, truy phong làm Ngô vương, mẹ là Lý thị, Trương thị được cải tặng làm Kinh quốc, Dương quốc; tằng tổ phụ của Hoàng thái phi là Thôi Thực được tặng làm Thái tử Thái bảo, bà cố là Liễu thị được tặng làm Ngô quốc; ông nội là Thôi Lâm được tặng làm Thái phó, bà nội là Dương thị được tặng làm Tần quốc; cha là Thôi Kiệt được tặng làm Thái úy, truy tặng làm Thái sư, mẹ là Lý thị được cải tặng làm Đường quốc; cha kế là Chu Sĩ An được tặng làm Kiến Vũ quân Lưu hậu, truy tặng làm Bảo Ninh quân Tiết độ sứ.
[52] Khai Phong phủ Thôi quan Tiền Cái được bổ làm Hình bộ Viên ngoại lang.
[53] Kinh Nguyên lộ Kinh lược sứ Chương Tiết tâu:
[54] Theo chỉ dụ ngày 7 tháng 6, ngày 19 tháng 9, ngày 2 tháng 10, và ngày 25 tháng 11, đã xem xét và trình bày những lợi hại của việc xây dựng như sau:
[55] Một, muốn liên thông biên giới giữa hai lộ Kinh Nguyên và Hi Hà, thì nên trước tiên xây dựng ở phía tây bắc trại Đãng Khương thuộc lộ Kinh Nguyên, tại Chính Nguyên và Sái Thủy Bình, mỗi nơi một trại rộng 800 bước, và tại Nam Mâu Hội xây một thành rộng 1.200 bước. Nếu không xây dựng ở Chính Nguyên mà đi thẳng đến Sái Thủy Bình, thì nên xây một trại rộng 600 bước dọc đường từ trại Đãng Khương đến Sái Thủy Bình. Chỉ vì đi thẳng giữa đường khó tìm được nguồn nước, e rằng không thể xây dựng được pháo đài, nên phải đi từ Chính Nguyên. Hiện tại chưa dám quyết định nơi xây dựng pháo đài giữa đường, đợi khi quân hành, sẽ tùy thời xem xét thi hành.
[56] 1. Nay muốn tiến hành xây dựng các nơi, từ Đãng Khương trại đến Sái Thủy Bình khoảng 70 dặm, Nam Mâu Hội khoảng hơn 100 dặm, chỉ tính hai nơi xây dựng, mỗi nơi cần huy động 2-3 vạn người để bảo vệ. Trong khoảng 100 dặm đó, cần tuần tra, bảo vệ đường vận lương, cùng với việc thám sát phía trước, trông chừng xung quanh, tuần tra, phục kích các nơi, cần thêm khoảng 1 vạn người để kiêm nhiệm. Giặc đã biết lợi thế của việc đánh vào chỗ yếu, bản lộ đã tiến hành xây dựng ở Thiên Đô và các nơi khác, chỉ có thể che chắn được các thành trại ngoài núi, có thể để lại một số binh mã phòng thủ, nhưng đến như khu vực Thiên Thánh, Càn Hưng trại ở phía đông Trấn Nhung quân, cần phòng ngự quân giặc cướp bóc, nếu không để lại 1 vạn quân thì khó lòng đối phó. Chỉ dùng binh mã của đại lộ và 1 vạn 5 ngàn quân Hoàn Khánh, thực sự không đủ để phân bổ sử dụng, cần phải hội hợp binh mã của bốn lộ như khi xây dựng Bình Hạ, Linh Bình trước đây, mới có thể đảm bảo an toàn.
Lại thêm gần đây quân giặc tấn công bao vây Bình Hạ thành, sau khi rút lui, ba lộ quân truy kích dính chặt ở Hồ Lô Hà xuyên, giặc lại chọn kỵ binh tinh nhuệ xuất hiện ở Thiên Thánh, Càn Hưng trại. Khoảng cách địa lý không quá xa, giặc đã có thể đoán biết thế lực quan quân không thể ứng cứu kịp, nên dám xuất hiện gây rối. Tương lai khi tiến hành xây dựng ở Sái Thủy Bình và các nơi khác, so với Hồ Lô Hà xuyên[15], khoảng cách đến Thiên Thánh, Càn Hưng trại lại xa gấp đôi, thực sự là nơi giặc có thể đánh vào chỗ yếu và xuất hiện[16]. Trong tờ trình đã nêu, muốn để lại 1 vạn quân phòng thủ và chiếu cố, nhưng vẫn lo lực lượng quá ít, khó lòng đối phó. Các thành Bình Hạ, Linh Bình trại, lo rằng trong tương lai khi tiến hành xây dựng, cũng cần để lại binh mã chiếu cố. Vì vậy cần phải hội hợp binh mã của bốn lộ, mới có thể phân bổ sử dụng đủ, chỉ mong Thánh từ mạnh mẽ chủ trương thi hành.
Lại xét năm ngoái khi xây dựng Bình Hạ thành và các nơi khác, đã mượn 3 vạn bộ binh và kỵ binh của Hi Hà, 1 vạn quân của Tần Phượng và Hoàn Khánh. Nay xin hội hợp binh mã của ba lộ trên, nếu Hi Hà vì các thành trại mới xây mà chiếm dụng nhiều binh mã, thì xin chỉ mượn 2 vạn bộ binh và kỵ binh, còn Tần Phượng và Hoàn Khánh mỗi nơi mượn 1 vạn 5 ngàn quân kỵ. Vì bản lộ từ năm ngoái đến nay, đã xây thêm 6 thành trại, 7 bảo tử, chiếm dụng số lượng binh mã không ít, nay lại cần đóng quân ở Thiên Thánh, Càn Hưng và các nơi khác, tức là binh mã bảo vệ xây dựng của bản lộ chỉ còn hơn 3 vạn người.
[57] 1. Có người bàn rằng mùa thu nay giặc đã điểm tập binh mã, sang xuân tất khó khởi binh. Thần cùng các tướng tá lão luyện việc biên cương và các quan phiên có năng lực bàn bạc kỹ, cho rằng Nam Mâu Hội, Thiên Đô là những nơi trọng yếu của người Tây Hạ, chắc chắn họ sẽ ra sức tranh chiếm. Nếu quan quân ta tiến đến xây dựng, dù người Hạ không thể huy động toàn quốc, nhưng chỉ cần điều động mười mấy vạn quân từ các nơi gần đó cũng không quá khó khăn. Nếu cho rằng mùa thu đã điểm tập, sang xuân khó khởi binh, thì vào tháng 9 năm Thiệu Thánh thứ 3, giặc đã đến cướp Phu Diên, sang tháng 3 năm sau lại xuất hiện ở khu vực sông Hồ Lô thuộc bản lộ, không thể vội cho rằng họ đã kiệt quệ, không còn khả năng gây hấn. Việc biên cương hiện nay đã đến mức này, nếu có sai sót, sẽ khiến khí thế giặc tăng lên, làm tổn hại công lao trước đó, không phải là kế sách hay. Lý Trung Kiệt là người Thiên Đô, cũng nói rằng nếu ta đến đó xây dựng, người Tây Hạ tất sẽ tranh chiếm, nếu không điều động đông quân, không dám đảm bảo không có sơ hở. Ông còn nói rằng năm nay khi đến kinh sư, cũng đã từng trình bày việc này với triều đình. Gần đây, các bộ lạc đầu hàng cũng đã báo rằng giặc định vào khoảng tháng 2 năm sau sẽ lại xuất hiện. Kính mong xem xét.
[58] 2. Nếu Kinh Nguyên đã xây dựng xong Nam Mâu Hội, Thiên Đô, tức là đã che chắn được mặt biên giới của Hi, Tần hai lộ. Khi đó, Hi, Tần cần hợp binh mã xây dựng thành trại, không câu nệ thời tiết, rất dễ thực hiện. Nếu bắt Kinh Nguyên, Hi Hà cùng lúc khởi công xây dựng, cho rằng có thể tiếp ứng lẫn nhau, lúc nguy cấp có thể cứu viện, thần xét thấy Nam Mâu Hội cách Đông Lãnh Mâu không dưới hai ba trăm dặm, thanh thế không thể tiếp ứng, lúc nguy cấp không thể chiếu cố lẫn nhau. Ở Kinh Nguyên, binh lực mỏng yếu, chắc chắn không thành công; còn ở Hi Hà, có binh mã Kinh Nguyên án ngữ con đường trọng yếu của người Tây Hạ, làm lá chắn bảo vệ, dễ dàng khởi binh. So sánh lợi hại của hai lộ, rất khác nhau, thứ tự khởi binh trước sau, nhanh chậm, đương nhiên phải như vậy.
[59] 1. Trong bản tấu này, thần đã bàn bạc trực tiếp với Tôn Lộ, cho rằng cần phải hội hợp binh mã, trước tiên giải quyết xong các nơi như Thiên Đô, Nam Mâu Hội, chứ không phải thần dám tự ý phân biệt đây đó, kéo dài thời gian. Hơn nữa, thần trước đây trong tháng 5 đã xin hội hợp binh mã của Hoàn Khánh, Tần Phượng, chỉ dám tâu xin tiến hành xây dựng Một Ngạnh Tiền Hạp, lúc đó thấy có cơ hội thuận lợi, liền một mặt phân binh mã tu sửa Một Ngạnh Hậu Hạp. Nay việc tiến hành xây dựng các nơi, nếu chỉ dùng binh mã của Hoàn Khánh là có thể hoàn thành, sao cần làm phiền triều đình phải điều động binh mã từ các nơi khác? Kính mong được xem xét kỹ lưỡng.
[60] 2. Binh mã của Hi Hà, Tần Phượng, xin được điều động khoảng 5-7 nghìn người để phòng thủ và tuần tra dọc theo đường từ Đãng Khương Trại, số binh mã còn lại xin giao phó trách nhiệm xây dựng thành trại tại Nam Mâu Hội; đồng thời xin lệnh cho Tôn Lộ một mặt cân nhắc, hoặc tự mình đến tiền tuyến, hoặc chỉ ở gần nơi đang xây dựng thành trại mới để quản lý binh mã của Hi Hà, Tần Phượng. Việc này thần đã bàn bạc trực tiếp với Tôn Lộ, cần xin chỉ thị từ triều đình.
[61] 3. Trong tương lai khi tiến hành xây dựng, thần sẽ đến Bình Hạ Thành hoặc Đãng Khương Trại để quản lý quân mã. Nếu triều đình cho phép Tôn Lộ đi qua Kinh Nguyên, xin chỉ thị cho thần cùng bàn bạc và thực hiện. Tất cả việc phân chia, điều động binh mã, bổ nhiệm quan viên, sứ thần, cũng như các biện pháp khác tại tiền tuyến và việc xây dựng cùng các tướng lĩnh của bốn lộ, đều xin để thần và Tôn Lộ cùng quản lý và chỉ huy.
[62] 4. Trong bản tấu này, thần đã chỉ định tiến hành xây dựng thành trại tại ba nơi: Nam Mâu Hội, Sái Thủy Bình, hoặc Chính Nguyên, hoặc đường giữa Sái Thủy Bình, nhưng đây chỉ là ước lượng dựa trên tình hình địa lý, nếu lúc thực hiện có thay đổi, xin cho phép thần tự quyết định và thực hiện.
[63] Một, xét từ năm ngoái đến nay, việc xây dựng các thành trại trên địa bàn này đều không vượt quá bốn mươi dặm, như thành Bình Hạ cách trại Hi Ninh chỉ hơn ba mươi tám dặm. Nay muốn xây dựng ở nơi cách xa hơn trăm dặm, lo ngại việc vận chuyển sẽ khó khăn. Điều tra được rằng ở các nơi như Chính Nguyên và Sái Thủy Bình, tuy rừng núi gần đó, nhưng chỉ có gỗ lớn, còn các vật liệu như gạch ngói thì phải vận chuyển từ các nơi như trấn Cửu Dương, Khương Thông Hạp, Đãng Khương, trại Linh Bình, thành Bình Hạ, v.v. Ngoài ra, cỏ ngựa mùa thu năm nay bị ngựa giặc dẫm đạp lâu ngày, từ khu vực Nam Mâu Hội trở đi đều đã bị phá hủy, chỉ còn lại đất trống, không như khi xây dựng thành Bình Hạ còn có cỏ để sử dụng, nên cũng phải vận chuyển từ xa đến. Xin được thuê xe cộ và súc vật trong địa bàn, ngoài việc điều động bảo giáp, còn cần thuê xe cộ và súc vật từ các địa bàn Hi Hà, Tần Phượng, đồng thời điều động bảo giáp từ Tần Phượng đến, để tránh kéo dài thời gian, nhanh chóng hoàn thành công việc.
[64] Hoàng thiếp tử:
[65] Nam Mâu Hội là nơi ở của ngụy nội, đất Thiên Đô là nơi chăn nuôi, cày cấy màu mỡ, nhân lực tinh nhuệ, sản xuất ngựa tốt. Người Hạ chiếm được nơi này thì có thể lập quốc, mất nơi này thì cả binh lực lẫn lương thực đều bị thiếu hụt. Tương lai tiến hành xây dựng thành trại, chiếm cứ xong xuôi, người Hạ chỉ còn lại Hưng Linh, tuy chưa diệt vong nhưng thế lớn đã định. Nay triều đình muốn nhân việc này tạo lợi ích lâu dài cho biên phòng, việc lao dân động chúng khó tránh khỏi, đây không phải là thần dám phô trương việc lớn, quá đòi hỏi. Lại xét năm ngoái tu sửa thành Bình Hạ, được triều đình cấp cho quân Sương, Cấm tổng cộng bốn vạn người, tuy lúc đó thiếu người quản lý, không đạt được số lượng trên, nhưng thực tế cũng gần được ba vạn người. Tương lai tiến hành xây dựng Thiên Đô, không có số người hỗ trợ công việc như trên, so với việc năm ngoái đã giảm bớt, còn việc vận chuyển lại càng khó khăn hơn. Bởi thành Bình Hạ chỉ vận chuyển trong phạm vi bốn mươi dặm, lại điều động bảo giáp của bản lộ[17], thuê xe ngựa từ hai lộ Hi Hà, Tần Phượng. Tương lai vận chuyển xa đến trăm dặm, nếu chỉ dùng phương tiện vận chuyển của lộ Kinh Nguyên, chắc chắn không thể vận chuyển kịp, làm sao có thể tập trung bốn lộ nhân mã bên ngoài để tiến hành xây dựng mà các vật dụng cần thiết lại không thể chuyển đến? Kéo dài thời gian, chắc chắn không thành công. Xin được thuê bảo giáp của Hi Hà, Tần Phượng theo lệ tu sửa thành Bình Hạ, thế bất đắc dĩ, mong được xem xét kỹ lưỡng.
[66] Một, từ năm ngoái đến nay, bản lộ đã xây dựng tám thành trại và pháo đài phòng thủ, lại có năm pháo đài không phòng thủ, ngoài việc triều đình hai lần điều thêm mười lăm chỉ huy binh sĩ, còn lại chỉ là điều động nhân mã của bản lộ đến phòng thủ, hai lần chiếm dụng hai vạn người. Nay lại bàn việc tiến hành xây dựng, bản lộ thực sự khó mà điều động thêm, xin triều đình cấp năm đến bảy nghìn quân mã, bộ đến đây. Mong rằng các thành trại mới cũ đều không bị thiếu hụt.
[67] Hoàng thiếp tử:
[68] Xét lại việc trước đây, khi phòng thủ thành Bình Hạ, dân binh, chính binh và cung tiễn thủ tổng cộng khoảng bốn, năm nghìn người, mới có thể đối phó khi quân giặc kéo đến vây thành mà không xảy ra sơ suất. Nay muốn xây dựng ba thành trại, thì cần phải thêm hai ba đồn bảo ở những nơi hiểm yếu trên đường quân giặc tiến đến. Số người cần để phòng thủ, e rằng dù có thêm năm, bảy nghìn người cũng chưa đủ.
[69] Một điều mà thần thường lo lắng là, dù mở rộng biên giới và xây dựng nhiều thành trại, nhưng lương thực, cỏ khô đều do quan phủ mua với giá cao; quân lính phòng thủ cũng do triều đình tăng thêm, hoặc phải điều động từ nhiều nơi trong bản lộ. Tham lợi bên ngoài mà làm suy yếu bên trong, vừa không có lợi lâu dài cho biên phòng, vừa khiến đất đai mới khai phá chưa thể canh tác; cung tiễn thủ mới chiêu mộ cũng chưa sắp xếp được thứ tự. Hiện nay, triều đình muốn thông suốt biên giới giữa Kinh Nguyên và Hi Hà. Nếu Kinh Nguyên đã xây dựng xong các nơi như Sái Thủy Bình, Nam Mâu Hội, còn Hi Hà từ Đông Lãnh Mâu, Đả Thằng Xuyên, Hội Châu kéo dài liên tiếp về phía trước, bao trùm được một vùng đất rộng hàng trăm dặm, thì đúng là lợi ích lớn cho biên phòng. Chỉ vì trong hai, ba năm qua, hai lộ mới xây dựng thành trại và đồn bảo, nên lương thực, cỏ khô trong đó, quan phủ không dễ cung ứng. Hơn nữa, dân chúng chưa muốn rời xa quê hương để đăng ký làm cung tiễn thủ, nên quân phòng thủ đều phải tăng thêm quân chính quy. Có người bàn nên từ Thiển Tỉnh xây dựng, kéo dài về phía bắc, chủ yếu là để chiêu mộ con em và người thân của các gia đình cung tiễn thủ gần bên lộ Tần Phượng, cho họ nhập ngũ làm cung tiễn thủ ở biên giới mới. Sau ba, năm năm, họ canh tác ổn định, đều sẽ trở thành quân tinh nhuệ. Nếu triều đình muốn nhanh chóng thông suốt biên giới, thì kế hoạch Thiển Tỉnh có thể tạm gác lại không bàn đến.
[70] 1. Việc xây dựng sắp tới cần tiến hành vào mùa xuân ấm áp hoặc khoảng tháng tư. Tất cả vật liệu xây dựng như gỗ làm tháp canh, các công cụ đắp đất, cùng các dụng cụ phòng thủ và vật dụng khác, hiện nay đã được lên kế hoạch và sắp xếp theo thứ tự. Lương thảo cần dùng nên giao cho các quan phụ trách lương thảo của ba lộ Hi Hà, Tần Phượng, Kinh Nguyên thống nhất tính toán và chuẩn bị thì mới có thể hoàn thành. Xin triều đình đặc biệt ban chỉ thị. Vì lộ này sau khi bị giặc cướp phá, như ở Trấn Nhung quân cùng các nơi Tam Xuyên, Định Xuyên, Hi Ninh, Cao Bình và sáu thành trại mới xây, số lượng lương thảo hầu như đã dùng hết. Kính mong xem xét.
[71] Tờ trình vàng:
[72] Xét việc xây dựng thành Bình Hạ và các nơi khác, huy động bốn lộ nhân mã, chi phí lương thảo rất lớn. Vì lúc đó các thành trại dọc biên giới đều có kho dự trữ sẵn, chỉ cần vận chuyển đến; nhưng hiện nay các thành trại mới và cũ ở vùng biên xa, số lượng lương thảo không như trước, thiếu hụt nghiêm trọng. Nếu chỉ giao cho một quan phụ trách lương thảo của một lộ đảm nhiệm, chắc chắn sẽ không đủ. Kính mong xem xét kỹ. Những điều trình bày trên, kính mong bệ hạ xem xét, nếu có thể thi hành, xin sớm ban chỉ thị. Tờ trình vàng:
[73] Xét kỹ việc tiến hành xây dựng đồn lũy, xuất phát từ tình thế bất đắc dĩ, chưa phải là kế sách tối ưu; nếu muốn từ bỏ kế sách này, tập hợp quân mã các lộ tiến đánh lớn vào địa giới, thì lại hao tổn sức dân, kéo dài việc điều động binh mã, chưa chắc đã bảo đảm thành công; tình thế buộc phải theo kế sách xây dựng đồn lũy, chiếm giữ một số vị trí trọng yếu, từng bước uy hiếp người Tây Hạ, chiêu dụ dân chúng, tiêu diệt các tiền đồn của nước Hạ. Hiện nay, vùng đất mà Kinh Nguyên đã chiếm giữ để xây dựng đồn lũy, thực sự là vị trí trọng yếu, người Tây Hạ gần đây tấn công vây hãm nhưng không thu được gì mà phải rút lui. Từ đây về sau, những người đầu hàng sẽ tiếp tục kéo đến, triều đình nếu không muốn tiến hành xây dựng đồn lũy thì thôi, nếu cần phải tiến lên chiếm giữ các nơi như Sái Thủy Bình, Nam Mâu Hội, mà lại hành động hấp tấp, một khi có sai sót, lòng người sẽ chán nản, khó lòng phấn chấn lại, bỏ phí công sức trước mà chuốc lấy họa về sau, dù có nghiêm trị những người chủ trì việc này, cũng không bù đắp được gì. Thần trong tờ tâu này trình bày, không dám phóng đại tình hình để coi việc xây dựng đồn lũy là mục đích. Thần chỉ mong quân đội triều đình mỗi khi hành động đều nhất định thành công, được ghi vào sử sách, lưu danh hậu thế, thần cũng được hưởng vinh dự. Kính mong bệ hạ xem xét kỹ những điều thần trình bày trong tờ tâu, đặc biệt suy xét và quyết định thi hành.
[74] Lại xét rằng, trong tháng giêng năm nay, triều đình đã ban chỉ dụ, lệnh cho tiến hành xây dựng các nơi như Chính Nguyên, hội hợp ba lộ quân mã. Đó là vì triều đình đã biết rõ địa thế hiểm yếu của nơi đó, người Tây Hạ chắc chắn sẽ đến tranh chiếm, nên cần phải dùng nhiều quân mã để phòng thủ và mở rộng. Há có thể vì người Tây Hạ mùa thu này đã từng tập hợp quân mà cho rằng họ đã suy yếu, không còn khả năng gì, nên có thể dễ dàng xâm phạm đất đai của họ? Thần ngu muội lo xa, cho rằng việc khởi binh như thế này chưa phải là kế sách vạn toàn để quyết định thành công. Giả như giặc Tây thực sự đã suy yếu, nhưng đến khi bị người khác chiếm mất vùng đất hiểm yếu và màu mỡ, là nơi mà cả nước họ dựa vào để quyết định sự mạnh yếu, an nguy, há lại chịu khoanh tay không làm gì, chỉ biết trố mắt nhìn mà thôi? Họ chắc chắn sẽ ngoan cố nhảy nhót, may mắn mà đến, để cứu chỗ nguy cấp, còn đâu rảnh rỗi để lo lắng xem nhân lực có khốn khổ hay không? Lại mong triều đình suy nghĩ thấu đáo, vì phúc lợi của biên phòng. Thần từ khi nhận được chỉ dụ ngày 7 tháng 6 năm nay, lệnh cho cùng với Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội lộ bàn bạc kỹ càng. Sau đó sai quan mang văn thư đến bàn bạc với suý thần Hi Hà là Trương Tuân, nhưng chưa bàn hết lợi hại thì triều đình lại đổi sai Tôn Lộ làm Tri Hi Châu. Sau đó lại nhận được chỉ dụ, lệnh cho thần cùng Tôn Lộ bàn bạc thêm về lợi hại. Vị quan này nhân đi nhậm chức qua Vị Châu, thần đã cùng ông ta trực tiếp bàn bạc đại khái như thế. Thần lo rằng khi vị quan này đến Hi Hà, sẽ thấy được lợi hại khác, hoặc những điều thần trình bày trong tấu chương chưa thỏa đáng, nên xin triều đình đem tấu chương này của thần giao cho Tôn Lộ xem xét thêm, nếu ông ta cũng cho rằng có thể thi hành, thì xin ban chỉ dụ ngay.
Lại nữa, tương lai Kinh Nguyên đã chiếm được các nơi như Nam Mâu Hội, Thiên Đô, muốn từ Hi Hà lộ thông tiếp biên giới. Trước đây tuy căn cứ vào bản đồ, hợp lệ nên xây dựng thành trại từ các nơi như Thanh Nam Nột Tâm, Đông Lãnh Mâu, nối tiếp nhau, nhưng cuối cùng do địa lý và địa thế nơi đó, thần vốn không am hiểu[18], chỉ nghe lời người khác, cũng khó mà tin hết. Chỉ như bản đồ vẽ được, mỗi mặt đều khác nhau, không có gì để đối chiếu, nay không dám tùy tiện bảo đảm, chỉ xin ban chỉ dụ cho Tôn Lộ một mặt xem xét, nhất định phải nắm rõ lợi hại chính xác.
[75] Chiếu rằng: “Những việc xin hội hợp binh mã bốn lộ, lệnh cho các lộ chọn cử tinh nhuệ, có thể xuất chiến, chuẩn bị ứng phó. Quân Hoàn Khánh lộ một vạn, trong đó kỵ binh ba nghìn, giao cho Chủng Phác thống chế; quân Hi Hà lộ kỵ binh hai vạn, giao cho Miêu Lí thống chế; quân Tần Phượng lộ bộ binh một vạn năm nghìn, kỵ binh năm nghìn, giao cho Lý Nghi thống chế. Lại yêu cầu các lộ nghiêm khắc lệnh cho thống chế quan chọn trước các tướng tá có năng lực, đợi khi Kinh Nguyên lộ điều động, lập tức phái đi ngay, không được chậm trễ; khi đến Kinh Nguyên lộ, đều nghe theo sự điều khiển của Chương Tiết. Yêu cầu Chương Tiết đợi khi có ngày hành động, mới được điều động.
Và lệnh cho Tần Phượng, Hi Hà theo lệ gần đây, thuê mướn những người không có ngựa, cung thủ, và những người trong gia đình có ngựa hoặc không có ngựa, phụ trách việc phục dịch, từ ngày xuất phát, cấp tiền ăn đường; nếu vẫn thiếu người, mới cho phép ở Tần Phượng lộ, trong số bảo giáp từ đẳng thứ ba trở lên, căn cứ vào số người cần thiết, điều động từ trên xuống để ứng phó, nhưng từ ngày xuất phát, không được giữ lại quá hai tháng. Nếu cần lương thảo, yêu cầu các quan phụ trách lương thảo ở Hi Hà, Tần Phượng, Kinh Nguyên lộ cùng nhau hợp lực lo liệu. Việc cung cấp lương thảo, không được để thiếu, ngoài việc thuê mướn phương tiện vận chuyển ở bản lộ, còn thuê thêm xe cộ ở Hi Hà, Tần Phượng lộ để vận chuyển. Những việc cần ràng buộc, đều theo chỉ dụ ngày 21 tháng 11 năm ngoái mà thi hành.
Và lệnh cho Tôn Lộ đợi khi Kinh Nguyên lộ thông báo ra khỏi biên giới để tiến hành xây dựng, lập tức giao lại công việc ở Hi Châu cho quan dưới quyền, mang theo công việc của Kinh lược an phủ đô tổng quản ty và các tướng tá binh mã cần thiết, đến các nơi gần biên giới Kinh Nguyên để xây dựng, đóng quân ở các thành trại thuận tiện, phô trương thanh thế binh mã, ứng phó gần đó. Việc Nam Mâu Hội, khó có thể bàn giao cho quân Hi Hà, Tần Phượng lộ phụ trách xây dựng, yêu cầu Chương Tiết chọn các thống chế quan có năng lực như Diêu Hùng, Diêu Cổ, cử một người, dẫn quân bản lộ và các tướng tá có năng lực, chuyên trách việc này; và trong số các thống chế quan binh tướng ở Hi Hà, Hoàn Khánh lộ, mỗi lộ cử một người, chia quân cần thiết cùng phụ trách xây dựng, còn lại đều theo lời tấu của Chương Tiết. Những việc không thể ban hành, không được ghi chép tùy tiện, để tránh lộ ra trước, gây hại cho việc cơ mật.”
(Đây đều căn cứ vào tấu nghị của Chương Tiết mà ghi chép. Cựu lục chép rất sơ lược, nay phụ chú ở sau. Tiết vào ngày 24 tháng 11 dâng tấu kế hoạch. Ban chỉ dụ, theo thực lục thì là ngày 5 tháng 12. Kinh lược sứ Kinh Nguyên lộ Chương Tiết tâu: “Xem xét lợi hại của việc tiến hành xây dựng, biên giới Hi Hà, Kinh Nguyên lộ thông nhau, nên trước hết xây dựng ở phía tây bắc trại Đãng Khương, chỗ Chính Nguyên, Sái Thủy Bình, mỗi nơi một trại rộng tám trăm bước, ở Nam Mâu Hội xây một thành rộng một nghìn hai trăm bước, chưa dám chỉ định chỗ xây dựng ở trung lộ, đợi khi quân hành động, tùy thời xem xét xây dựng. Nay tuy chỉ định ba nơi thành trại, chính là ước lượng hình thế địa lý, hoặc tùy thời thay đổi, xin cho thần chọn chỗ thuận lợi mà làm. Vẫn xin hội hợp binh mã để tiến hành xây dựng.” Chiếu cho các lộ chọn quân tinh nhuệ có thể xuất chiến, chuẩn bị ứng phó, và nghe theo Chương Tiết đợi khi có ngày hành động, mới được điều động.)
[76] Ngày Mậu Tý, Lý Đoan Xác, chức Thái Châu Quan sát sứ, Đề cử Lễ Tuyền quan, được bổ nhiệm làm An Đức quân Lưu hậu rồi về hưu, theo lời thỉnh cầu của ông.
[77] Giám sát Ngự sử Thái Đạo được bổ nhiệm làm Khảo công Viên ngoại lang.
[78] Ngày Kỷ Sửu, Hộ bộ tâu rằng: “Theo phép muối hiện hành, nếu các hộ quán muốn đến các châu, quân, bảo, trại dọc biên giới nộp lương thảo[19], tính giá trị rồi cấp giấy dẫn, đến Vĩnh Lợi giám để tính toán xin muối quan, thực sự là phương pháp lâu dài có thể thực hiện được.” Triều đình đồng ý.
(Phần mới bị cắt bỏ.)
[79] Kinh Đông lộ Chuyển vận ty tâu: “Thông trực lang Khổng Tông Thọ cùng những người khác, bảo đảm rằng Khổng Nhược Mông, em trai của Khổng Nhược Mông, nguyên là Chủ bạ huyện Quy An, châu Hồ, có thể kế thừa tước phong. Xin rằng sau khi Khổng Nhược Hư qua đời, cũng sẽ chọn người khác kế vị, không nhất thiết phải là con trai. Điều này nhằm giữ gìn tổ miếu, hòa thuận với tộc nhân.” Triều đình đồng ý.
[80] Ngày Canh Dần, sắc cho Ngự sử Trung thừa An Đôn tiến cử hai viên Giám sát Ngự sử để báo lên.
[81] Tam tỉnh tâu: “Những việc liên quan đến việc xem xét, tố cáo, xử lý văn tự, nếu có việc xóa án không đúng mà được chỉ cải chính, xin lệnh cho Lại bộ và Hình bộ liệt kê những việc đã được ân xá và số lần, trình bày cách cải chính hợp lý đến nay, rồi báo lên Thượng thư tỉnh.” Triều đình đồng ý.
[82] Tuyên đức lang Lý Tích Trung được quyền Đề cử Kinh Hồ Nam lộ Thường bình đẳng sự.
(Ngày 26 tháng 8, Lữ Gia Vấn tiến cử Tích Trung, cần tra cứu thêm về Tích Trung, nên ghi lại việc này. Ngày 22 tháng 2 năm sau, Tăng Bố nói thêm.)
[83] Ngày Tân Mão, ba tỉnh tâu rằng: “Ty Sát phỏng các lộ Hoài Nam, Lưỡng Chiết điều tra được việc Phát vận sứ Lữ Ôn Khanh ở huyện Kì Thủy, châu Kì, nhận bừa người giàu có Trần Tư làm thân thuộc, nhờ mua núi để làm bè (Mộc đại), ước giá ba nghìn quan. Lại sai gia đồng mạo danh Mã Tỷ bộ, đến các ty thuế xin giấy thông hành trước, đi qua các trường vụ, làm thiếu hụt tiền thuế. Lại sai Huyện thừa huyện Thanh Khê, châu Mục là Chu Hưng Tông mua hơn nghìn tấm lụa mạch tuệ ở châu Việt, đều không nộp thuế. Lại sai cấm quân ở châu Thư, Hoàng sung vào quân sương hợp phá, thuê người trong bộ làm nữ sử, lấy người 20 tuổi làm thợ thêu, lấy thiếu nữ 16, 17 tuổi làm vú nuôi.” Chiếu cho Viện Chế khám châu Dương căn cứ công lý mà điều tra kỹ, không được nhìn theo mà làm sơ sài.
[84] Xem xét văn thư tố tụng, thấy Trách thụ Thành châu Đoàn luyện phó sứ Ngô Cư Hậu tâu rằng: “Tội chỉ vì công việc, nay gặp triều đình mở rộng ân huệ, phàm có tội lỗi đều được tha thứ, lòng người không ai không vui mừng.” Chiếu phạt Cư Hậu đặc biệt ba mươi cân vàng[20].
[85] Lại kiểm hồ sơ các vụ án từ ngày 6 tháng 3 năm Nguyên Phong thứ 8 đến trước ngày ân xá Minh đường tháng 9 năm Nguyên Hựu thứ nhất, cũng xem xét tâu xin xóa án, nhưng không phải là số người bị xử án từ triều trước, e rằng không nên xem xét chung. Chiếu cho xem xét lại.
[86] Thái học bác sĩ Lưu Yểm làm Chính tự.
(Tăng Bố nói rằng việc này vào ngày 24 tháng giêng.)
[87] Ngày Nhâm Thìn, Quyền Điện trung thị ngự sử Đặng Phỉ tâu: “Nghe nói quan mới được bổ làm Tri Hà Trung phủ là Giả Thanh, trước đây khi làm Tri Tô châu, đã dán thông báo trên tường, treo thưởng để bắt những người nói tục. Mỗi khi bắt được người nói tục, đều phạt tiền nộp vào công khố, gom số tiền phạt đó để xây dựng nhà Lạc tịch. Có nhiều người dân nghèo không có khả năng nộp tiền nên đã tự tử. Khi làm Quyền Hàng châu, đem những vật phẩm cung cấp được gửi vào công khố, dùng để nấu rượu bán ra, thu lợi gấp đôi. Khi ở Thường châu, mua độ điệp cho những kỹ nữ cũ làm ni cô. Xin hạ lệnh cho Lưỡng Chiết sát phỏng ty điều tra xác minh sự việc.” Lại có báo cáo của Hoài Nam, Lưỡng Chiết lộ sát phỏng ty rằng: “Lưỡng Chiết chuyển vận phó sứ Giả Thanh, từ khi nhậm chức Tri Tô châu đến nay đã có nhiều việc làm trái pháp luật. Khi quan này đến Tô châu điều tra, lại nói rằng đã có văn bản sửa đổi và báo cáo.” Triều đình hạ chiếu cho Giang Đông chuyển vận ty điều tra rõ rồi tâu lên. Sau đó, Chuyển vận sứ Quách Mậu Tuấn điều tra được sự thật, bèn cách chức Giả Thanh, cho làm đề cử Sùng Phúc cung.
(Ngày 21 tháng giêng năm sau, cách chức Giả Thanh ở Hà Trung.)
[88] Tuyên đức lang Trần Cấu tâu, xin cho những quan Thủ, Lệnh có thành tích khảo khóa ưu tú được triệu về triều đình để xét duyệt và bổ nhiệm. Triều đình hạ chiếu rằng những quan Thủ, Lệnh có thành tích khảo khóa xuất sắc, Lại bộ mỗi năm phải liệt kê tên tuổi để xin chỉ dụ.
[89] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu rằng: Chiết Khả Thích bắt được Tây Khương thống quân Ngôi Danh A Mai và giám quân Muội Lặc Đô Bô. Chiếu rằng: “Ban thưởng tiền cho quân sĩ xuất trận có phân biệt. Lại hỏi rõ việc Muội Lặc Đô Bô thông đồng cùng báo cáo công trạng của những người lập công; sai sứ thần và binh lính hộ tống những người này cùng vợ con, mẹ và các thủ lĩnh lớn nhỏ về kinh. Trừ Muội Lặc Đô Bô từng có ý quy thuận nhà Hán, được miễn dùng xe cũi, chỉ bắt giữ theo pháp luật, còn Ngôi Danh A Mai thì dùng xe cũi gỗ khiêng đi, những người khác đều bị áp giải, sứ thần đều đi ngựa trạm về kinh.”
Ngôi Danh A Mai và Muội Lặc Đô Bô đều là người dũng mãnh, thiện chiến, nhiều lần gây họa ở biên giới. Chương Tiết dò biết họ sơ hở có thể đánh úp, bèn sai Khả Thích đem 2000 kỵ binh nhẹ ra khỏi Đãng Khương, chia làm sáu đường tiến vào, giặc không kịp biết, đêm vào nhà bắt được, bắt hết gia quyến, bắt sống và chém được hơn 3000 người, thu được trâu dê không dưới mười vạn. Tăng Bố tâu với Vua rằng: “Đây là công lao phi thường, có thể chúc mừng.” Vua hỏi: “Có thể chúc mừng không?” Tăng Bố đáp: “Quỷ Chương cũng được chúc mừng và báo cáo ở lăng miếu, công này không kém Quỷ Chương.” Chương Đôn và các quan đều nói: “Đây là kỳ công.” Vua bèn cho phép chúc mừng.
(Theo truyện Chương Tiết chép thêm. Ngày 22, Chương Tiết được thăng chức, ngày 19 tháng giêng năm sau, Chiết Khả Thích được thăng chức. Truyện Chiết Khả Thích chép: Khả Thích quyền làm tướng thứ 13, thống quân Khương Ngôi Danh A Mai và giám quân Muội Lặc Đô Bô đều là thủ lĩnh có quyền thế ở Tây giới, triều đình có chiếu mật bắt họ. Nhân lúc hai tù trưởng này lấy cớ chăn thả để do thám biên giới, Khả Thích xin xuất binh, đêm ngậm tăm đánh úp, bắt được gia quyến và bộ tộc hơn 3000 người, kê khai tài vật thu được, trị giá hơn mười vạn. Triết Tông ở điện ngự tiếp nhận tù binh, sai trung sứ ban áo bào, đai, vũ khí, vàng bạc. Đất thu được chính là núi Thiên Đô.
《Tăng Bố nhật lục》 chép: Ngày Nhâm Thìn tháng 11, cùng trình tấu của Kinh Nguyên: Chiết Khả Thích xuất biên giới, bắt được giám quân Muội Lặc Đô Bô và thống quân Ngôi Danh A Mai cùng vợ con, tài sản không sót người nào. Vua rất vui, vì hai tù trưởng này đều là người Tây Khương kiệt hiệt. Sai trung sứ ban trà thuốc khao thưởng tướng sĩ[21]. Tăng Bố nói: “Đây là công lao phi thường, có thể chúc mừng.” Vua hỏi: “Có thể chúc mừng không?” Tăng Bố đáp: “Quỷ Chương cũng được chúc mừng và báo cáo ở lăng miếu, công này không kém Quỷ Chương.” Các quan đều nói: “Đây là kỳ công.” Ngày Ất Mùi, cùng trình chiếu Kinh Nguyên dùng xe cũi đưa A Mai về kinh. Hôm đó, hai phủ soạn lời chúc mừng, Vua sai dược đang tuyên đáp, có câu “thực nhờ mưu kế của tông miếu”. Ngày Bính Thân, cùng trình việc ban áo chiến, đai và vàng bạc cho người bắt được thống quân giả. Vua nhiều lần khen ngợi Chiết Khả Thích.
Vì Khả Thích cùng Quách Thành đem hơn 2000 kỵ binh, chia làm sáu mũi đi bắt các tù trưởng Thiên Đô, người dẫn đường là bộ khúc của Muội Lặc Đô Bô tên là [Khẩu Dược] Ninh, vì sợ tội nên đầu hàng, nên biết rõ nơi ở của Đô Bô và A Mai. Lại dò biết nơi ở của họ không có binh mã, nên thẳng vào phòng ngủ bắt được. Lý Trung Kiệt chia quân đến núi Toả Tử bắt Nhân Đa Bảo Tông không được, nhưng suýt nữa bị bắt, thu được rất nhiều trâu dê và bộ tộc. Ngày Đinh Dậu, Chương Tiết được thăng làm Thái trung đại phu, lại ban 2000 lượng bạc và 2000 tấm lụa. Ngày Quý Tỵ, Vua sai Lưu Hữu Đoan dụ Chương Đôn, lệnh cho bách quan chúc mừng. Bèn định ngày 21 hai phủ soạn lời chúc mừng trước, ngày 22 bách quan chúc mừng. Lý A Nhã Bốc đã về kinh trước, Lưu Hữu Đoan quản câu. Vua sai Hữu Đoan hỏi Kinh Nguyên về hai tù trưởng bị bắt, A Nhã Bốc kinh ngạc nói: “Những người này đều có trí mưu, giỏi đánh giết, là người Khương rất có năng lực, không dễ bắt được.”
[90] Hữu chánh ngôn Trâu Hạo tấu: “Kính thấy ở Kinh Nguyên lộ chiêu hàng, bắt được thống quân, giám quân của Tây Hạ cùng các thủ lĩnh lớn nhỏ và dân chúng, gia súc, số lượng lên đến hàng vạn. Thiên hạ đều chúc mừng, cho rằng đó là chí nguyện của Tiên đế, mà Bệ hạ đã hoàn thành. Kinh thư nói ‘công lao của Thiên tử’, truyện nói ‘chỉ có quyết đoán mới thành công’, điều này không cần phải nói với Bệ hạ. Tuy nhiên, nhà binh khi chưa thắng thì lấy quyết thắng làm khó, đã thắng thì lấy giữ thắng làm khó[22], chỉ cần đúng thời cơ mà thôi. Chỉ biết quyết thắng trước mắt mà không biết giữ thắng về sau, thì sẽ bỏ mất công lao trước và chuốc lấy họa về sau, há không đáng cảnh giác sao! Thần e rằng các tướng súy, quen với việc thắng trận nhiều lần, không biết cách giữ gìn. Đắc chí thì chí khí lơ là, coi thường việc thì việc sinh ra, không thể giải tỏa nỗi lo xa của triều đình về phương Tây. Kính mong Thánh từ, ân cần ban lệnh, càng thêm thận trọng, lo nghĩ đến kết cục, không chỉ là may mắn cho biên cương, mà thực sự là may mắn cho thiên hạ.” (Tấu của Hạo phụ lục, cần tra cứu ngày tháng.) Hạo lại từng tấu: “Kính thấy gần đây Bệ hạ ngự ở điện Diên Hòa, cho các quan phiên về hàng vào yết kiến, lệnh họ trình diễn cung mã trước điện. Với uy đức của Bệ hạ rộng khắp, ai nấy đều thay lòng đổi dạ, vốn không có gì đáng lo, nhưng người Nhung vừa mới quy phục, lần đầu yết kiến, cũng nên đề phòng quá mức. Hơn nữa từ nay về sau, số người về hàng sẽ ngày càng đông, thần e rằng việc này một khi truyền đi, trong số họ không tránh khỏi có kẻ âm thầm ôm lòng hai mặt, nếu cho họ trình diễn, rõ ràng là không tiện. Kính mong Thánh từ, xét kỹ, từ nay về sau khi cho các quan phiên vào yết kiến, nên bỏ việc trình diễn cung mã.”
(Tấu này phụ lục, cần tra cứu thời gian.)
[91] Ngày Ất Mùi, Lễ bộ tâu: “Sắp tới ngày chánh đán, Bệ hạ ngự ở điện Đại Khánh để triều hội, xin đón nhận ‘Thiên thụ truyền quốc thụ mệnh bảo’.” Được chấp thuận, và lệnh này được ghi thành luật.
[92] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu: “Kính xem thời tiên đế tại vị, sáu cơ quan giám sát mỗi tuần đều tâu lên các việc đã đàn hặc. Các đại thần thời Nguyên Hựu cố làm đơn giản, đổi thành tâu mỗi quý, xin theo phép thời Nguyên Phong.” Được chấp thuận.
[93] Xem xét văn bản tố cáo có nói: “Triều tán đại phu Tạ Cảnh Sơ, trước đây giữ chức Đề hình phủ lộ Thành Đô, có quan hệ bất chính với kỹ nữ, đặc cách truất hai chức và bãi chức. Đầu thời Nguyên Hựu, Tôn Vĩnh, Lý Thường, Hàn Trung Ngạn, Vương Tồn tâu rằng ‘Cảnh Sơ chỉ vì bất đồng ý kiến với Ty đề cử mà bị vu cáo phạm tội’; lại nói ‘Triều đình đặc biệt lập cơ quan xử lý oan khuất, Cảnh Sơ không may đã mất, không thể tự minh oan.’ Thầm nghĩ Vĩnh và các người khác được tiên đế trọng dụng, giữ chức cấm tòng, ân sủng dày dặn, mà đất Dụ Lăng chưa khô, bọn gian thần đã vu cáo phỉ báng pháp luật, biến có thành không, lời lẽ bất kính, không kiêng sợ gì. Cơ quan tố cáo thời Nguyên Hựu nói ‘việc mập mờ, rõ ràng là oan khuất, đặc cách tâu xin minh oan’. Bèn xóa bỏ tội danh trước đây của Cảnh Sơ, thật là không đúng. Lại nữa, con trai Cảnh Sơ là Tạ Âm năm Nguyên Hựu thứ hai dâng trạng nói ‘nếu không phải triều đình ngày nay thanh minh, sao có thể minh oan dưới suối vàng?'” Chiếu truyền Tạ Âm đặc cách bãi chức, Hàn Trung Ngạn, Vương Tồn mỗi người nộp phạt 30 cân đồng[23].
(Tân lục bỏ đi từ “Thầm nghĩ Vĩnh và các người khác” trở xuống 41 chữ. Vĩnh và các người khác nói cơ quan xét tội không đúng, mà nói là vu cáo phỉ báng pháp luật, lời lẽ bất kính, là không đúng. Xét việc xử lý lúc đó, ngoài việc này thì có đúng không? Nay lại giữ lại. Ngày 17 tháng giêng năm sau, Trung Ngạn, Tồn đều bị giáng chức, Trâu Hạo nói…).
[94] Xu mật viện tâu, quan phiên nhà Tống quy thuận ở lộ Hoàn Khánh, Thứ sử châu Hựu, Đô tuần kiểm sứ vùng Hoành Sơn đến châu Hựu là Lý A Nhã Bốc cùng con trai là Lý Tương Cừ Bốc, Tam ban phụng chức, đến kinh đô. Chiếu ban tên Lý A Nhã Bốc là Hoài Minh, con trai Tương Cừ Bốc là Thế Trung.
[95] Ngày Bính Thân, vì bắt được Ngôi Danh A Mai và Muội Lặc Đô Bô, các quan tể tướng dẫn đầu bá quan đến chúc mừng ở điện Tử Thần. Chương Tiết, Kinh lược an phủ sứ lộ Kinh Nguyên, Long đồ các học sĩ, Tả Trung tán đại phu, được thăng làm Thái trung đại phu, lại được ban thưởng 2.000 lượng bạc, 2.000 tấm lụa, áo đối, đai vàng, ngựa yên bạc; các tướng sĩ bị thương nặng và lập công được ban áo bào, đai, áo gấm, khí giới, bát bạc, lụa theo thứ bậc.
(Ngày 18 tấu trình, ngày 19 tháng giêng năm sau ban thưởng công lao.)
[96] Lý Đoan Xác, lưu hậu quân An Đức mất, được truy tặng chức Chiêu Đức tiết độ sứ, thụy hiệu là Cung Mẫn.
[97] Ngày Đinh Dậu, cơ quan xét duyệt việc tố cáo trình bày: “Trong việc xét lại án oan thời Nguyên Hựu, việc xóa án cho Trần Thuấn Dư, nguyên là Đồn điền viên ngoại lang, bị giáng chức vì không thi hành phép Thường Bình là không đúng, và Trần Vũ Công nói rằng: ‘Lời cha thần nói không phải là cuồng vọng’, lại nói: ‘Nay thấy thánh triều mở cơ quan xét lại án oan, những oan ức trong thiên hạ đều được giải oan. Linh hồn cha thần đủ sức quyết đoán nơi u minh, mà nỗi hận bị đè nén uất ức muôn đời, một khi được thánh thông soi xét sẽ tan như băng’.” Chiếu chỉ đặc cách đưa Trần Vũ Công đến châu lân cận quản thúc.
[98] Lại có việc tố cáo của Diệp Vũ, Triều phụng đại phu, về việc xét án Trần Thế Nho không biết Giả Chủng Dân đã thêm thắt sự việc trong tờ tấu trình, đưa sang Viện Thẩm quan Đông xét xử, việc xóa án thời Nguyên Hựu là không đúng, và Diệp Vũ nói: “Bị hủy bỏ chức vụ, oan ức không được giải tỏa, mong thánh chính khoan minh, xét thương kẻ vô tội, thực là ngày thiên hạ oan dân được hưởng ơn, lại nghĩ mình sinh ra đúng triều đại công minh mà bị oan uổng mang tiếng xấu.” Chiếu chỉ sửa lại mệnh lệnh thời Nguyên Hựu, Diệp Vũ bị cách chức.
[99] Kinh lược sứ Hoàn Khánh lộ là Hồ Tông Hồi tâu rằng: Hai nơi Manh Môn và Bạch Báo là những vị trí trọng yếu, tất phải tranh giành ở vùng biên giới của bản lộ, đường sá thông suốt, nước và cỏ dồi dào, có ruộng tốt để canh tác, về sau không cần triều đình cung cấp lương thực, địa thế hiểm trở vững chắc, lâu dài chắc chắn có thể phòng thủ, là nơi có thể ứng cứu kịp thời khi cần, nên tiến hành xây dựng trước. Chiếu cho Tông Hồi chọn cử quan lại đến tận nơi kiểm tra, hỏi han kỹ lưỡng; nếu đúng như lời tâu, thì tiến hành xây dựng. Cần phải xem xét nơi đóng quân của giặc, chọn thời cơ thích hợp, cân nhắc sức lực, quyết bảo đảm an toàn tuyệt đối, mới được hành động, không để xảy ra sai sót.
[100] Công bộ tâu rằng: Các lộ, châu, quân, thành, trại, huyện, trấn khi gặp việc tu sửa xây dựng, chỉ được lấy đất ở nơi gần hào nông bên ngoài thành để sử dụng, nếu vi phạm, quan ty chủ trì việc tu sửa xây dựng sẽ bị đánh 80 trượng; các chức Đô giám, Giám áp tại chức nếu không kiểm tra, sẽ bị giảm hai bậc tội. Theo đó.
(Sách 《Tân》 không ghi.)
[101] Ngày Kỷ Hợi, nước Liêu cử sứ là Tần Châu quản nội Quan sát sứ Gia Luật Tuân Lễ, Phó sứ là Triều nghị đại phu, Thủ Bí thư Thiếu giám, sung Sử quán Tu soạn Hình Trật đến chúc mừng ngày Chính đán.
[102] Ngày Canh Tý, chiếu rằng: Những người phạm tội đáng phải đi đày ở bản châu hoặc châu lân cận, nếu thân thể khỏe mạnh và muốn được miễn hình phạt đày ải, cho phép sung vào quân đội các lộ; nếu có ai cưỡng ép, sẽ bị xử theo luật cố ý buộc tội người khác.
[103] Năm đó, con cháu tông thất được ban tên và phong chức quan có 40 người, xử tử 2043 người.
[104] Hữu chánh ngôn Trâu Hạo từng tấu luận về Chương Đôn rằng: “Thần nghe rằng, chức vụ của bậc nhân chủ không gì quan trọng hơn việc xem xét sự đúng sai của tể tướng, vì sự an nguy của thiên hạ đều phụ thuộc vào đó, không thể không xem xét kỹ lưỡng. Thần thấy rằng Thừa tướng Chương Đôn, khi bệ hạ mới lên ngôi, đã được từ chức quan từ cung văn miếu mà thăng lên chức tể tướng, được giao phó chính sự, đến nay đã năm năm. Lẽ ra phải ngày đêm hết lòng phụ tá, để xứng đáng với sự tin cậy của bệ hạ. Nhưng lại vì tình riêng mà bỏ lý lẽ, chỉ lo mưu cầu lợi ích cá nhân, dùng sức lực để dẫn dắt người thân tín, chiếm giữ các vị trí then chốt, mưu tính kín đáo, tinh vi như quỷ thần. Một khi hành động, đầu đuôi đều phối hợp nhịp nhàng, Đôn tuy không lộ vẻ gì, nhưng việc đã hoàn thành một cách nhanh chóng[24]. Do đó, những người chính trực mà bệ hạ muốn dùng, đều bị ngăn trở mà không thể tiến cử; những lời trung tín mà bệ hạ muốn nghe, đều bị bưng bít mà không thể thấu đến; những ân đức mà bệ hạ muốn ban rộng, đều bị ngăn cản mà không thể lan tỏa đến muôn dân. Vì thế, chí nguyện của bệ hạ chưa được thực hiện trọn vẹn, mà ý muốn của Đôn thì không gì không đạt được. Đôn tuy tỏ ra ngạo nghễ, cho rằng người khác không thể thấu hiểu, nhưng không biết rằng hiệu quả của việc làm đã không thể che giấu được.
Xét về việc điều hòa chính sự, thì thiên tai hạn hán liên tiếp xảy ra; xét về việc làm gương, thì thói dối trá lan rộng; xét về việc chiêu mộ nhân tài, thì chỉ dùng những kẻ xu nịnh theo phe cánh; xét về lời nói hành động, thì dù bị sỉ nhục cũng nhất định làm; xét về những người được Đôn hết lòng tiến cử, thì đều là những kẻ phạm tội bị lưu đày; xét về tấm lòng tôn kính bề trên, thì gặp tai họa cũng không chịu nhận lỗi. Thần xem xét lịch sử xưa, nếu tể tướng nào có một trong những điều này, nhẹ thì bị cách chức, huống chi là kẻ như Đôn có đủ cả? Đây là lý do khiến công luận trong thiên hạ lâu nay sôi sục không yên, và rất mong bệ hạ quyết đoán. Thần mong bệ hạ trên nghĩ đến việc giao phó xã tắc, dưới nghĩ đến nguồn gốc họa phúc của sinh dân, dứt khoát hành động, thực là điều may mắn lớn cho thiên hạ.”
[105] Lại từng tâu bàn về việc các đại thần chấp chính không hòa hợp rằng: “Thần từ khi nhận chức đến nay, ngày đêm không yên, nghĩ cách báo đáp dù chỉ một phần. Xét việc thiên hạ, tuy nhiều điều đáng bàn, nhưng cốt lõi đều nằm ở triều đình. Sách truyền có câu: ‘Chính triều đình để chính trăm quan, chính trăm quan để chính vạn dân, chính vạn dân để chính bốn phương, bốn phương chính thì xa gần không ai dám không theo chính đạo.’ Đây là việc cấp bách nhất hiện nay. Thần thấy các đại thần chấp chính không chịu đồng tâm hiệp lực để xứng với ý trọng dụng của bệ hạ, đã lâu ngày rồi, mà nay càng nghiêm trọng. Việc không phân biệt lợi hại, người không phân biệt trung tà, chỉ cần người này cho là được thì người kia nhất định cho là không được, người này cho là không được thì người kia nhất định cho là được, tranh cãi được hay không được ở trên, mà công đạo, công lý đều bị che lấp ở dưới. Phàm đúng sai là gốc rễ của vạn sự, không thể che lấp; một khi bị che lấp vì tư lợi mà mất đi sự thật, thì tệ hại về sau, e rằng không thể lường hết được. Bệ hạ dù có lòng cầu hiền, nhưng người hiền thực sự làm sao được dùng hết? Bệ hạ dù có lòng nghe lời nói, nhưng lời trung làm sao được nghe hết? Bệ hạ dù có lòng yêu thương dân chúng, nhưng ân đức làm sao thấu đến hết được? Tác hại của việc này, há chẳng lớn sao!
Huống chi bệ hạ nắm quyền uy phúc để cai trị thiên hạ, dù xa tận bốn phương vạn dặm, không ai không muốn nghe lệnh thì theo, cấm thì dừng, biết rõ điều hay dở mà không dám trái, thế mà các đại thần chấp chính ở ngay bên cạnh, lại không thể vì nước như vậy, há chẳng phải uy phúc của bệ hạ không thể thi hành được với người gần bên sao? Uy phúc không thi hành được với người gần bên, mà muốn bốn phương vạn dặm không ai không thi hành, thần e rằng khó lắm. Vả lại, tâm bất hòa đã biểu hiện ra thanh sắc, động đến trời đất, thành lụt, thành hạn, thành tai ương cho dân vật. Bỏ lỡ cơ hội này không lo liệu, về sau ắt càng nghiêm trọng, e rằng bốn phương nghe được, ắt có kẻ khinh chê Trung Quốc, đây chính là việc cấp bách nhất của triều đình hiện nay. Thần mong bệ hạ lưu tâm xem xét, quyết đoán bằng đại nghĩa chí công mà ra sức lo liệu, thực là phúc lớn vô cùng của tông miếu xã tắc.”
(Hạo hai lần tấu, căn cứ theo bản thảo tấu chương và phụ vào cuối năm; lại ba lần tấu Chương Đôn, phụ vào tháng 9 năm sau khi Hạo bị khiển trách.)
- 'Hà Bắc' nguyên bản viết là 'Bắc Hà', căn cứ vào bản trong các kho và chú thích nhỏ ở dưới sửa lại cho đúng. ↵
- 'Kinh lược ty' nguyên bản viết là 'Kinh giới ty', căn cứ vào bản trong các kho và văn bản dưới sửa lại. ↵
- hoặc thần có văn tự 'Thần' chữ nguyên bản thiếu, căn cứ theo các bản, bản hoạt tự bổ sung. ↵
- Xem thêm ngày 26 tháng 5 năm Nguyên Phù thứ hai, 'hai năm' nguyên bản là 'ba năm', căn cứ vào bản các và quyển 510 năm Nguyên Phù thứ hai, tháng 5, ngày Mậu Thìn sửa lại. ↵
- Xin tăng thêm hai bậc, bản các 'xin' viết là 'tình'. ↵
- Thu mua gỗ từ các hộ giàu có, 'mua', bản các viết là 'trí'. ↵
- Chữ 'nguyệt' trong 'ngày mồng 5 tháng 12' nguyên bản viết là 'nhật', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'niên' trong 'không rõ Vương Vân vì sao chỉ nhắc đến hai năm' nguyên bản viết là 'danh', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Chữ 'cống sứ' trong 'hay là khi viết sách chỉ có sứ giả triều cống này' nguyên bản viết là 'sứ cống', theo các bản khác và văn trên sửa lại. ↵
- Chữ 'huy' trong 'cử một viên quan tiểu lưỡng tỉnh đến nơi tuyên đọc để chỉ ra cách ngắt câu' nguyên bản thừa, theo các bản khác bỏ. ↵
- Kính xin ban bố cho sử quan, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 92 cầu trực ngôn chữ 'Quan' viết là 'Quán'. ↵
- Lệnh Thước vì việc thu thuế và đổi giấy tờ nên bị điều chuyển vị trí, 'sự cố' nguyên bản viết là 'cố sự', căn cứ theo bản trong các kho lưu trữ mà sửa lại ↵
- Chữ 'ngộ' trong sách 《Tống hội yếu》 viết là 'ngụ'. ↵
- Sách 《Tống hội yếu》 viết 'như thử' là 'như lễ'. ↵
- So với Hồ Lô Hà xuyên: 'So' nguyên văn là 'Bắc', theo các bản sửa; 'Xuyên' nguyên văn là 'Châu', theo các bản, 《Tống sử》 quyển 328, 《Chương Tiết truyện》 và văn trên sửa. ↵
- Thực sự là nơi giặc có thể đánh vào chỗ yếu và xuất hiện: 'Thực' nguyên văn là 'Hàm', theo các bản, bản hoạt tự sửa. ↵
- Các bản khác có thêm chữ 'tằng' dưới chữ 'kiêm'. ↵
- Thần vốn không am hiểu, các bản 'Tố' dưới không có chữ 'lai'. ↵
- Như các hộ quán muốn đến các châu, quân, bảo, trại dọc biên giới nộp lương thảo, 'Liễu hộ', các bản khác chép là 'phố hộ'. ↵
- Chiếu phạt Cư Hậu đặc biệt ba mươi cân vàng, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 102, mục Trục Nguyên Hựu đảng nhân, chữ 'vàng' chép là 'đồng'. ↵
- Các bản khác chữ 'khao' có thêm chữ 'cập'. ↵
- đã thắng thì lấy giữ thắng làm khó, chữ 'tắc' nguyên bản thiếu, theo bản trong các và văn trên bổ sung ↵
- Hàn Trung Ngạn, Vương Tồn mỗi người nộp phạt 30 cân đồng, 'đồng', 《Tống hội yếu》 chức quan 67 chương 22 viết là 'đồng'. ↵
- mà việc đã hoàn thành nhanh chóng, chữ 'nhiên' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản trong các sách và 《Tống sử toàn văn》 quyển 13 hạ mà bổ sung ↵