"

VII. TỐNG TRIẾT TÔNG

[PREVIEW] QUYỂN 516: NĂM NGUYÊN PHÙ THỨ 2 (KỶ MÃO, 1999)

Bắt đầu từ tháng 9 nhuận năm Nguyên Phù thứ 2 đời Triết Tông đến hết tháng đó.

[1] Tháng 9 nhuận, ngày Canh Ngọ (mùng 1), Triều thỉnh lang Giả Dịch được đặc cách bổ nhiệm làm Tư mã quân Bảo Tĩnh, an trí tại Thiệu Châu, vì Giả Dịch trong niên hiệu Nguyên Hựu từng giữ chức Đài gián, trong lòng ôm ấp mưu đồ, giúp sức cho quyền thần, vu cáo phỉ báng tiền nhân, đánh cắp hư danh, nên có mệnh lệnh này.

(Bản mới đã sửa chữa, nay chỉ theo bản cũ.)

[2] Chiêu tuyên sứ, Thứ sử Cao Châu, Nội thị áp ban Diêm An được làm Tuyên chính sứ, vì tự trình bày công lao nhiều năm.

(Theo sổ ghi chép của Tăng Bố, ngày Nhâm Tuất tháng 9, cho phép Diêm An dùng thời gian làm việc tại Ngự dược viện và Hoàng thành ty để giảm bớt thời gian khảo sát còn dư, đổi làm Tuyên chính sứ.)

[3] Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội tâu: “Theo yêu cầu của Câu đương công sự Vương Hậu xin xây thành ở Khuếch Châu, và An phủ Đông Dao Lý Trừng xin xây thành ở Dao Châu. Vì việc thu phục Thanh Đường chưa xong, cùng với các thành Mạc Xuyên, Tông Ca, La Ngoã Mạt Bô ở phía bắc sông, và các đồn Tư Quy Đinh, Lan Tông tiếp giáp với nước Hạ, hiện đang cho tu sửa. Còn Khuếch Châu và các thành Giảng Chu, Thác Tạc, Đương Tiêu, Nhất Công ở phía nam sông, cùng Dao Châu đều ở sâu trong nội địa. Nay Vương Hậu và Lý Trừng liên tục xin xây dựng, nhưng khó thực hiện. Xin đợi sau khi thu phục xong Thanh Đường, trước hết tu sửa các thành trọng yếu ở phía bắc sông, rồi sang năm sẽ xem xét dần việc tu sửa các thành phía nam sông.” Chiếu lệnh cho Kinh lược ty lộ Hi Hà Lan Hội xem xét và bố trí, làm kế lâu dài cho biên phòng. (Sách 《Thanh Đường Lục》 chép: Ban đầu Tôn Lộ cho rằng Thanh Đường chưa thể hạ được, xin triều đình cho tu sửa trước các thành Mạc Xuyên và các thành phía nam, bắc sông, rồi mới tiến quân. Xét theo việc Hồ Tông Hồi dẫn quân đến Hi Châu vào ngày 12 tháng 9, bản tấu này không nên là của Tôn Lộ, cần xem xét thêm. Theo 《Nhật Lục》 của Tăng Bố, ngày Canh Ngọ

(mùng 1) cùng trình tấu của Vương Thiệm, dẫn quân đến thành Tông Ca.)

[4] Thừa nghị lang, Tri châu Xương Văn Lộc; Phụng nghị lang, Thông phán châu Tứ Thẩm Hàm; Tuyên đức lang, người đang chịu tang Vương Cao; Tiết độ sứ Hoài Nam, Suy quan, Tri huyện Tân Ninh châu Đạt Trương Thục, đều bị đặc cách thay thế; Phụng nghị lang Dương Phụ theo lệ người bị thay thế; Vương Cao đợi khi mãn tang sẽ thi hành theo lệ này[1]. Do Tố lý sở tâu rằng Lộc và những người khác dâng sớ có lời lẽ chế nhạo nên mới như vậy[2].

[5] Ngày Tân Mùi, Tri phủ Đại Danh Hàn Trung Ngạn tâu xin chiêu mộ dân lưu vong đói khổ để sửa thành. Được chấp thuận.

(Sách 《Bố lục》 chép ngày Tân Mùi.)

[6] Giá bộ viên ngoại lang Trình Đường được bổ làm Đề điểm hình ngục lộ Vĩnh Hưng quân.

[7] Ngày Nhâm Thân, Đề điểm hình ngục lộ Tần Phượng Tôn Bôn bị đặc cách thay thế. Bôn bị tội vì khi quyền Tri châu Tần, đã dùng ca kỹ tổ chức yến tiệc đêm quá độ, và xây dựng vườn đình quá xa xỉ.

(Ngày 25 tháng 8, Tăng Bố có nói thêm.)

[8] Chiếu rằng: Tri châu Giải Lưu Phỉ, Thông phán Lưu Công Minh, cùng Giám trì Giải Trì Quách Quần, Trịnh An Đạo, Trương Sân; Giám trì An Ấp Tô Chi Thuần, Giải Xưởng, Lưu Thế Long, đều bị đặc cách tước chức, cách chức, đưa đến các nơi quản thúc: Lưu Phỉ đến châu Vĩnh, Lưu Công Minh đến châu Đạo, Quách Quần đến châu Viên, Tô Chi Thuần đến châu Quân, Trịnh An Đạo đến Giám Quế Dương, Trương Sân đến châu Nguyên, Giải Xưởng đến châu Toàn, Lưu Thế Long đến châu Sâm. Phán quan Thôi Quán Chi, Suy quan Lưu Công Cẩn, Giám môn Lý Cảnh, Trương Kỳ, Chủ bạ huyện An Ấp Lưu Mẫn, Huyện úy huyện Ngu Hương Trần Hi Cao, đều bị cách chức, và hoãn thăng chức trong năm kỳ. Lục sự tham quân, Quyền Suy quan Từ Tông bị đặc cách thay thế; Quyền Phán quan Cao Hứng Lễ, vốn đã bị thay thế vì tội khác, nay đặc cách thi hành theo lệ người bị thay thế. Huyện úy huyện An Ấp Tất Đại Thuần bị đặc cách thay thế. Do trì muối Giải bị vỡ đê, Phỉ và những người khác bị tội vì không cẩn thận trông coi.

[9] Lộ Hi Hà tâu công trạng sửa chữa cửa quan Hội Ninh, có thăng chức, giảm thời hạn, ban thưởng khác nhau.

(Sách 《Bố lục》 chép ngày Nhâm Thân.)

[10] Chiếu cho Lan châu đóng gỗ thô để ứng phó việc sửa chữa kho tàng, doanh phòng, nhà cửa ở Hội châu, từ Hoàng Hà theo dòng chảy vận chuyển đến, cử quan chuyên trách quản lý, việc xong sẽ ban ơn.

(Bố lục ngày Canh Thân.)

[11] Tể thần Chương Đôn dâng tấu: “Hôm nay, thần nhận được tờ trình của Kinh lược an phủ sứ Hi Hà Lan Hội lộ Hồ Tông Hồi: Các tướng lĩnh tiền quân Vương Thiệm báo rằng, tân chủ ngụy triều Thanh Đường là Long Tạt đã đầu hàng, cùng với các thủ lĩnh lớn như Kết Ngõa Xước, Tâm Mâu Khâm Chiên dẫn đầu các tộc trưởng, cùng các bộ lạc người Hán và người Thổ trong thành, cùng người Hồi Cốt, công chúa ngụy triều Hồi Cốt của nước Khiết Đan và Hạ quốc, đều ra khỏi thành nghênh đón quân ta. Không cần giao chiến mà thành công, bình định được một nước, việc này thật vĩ đại và nhanh chóng, xưa nay chưa từng có. Thần muốn cùng Tam tỉnh và Xu mật viện ngày mai soạn thảo lời chúc mừng, ngày mùng 5 sẽ dẫn đầu trăm quan chúc mừng.” Vua đồng ý.

(Cựu lục chép: Sau đó, Chương Đôn soạn lời chúc mừng rằng: “Lũng Hữu, Hà Nguyên vốn là vùng đất xa xôi bị lãng quên; nay những người mặc áo lông thú đã trở thành dân chúng văn minh. Chưa đầy mười ngày, không cần dùng binh, đã bình định được toàn bộ vùng đất mới của Tây Khương, khôi phục lại cương thổ cũ của Hán, Đường. Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ, đức hợp trời đất, sáng như mặt trời mặt trăng. Dùng thần linh biến hóa, mở rộng ân tín để vỗ về. Lấy nhân từ vô địch để trấn an, dùng vũ lực không giết chóc để uy hiếp. Các thủ lĩnh đều khuất phục, dâng sổ hộ tịch xin đầu hàng; các bộ lạc vui mừng nghênh đón, bưng rượu đứng hai bên đường. Núi sông đổi màu, rắn rết thay lòng. Thần đây may mắn được ở gần, chứng kiến công lao vĩ đại. Xin dâng bản đồ các châu, thêm vào địa đồ; nâng chén rượu vạn năm, chúc thọ Thánh nhân.”

Hôm sau, Tể tướng Chương Đôn tâu: “Dẹp loạn diệt vong, thế tất phải nghênh đón giải phóng; cứu người chết đuối, lâu nay dân chúng mong đợi được cứu giúp. Chưa đầy vài tháng, đã dẹp xong mối họa một phương. Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ, cương nghị như trời, sáng như mặt trời; bao la như biển, rộng lớn như đất. Trong thì giáo hóa chín châu, ngoài thì quản lý tám phương. Dùng văn để vỗ về, dùng vũ để uy hiếp. Nhìn về vùng đất gần Hà Hoàng, vốn là vùng cũ của Quan Lũng. Từ thời Thiên Bảo suy yếu, gọi quân Hột đến cứu nạn. Khiến cho dị tộc chiếm cứ các châu. Nhà Đường muốn thu phục mà không được, Tiên đế muốn kinh doanh mà chưa kịp. Dù ban ơn hậu, nhưng họ vẫn hai lòng; nhân lúc họ chia rẽ, bèn chiêu dụ. Các bộ lạc tan rã, đều bưng rượu nghênh đón quân ta; tướng sĩ hăng hái, không đổ máu mà chiếm được nước. Đến tận biên giới Thái Mông, vang danh thiên triều Đại Tống. Bắt sống Vua Thổ, dâng lên triều đình. Hơn ba trăm năm châu quận bị mất, nay lại mặc áo mũ; mấy chục vạn người Khương hung hãn, được thấm nhuần ơn huệ. Thay đổi phong tục tóc bím, trở thành dân chúng văn minh. Thu vũ khí, yên Hoa Hạ, từ đây bắt đầu, thật là thịnh thay! Thần đây kém tài, may được ở gần, kính theo mưu lược thần thánh, chẳng giúp được gì; chứng kiến công lao hiếm có, chỉ biết vui mừng.”

Chương Đôn lên điện lại chúc mừng: “Nhà Đường suy yếu, Thổ Phiền tàn bạo, khiến Lũng Hữu, Hà Tây bị mất, từ thời Càn Nguyên, Chí Đức, hơn hai mươi châu không giữ được, đến nay đã hơn ba trăm năm. Các đời trước không nghĩ đến việc đánh chiếm, Tiên triều từng bàn việc kinh doanh. Chưa kịp làm, nay mở mang cương thổ. Kính nghĩ Bệ hạ như trời bao la, như mặt trời sáng chói. Vận dụng thần cơ trong chỗ uẩn khúc, hoàn thành vạn việc trong chỗ dư thừa. Thương xót dân chúng văn minh, lâu ngày bị lưu lạc nơi hoang dã. Lòng luôn nghĩ đến việc cứu vớt, gặp thời cơ liền hành động. Nhân lúc kẻ thù nội loạn, sai tướng đi chiêu dụ. Các bộ lạc bưng rượu nghênh đón, quân ta không đổ máu. Chỉ huy thu phục đất cũ, lễ nhạc thay đổi theo phong hóa Hoa Hạ. Công lao vượt xa cổ nhân, thời gian chưa đầy mười ngày. Thần đây may được tham gia chính sự, chẳng giúp được gì cho mưu lược thánh thần, vui mừng được chứng kiến đức văn giáo hóa, khiến người xa đến quy phục. Cùng với dân chúng, bày tỏ lòng vui mừng.” Tri Xu mật viện Tăng Bố tuyên đáp: “Không cần dùng giáo mác, ngồi yên bình định một nước; Vua Thanh Đường đầu hàng, quỳ lạy dưới cửa khuyết. Tin thắng trận dâng lên, cả nước vui mừng. Cùng với các khanh trong ngoài cùng chung niềm vui.” Tân lục biện rằng: Thể chế thực lục không chép hai bài biểu chúc mừng. Đã chép bài biểu của trăm quan, bài biểu này nên bỏ đi. Bố lục chép ngày Nhâm Thân, hôm đó Hi Hà tâu, ngày 20 tháng 9, thu phục Thanh Đường, Long Tạt cùng Tâm Mâu Khâm Chiên, Kết Ngõa Xước ra hàng, Chương Đôn dâng tấu riêng, xin ngày mùng 4 soạn thảo lời chúc mừng, ngày mùng 5 dẫn đầu trăm quan chúc mừng. Vua đồng ý.

[12] Tôn Thăng, người bị giáng chức làm Phó sứ đoàn luyện châu Quả, an trí ở châu Đinh, qua đời.

[13] Ngày Quý Dậu, giáng chức Lục Sư Mẫn, nguyên là Đãi chế Bảo Văn các, mới nhậm chức Tri châu Doanh, xuống làm Đô chuyển vận sứ Thiểm Tây, kiêm Đô đại đề cử trà mã.

[14] Quốc tử tư nghiệp Lưu Quỳ tâu: “Triều đình lập ba trường học, bổ nhiệm Bác sĩ để dạy dỗ, việc này là đồng đều. Xin từ nay về sau, nếu chức Bác sĩ Luật học khuyết, xin triều đình chọn người thông hiểu luật pháp để bổ nhiệm.” Triều đình đồng ý.

[15] Ra chiếu bàn việc định chế độ nhà thờ miếu, lấy Tăng Mân và Chu Thường làm Giảng nghị quan, Vương Doãn Trung và Trần Dương làm Kiểm duyệt quan.

[16] Ra chiếu đặc cách thăng Hồ Tông Hồi, nguyên là Trực học sĩ Bảo Văn các, Tri châu Hi, làm Học sĩ Bảo Văn các, vì có công thu phục Thanh Đường.

[17] Ra chiếu lấy Thanh Đường làm châu Thiện, đặt làm Tiết độ sứ Lũng Hữu. Mạc Xuyên làm châu Hoàng, thành Tông Ca làm thành Long Chi, châu Khuếch làm thành Ninh Tắc. Các châu Thiện, châu Hoàng cùng các thành trại mới thu phục ở phía nam và bắc sông Hoàng Hà, đều thuộc Lũng Hữu, vẫn thuộc lộ Hi Hà Lan Hội.

(Việc châu Khuếch làm thành Ninh Tắc, sách 《Bố Lục》 chép vào ngày mồng 9, 《Thực Lục》 cũng giống. Nay gộp vào đây. 《Lũng Hữu Lục》 chép ngày 12 tháng 10, Vương Thiệm mới nhận mệnh làm Tri châu Thiện, không rõ vì sao chậm trễ như vậy, cùng với việc ngày mồng 5 Vương Hậu làm Tri châu Hoàng, cần xem xét thêm.)

[18] Vương Thiệm được đặc cách bổ nhiệm làm Tứ phương quán sứ, Phòng ngự sứ châu Vinh, Tri châu Thiện, kiêm An phủ sứ duyên biên Lũng Hữu, Đô tuần kiểm sứ Chủng Phác được bổ nhiệm làm Kiềm hạt lộ Hi Hà Lan Hội, Tri châu Hà, kiêm quản công việc An phủ ty duyên biên phía tây sông Đào. Những nơi mới thu phục chưa bổ nhiệm quan lại, giao cho Kinh lược ty chọn người tạm quản.

(Ngày Giáp Tuất, Vương Thiệm lại được thay đổi chức vụ.)

[19] Chiếu: Trước đây sai Nội cung phụng quan Vương Quỳ từ kinh thành đến Vĩnh Hưng quân cùng Phu Diên, Hoàn Khánh lộ, Khấu Thuận Chi từ Vĩnh Hưng quân đến Kinh Nguyên, Hi Hà Lan Hội, Tần Phượng lộ đi lại, thúc đẩy truyền tống các văn thư cấp báo. Gần đây tấu báo thường bị trì trệ, chiếu phạt mỗi người 20 cân đồng, lệnh Nội thị tỉnh thêm một viên sứ thần, từ Vĩnh Hưng quân về phía tây đến Thiện Châu, chuyên trách việc đề cử, điểm kiểm, căn cứ, thúc đẩy truyền tống các văn thư cấp báo của Hi Hà Lan Hội lộ cùng Thiện Châu, Hoàng Châu và các thành trại vừa thu phục.

[20] Chiếu cho Hi Hà Lan Hội lộ Kinh lược ty: Khi Long Tạt đến Hi Châu, chuẩn bị quán xá, cung trướng, đối đãi ưu ái. Các thủ lĩnh lớn nhỏ như Tâm Mâu Khâm Chiên, Thanh Quy Luận Chinh Kết, Kết Ngõa Xước, Biên Tư Ba Kết cùng những người khác, đều theo Khê Ba Ôn, Long Tạt và Hạt Chinh chia làm hai lượt đến triều kiến. Lượt Hạt Chinh, sai Nội cung phụng quan Hoàng Kinh Thần; lượt Long Tạt, sai Nội cung phụng quan Lý Cấu[3]: cùng đến Hi Châu lo việc tiến phát, đối đãi ưu ái. Định nghi thức dẫn kiến Hạt Chinh, Vua muốn theo lệ Đông Chí, cấp đặc chi cho các quân. Tăng Bố nói: “Lệ Đông Chí cấp 17 vạn quan, lệ Đoan Ngọ 8 vạn quan. Việc này chỉ ứng trong một ngày, e chỉ nên dùng lệ Đoan Ngọ, so với Đông Chí giảm khoảng một phần ba, có chỗ giảm một nửa, xem ra hợp lý. Hơn nữa, lệ kiểu hãnh không nên mở ra.” Vua đồng ý.

(Tăng Bố ghi đoạn này vào ngày 12 tháng 11, Canh Thìn, nay phụ vào đây.)

[21] Chiếu ban thưởng Hồ Tông Hồi và những người khác ngân hợp, trà, thuốc có sai biệt.

(Tăng Bố ghi rằng sai trung sứ áp tứ đặc chi cho quân binh.)

[22] Xu mật viện tâu: “Các xạ thủ ở Thiểm Tây, Hà Đông lộ phải luân phiên lên trại thành để phòng hộ. Nếu ai giả vờ ốm yếu để tránh việc lên phiên, sẽ bị đánh một trăm trượng. Tướng hiệu, tiết cấp bị giáng một bậc, trưởng hành bị giáng một cấp. Nếu quan chức tại chức và những người liên quan không xem xét kỹ lưỡng, hoặc biết tình mà dung túng, giả bệnh xin nghỉ, sẽ giao cho Kinh lược ty điều tra, trường hợp nghiêm trọng thì tâu lên xin xử lý.” Được chấp thuận.

[23] Ngày Giáp Tuất, Tể thần Chương Đôn dẫn đầu bách quan dâng biểu chúc mừng việc thu phục Thanh Đường, Chương Đôn và các quan lại lên điện chúc mừng. Tri Xu mật viện Tăng Bố tuyên đáp.

[24] Giáng chức Nội điện thừa chế, Câu đương công sự Kinh lược an phủ ty Hi Hà Lan Hội lộ Vương Hậu làm Đông thượng các môn phó sứ[4], Tri Hoàng châu, kiêm Lũng Hữu duyên biên đồng đô tuần kiểm sứ.

(Ngày 2 tháng 12, Vương Hậu mới nhận mệnh lệnh về Hoàng châu. Sách 《Lũng Hữu lục》 chép không rõ vì sao lại chậm trễ như vậy. Cùng ngày mùng 4, Vương Thiệm ở Thiện châu cần xem xét lại.)

[25] Xu mật viện tâu, trước khi Vương Thiệm bị giáng chức, ông giữ chức Đô giám Hi Hà Lan Hội. Chiếu chỉ phong Vương Thiệm làm Hãn Châu đoàn luyện sứ, vẫn kiêm chức Kiềm hạt Hi Hà lộ. Lệnh phong Tứ phương quán sứ, Vinh Châu phòng ngự sứ không được thi hành. Trước đó, Hoàng Lý cho rằng việc phong Vương Thiệm làm Dao quận là phần thưởng quá ít. Tăng Bố dựa theo lời Hồ Tông Hồi nói rằng Vương Thiệm chuyên quyền, muốn hạn chế ông, nên xin đợi khi Vương Thiệm ổn định được Lũng Hữu một phương có hiệu quả, mới phong chính nhiệm. Nhưng ý Vua muốn ban thưởng cao hơn, nên có lệnh phong này.

(Chức Hãn Châu đoàn luyện sứ theo 《Lũng Hữu lục》, còn 《Thực lục》 chỉ chép là chính nhiệm, không ghi rõ tên châu.)

[26] Ba tỉnh tâu: “Tiền sắt ở các châu quận Thiểm Tây vốn không có sự phân biệt nặng nhẹ. Gần đây, quan phủ thường đổi tiền đồng, khiến dân chúng nghi ngờ, tiền nhẹ vật nặng. Nay cử Đô chuyển vận sứ Lục Tư Mẫn, Chuyển vận phó sứ Vương Bác Văn, Chuyển vận phán quan Tôn Chẩn đảm nhiệm việc xử lý, đồng thời ra lệnh cấm sử dụng tiền đồng ở Thiểm Tây, người vi phạm bị phạt đi đày hai năm, lưu đày nghìn dặm. Ai tố giác sẽ được thưởng 200 quan tiền. Tiền đồng hiện có trong dân chúng Thiểm Tây được phép nộp tại các châu huyện, sẽ được đổi thành diêm sao hoặc đông nam sao tương ứng, ai muốn đổi sang tiền sắt sẽ được nhận tiền phong trang, thời hạn đổi là ba năm. Cần báo cáo số lượng sao dùng trong một năm để xin cấp phát. Người nào muốn mang tiền đồng vào khu vực khác, được phép đổi tại quan phủ gần Thiểm Phủ. Tiền đồng đổi được và tiền đồng trong kho, trừ một phần để dùng đổi tiền, còn lại sẽ chuyển về Nguyên Phong khố. Đồng thu được ở Thiểm Tây sẽ chuyển về gần Kinh Tây để đúc tiền, dùng làm tiền phong trang của triều đình, thợ đúc sẽ điều từ Thiểm Tây đến. Tiền sắt quan phủ bị hư hỏng, mỏng nhẹ không dùng được sẽ đưa về đúc lại. Dân chúng có tiền sắt riêng, trong vòng nửa năm phải khai báo, sẽ được miễn tội và nhận giá trị tiền sắt, quá hạn không nộp sẽ xử theo luật tiền riêng.” Triều đình chấp thuận.

Ngày 22 tháng 12, và cuối tháng 10 năm Nguyên Phù thứ 3, cần tra cứu. Thiệu Bá Ôn viết lời bạt cho gia truyền của Giả Viêm rằng: Cuối đời Trị Bình, Trường An tiền nhiều vật rẻ, gạo lúa mỗi đấu không quá 100 đồng, đậu nửa giá. Thịt lợn, dê 30-40 đồng một cân. Cá, gạo như ở Giang Hương. Bốn phương đều có đủ hàng hóa, ruộng tốt mỗi mẫu không quá 2000 đồng. Quan lại mang theo tiền đồng làm lộ phí. Năm Hi Ninh thứ 4, Chuyển vận sứ Bì Công Bật thay đổi phép diêm sao của Phạm Tường, tăng giá mặt sao để mua lương thực ở biên giới. Không ngờ giá sao tăng khiến phép sao hỏng, thương nhân không buôn bán, vật giá tăng cao. Đến năm Nguyên Phong thứ 4, chi phí biên giới tăng, bèn đúc thêm tiền. Từ đó phép tiền hỏng, tiền sắt ngày càng nhiều, tiền đồng ngày càng ít, vật giá ngày càng đắt. Phép sao đã thay đổi, vẫn dùng 12.000 đồng mua một tịch diêm sao. Thương nhân và quan lại bãi chức về kinh, đến kinh đô xin 6000 đồng tiền đồng, so với trước tăng một nửa, bán sao vẫn theo phép Phạm Tường. Tào ty cử một thuộc quan ở kinh đô, dùng tiền triều đình cấp cho Hộ bộ để thu sao, thương nhân từ Trường An đến các châu huyện đều thông thương, vật giá còn bình ổn. Lụa Tứ Xuyên 2000 đồng một tấm, lụa Hà Bắc, Sơn Đông đắt hơn 200-300 đồng, các vật khác tương tự. Thương nhân vẫn nhiều, đặc biệt là thương nhân và hàng hóa phương Nam.

Đến đầu năm Nguyên Phù, 4000 đồng tiền sắt đổi được 1000 đồng tiền đồng, từ đó tiền đồng và tiền sắt bắt đầu phân biệt, không dùng chung nữa. Khi đó có vị sứ giả bộ, quen biết với tể tướng đương thời, không xét gốc rễ, chỉ muốn dùng pháp luật để sửa chữa ngọn ngành, bèn dâng lên thuyết bình tiền đồng sắt, bình vật giá, bình giá sao. Triều đình ban xuống các lộ Thiểm Tây, gấp như lửa cháy, nhanh như sấm sét. Dân chúng hoảng sợ, đến nỗi đóng cửa chợ. Đường sá không thông, khách đi đường không còn, dân chúng khốn khổ. Khi đó Bá Ôn làm quan ở Hoa Châu, có mấy thuộc quan tào ty từ Trường An đến, đã hai ngày không có gì ăn. Người đi theo ốm không đi được. Bèn chuẩn bị cơm, xin gạo của quận quan nấu cháo, mới đi tiếp được. Không lâu sau, triều đình biết chuyện, cho phép tùy tiện, dân chúng lại yên ổn. Công tư đều bị thiệt hại, mà nhà nước thiệt hại nhiều hơn.

Có người ở kinh đô xin 10 vạn quan tiền, tiêu xài ngay, mua nhà cửa, bán hàng hóa, vào Thiểm Tây được giá tốt, dùng tiền sắt theo giá tiền đồng nộp quan; mua lương thực ở biên giới, dùng 6000 đồng tiền sắt theo giá 6000 đồng tiền đồng, xin diêm sao, bán riêng được 12.000 đồng, lãi một nửa bỏ túi, rồi đưa 6000 đồng tiền sắt cho dân. Dùng số tiền đồng sắt hiện hành, mua rẻ hàng hóa của dân, rồi đem bán đắt ở nơi khác; dùng tiền đồng sắt hiện hành mua hàng của quan, rồi đem bán đắt ở nơi khác. Việc như thế không kể xiết. Từ đó giá sao ngày càng đắt, thương nhân càng không buôn bán, vật giá ngày càng cao. Sách 《Lưỡng triều thực hóa chí》 chép năm Hi Ninh thứ 4 bắt đầu đúc tiền chiết nhị, cần tra cứu ngày tháng. Bá Ôn nói: Dân Thiểm Tây ba lần bị hại vì thay đổi phép tiền. Ngày Bính Thìn 23 tháng 3 năm Chính Hòa thứ nhất, ngày Nhâm Tý 23 tháng 10, ngày Tân Tỵ 11 tháng 3 năm Tuyên Hòa thứ hai, cần tra cứu.)

[27] Ty Đô chuyển vận Hà Bắc tâu:[5] “Trước đây theo tấu của Ty Đô đại chế trí doanh điền sứ, ruộng đất đồn điền mỗi năm thu hoạch không đủ chi phí. Xin theo lời thỉnh cầu của Trương Thừa Giám, cho phép người dân thuê ruộng đồn điền, thu được toàn lợi nhuận; còn nơi cư trú của các hộ dân[6], không được tự ý dời đến gần biên giới.” Chiếu lệnh các ty xem xét thi hành.

(Mới bỏ.)

[28] Ngày Ất Hợi, nhà sư nước Thập Di Lặc thuộc Bắc Ấn Độ, pháp danh Cương Cát Lạp Lặc, vào triều yết kiến, được ban áo cà sa và vật phẩm.

(Mới bỏ.)

[29] Tuyên Khánh sứ, Mật Châu Quan sát sứ, Nhập nội Áp ban Lam Tòng Hi được thăng làm Cảnh Phúc điện sứ, do có công lao lâu năm.

[30] Giám sát Ngự sử, quyền Điện trung Thị ngự sử Thạch Dự tâu: “Phò mã Đô uý Vương Sân cậy thế hào quý, ép buộc người làm thuê, trong việc thuê mướn không sợ pháp luật, xin xem xét chỉ đạo.” Chiếu lệnh Vương Sân bị phạt 30 cân đồng. Vì Sân đã giấu giếm phụ nữ, bảo họ viết văn tự thuê mướn giả, và giả vờ tạo dấu vết bỏ trốn.

[31] Xu mật viện tâu: “Hiện nay, đường Hi Hà đã thu phục các thành trại như Thanh Đường, Mạc Xuyên. Vùng Đao Điệp[7], e rằng còn có các bộ tộc chưa được chiêu nạp hết. Hãy lệnh cho Hồ Tông Hồi đến Đao Điệp chiêu nạp các bộ tộc, cùng tu sửa thành trại, giao việc này cho Lý Trừng đảm nhiệm, lại giao cho Bao Thuận cùng chiêu dụ, sớm khiến họ quy thuận. Những việc cần xây dựng châu huyện, thành trại, các sự vụ liên quan, giao cho Kinh lược ty xem xét. Lại sai Vương Thiệm, Vương Hậu thay nhau đi tuần tra, cốt sao cho lòng dân yên ổn.”

(Sách 《Thanh Đường Lục》 chép: Lúc này, các thủ lĩnh lớn của bộ tộc vùng Điệp Nghiêm như Bành Bố Tích Bốc Tát cũng xin quy phụ, chiếu lệnh Lý Trừng, Bao Thuận chuyên trách chiêu dụ. Việc trên xem ngày 6 tháng nhuận. Các thành Thiện Châu, Hoàng Châu, Ninh Tắc, Long Chi, An Nhi, cùng các đồn Tư Lỗ Đan, Lan Tông, là những nơi trọng yếu, lệnh cho tu sửa trước. Lại lệnh Lý Trừng xem xét việc xây dựng Đao Châu có lợi hại gì rồi tâu lên. Việc trên xem ngày 9 tháng 10. Khi đó, Hồ Tông Hồi tâu: Từ thành An Hương, Hà Châu, qua sông Hoàng Hà vào Mạc Xuyên, tuy thuộc phía tây Đao Châu, nhưng đường hiểm trở, vận chuyển lương thực khó khăn, xin ở đồn Tây Quan, Lan Châu bắc cầu thông đường, đi thẳng vào Mạc Xuyên, không chỉ đường bằng phẳng, mà trạm dịch cũng gần, có thể tương trợ lẫn nhau, lại thuận tiện cho việc vận chuyển đường sông Tông Hà. Phía đông bờ sông Tông Hà, gần phía bắc, xưa có thành Nga Mao Ngoã Đô, là nơi người Tây Phiên phòng thủ các thành như Cai Châu, Trác La của nước Hạ. Nay thành vẫn còn nguyên, chỉ cần sửa chữa chút ít, đặt thêm lầu canh, có thể phòng thủ. Được chấp thuận. Việc trên xem ngày 7 tháng nhuận. Xét lời tâu của Tông Hồi, việc xem xét xây dựng Đao Châu có lợi hại, ban đầu không liên quan. 《Thanh Đường Lục》 chép liền vào nhau, là không đúng. Nay vẫn giữ nguyên, ghi riêng theo ngày.)

[32] Điều 10 chỉ huy quân thú ở Tần Phượng đến ứng phó việc phòng thủ biên giới mới của Hi Hà.

(Sách 《Bố Lục》 chép ngày Ất Hợi.)

[33] Thí Cấp sự trung kiêm Thị độc Triệu Đĩnh Chi tâu: “Được sai đi sứ sang Bắc triều chúc mừng sinh thần, thấy đang phụ trách việc biên soạn và định ra các điều lệ quốc thư, có bộ 《Bắc Đạo San Ngộ Chí》. Bản sở đã thu thập các cổ tích, nhân vật, cung quan, tự viện từ các châu cung cấp, đối chiếu với các sách khác, thấy có nhiều chỗ khác biệt hoặc sai lệch. Đã cẩn thận khảo cứu và biên soạn. Còn việc tiếp kiến sứ thần Bắc triều, thư từ và nghi thức chưa được đầy đủ, xin được nhân dịp này điều tra, tìm hiểu và ghi chép, dọc đường xem xét và chỉnh sửa.” Được chấp thuận.

[34] Ngày Bính Tý, Bảo Văn các Đãi chế, Tân sai Tri Hà Nam phủ Tôn Lộ được bổ nhiệm làm Tri Doanh châu, Bảo Văn các Đãi chế Lý Tông làm Tri Hà Đông phủ.

(Ngày 16 tháng 8 từ Hi châu chuyển sang Hà Nam, ngày 8 tháng 11 được thăng Bảo Trực.)

[35] Bảo Văn các Đãi chế Lục Sư Mẫn làm Tri Vĩnh Hưng quân, kiêm Đô đại Đề cử Trà Mã sự; tờ cáo bổ nhiệm làm Thiểm Tây Đô Chuyển vận sứ đã nộp lại.

[36] Giám sát Ngự sử Tả Phu tâu: “Nghe nói Khởi cư lang Tôn Kiệt trước đây đi sứ Hoài Chiết, có việc vi phạm pháp luật và không công bằng, xin xử lý.” Chiếu lệnh Quách Mậu Tuấn thu thập hồ sơ, xem xét và điều tra, tường trình sự thật.

(Bản mới không có.)

[37] Xu mật viện tâu: “Kinh lược sứ Hi Hà Lan Hội lộ Hồ Tông Hồi tấu: ‘Từ An Hương thành, Hà châu vượt Hoàng Hà vào Mạc Xuyên, tuy là đường chính phía tây Thao, nhưng đường đi quanh co hiểm trở, việc vận chuyển rất khó khăn. Thần gần đây điều tra được rằng ở phía tây Tây Quan bảo, Lan châu, có địa danh Bả Kinh Ngọc gần đó, có thể xây cầu thông đường thẳng vào Mạc Xuyên, không chỉ đường đi bằng phẳng mà còn rất gần, có thể hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời có thể dùng thuyền trên sông Tông Hà để vận chuyển thẳng vào Mạc Xuyên. Ở bờ đông cửa sông Tông Hà, phía bắc gần đó, có thành Nga Mao Ngoã Đô thuộc quản hạt Mạc Xuyên, vốn là nơi Tây Phiên phòng thủ chống lại Hạ quốc ở các thành Cai Châu, Trác La, nay thành vẫn còn nguyên vẹn, chỉ cần sửa chữa nhỏ, xây dựng lầu canh, có thể phòng thủ.'” Được chấp thuận.

[38] Chiếu bắt giám quân Ngạch Bá Nhĩ ở biên giới phía tây, đưa về Đàm Châu quản thúc, cấp nhà quan cho ở, mỗi tháng cấp 10 quan tiền, 3 thạch gạo lúa mì; giao cho đô giám quản lý, không để họ lâm vào cảnh khốn cùng.

[39] Chiếu cho Hạt Chinh, Long Tạt và những người dưới quyền lần lượt về kinh, đến cửa Tuyên Đức để chịu hàng. Dùng các ban trực và tứ quân thượng bày thành nghi trượng, các quân đội mặc áo trắng xếp hàng từ cửa Thuận Thiên đến cửa Tuyên Đức; Hạt Chinh, Long Tạt và những người dưới quyền mặc trang phục dân tộc dẫn đến yết kiến, truyền chỉ thẩm vấn, ban ân xá tội, rồi ban thưởng mũ, áo, đai theo thứ bậc. Tể tướng dẫn trăm quan chúc mừng, rồi lại đến điện Tử Thần, ban yến tiệc. Lệnh cho các cơ quan liên quan chuẩn bị đầy đủ nghi thức và các việc cần làm rồi tâu lên.

[40] Ngày Đinh Sửu, giáng chức Lễ tân sứ, quyền phát khiển Tần Phượng lộ kiềm hạt Lý Nghi làm Tri châu Giai Châu, vẫn giữ chức kiềm hạt Tần Phượng lộ.

[41] Do thu phục được Thanh Đường, sai quan đến tấu cáo ở Thái miếu và các lăng tẩm.

[42] Chiếu ban cho miếu thần Minh Quang ở phía đông nam lăng Vĩnh Hữu làm miếu Linh Nguyên, vì có quan chức tâu rằng trước đây có suối chảy đến dưới miếu rồi ngầm chảy đi, năm ngoái tu sửa lại cống giếng, suối ngầm bỗng thông chảy trở lại.

[43] Lại bộ tâu rằng, những người được bổ nhiệm chưa hết nhiệm kỳ mà được triều đình thăng chuyển, cho phép tính cả nhiệm kỳ trước, dù đang tại chức cũng được thăng chức. Triều đình đồng ý.

[44] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu rằng, thấy Vương Cát Phủ được bổ làm chức Bát phát sông Thái Hà, thần trước đây vâng mệnh xem xét văn thư tố tụng[8], mời Cát Phủ làm quản câu quan, nhưng Cát Phủ do dự sợ hãi, không chịu nhận chức. Chiếu cho Vương Cát Phủ được nhận chức tri châu, bổ làm Tri châu Từ Châu.

(Vương Cát Phủ ban đầu từ chức Đại lí tự thừa được bổ làm Bát phát, vào ngày 18 tháng 8.)

[45] Chiếu cho Lý Công Bật, Lục Ngạn Hồi, Lý Phục, Đỗ Đàm, Vương Châm, Lý Đôn Lễ, Tạ Cẩn, Đặng Cầu, Phương Hi Triết, Đổng Quỳ, Viên Phù, Lưu Đường Phục đều bị cách chức, Phùng Dự, Thôi Chấn, Vương Thân, Chu Duy Hòa, Trương Tùng Niên, Quách Phục, Trương Bảo Thần, Vương Thường, Trương Mậu Tiên đều bị thay thế, vì đều phạm tội tố tụng có lời lẽ phỉ báng.

[46] Ngày Mậu Dần, Triều thỉnh đại phu, Trực bí các, Tri Kinh Nam Lữ Trọng Phủ; Hữu triều nghị đại phu, Đề cử Sùng Phúc cung Giả Thanh; Triều tán đại phu, Tân trừ Thái phủ thiếu khanh Đặng Hữu Phủ; Triều tán đại phu, Tân đề điểm Tần Phượng đẳng lộ hình ngục Du Tự Lập; Triều tán đại phu, Tân tri Đồng châu Lý Hiếu Quảng; Triều tán đại phu, Tân Giang Đông chuyển vận phó sứ Chu Bá Hổ; Thừa nghị lang, Quyền Phúc Kiến chuyển vận phán quan Trương Khang Quốc[9]; Thông trực lang, Quyền Lưỡng Chiết chuyển vận phán quan Tăng Hiếu Hữu[10]; Triều tán lang[11], Sung Mục thân, Quảng thân Bắc trạch giảng thư Quách Phụ; Triều phụng lang, Phát vận ty Quản câu văn tự Diệp Tông Cổ, đều bị giáng một cấp quan, vì tội khi đi sứ các lộ Hoài, Chiết, dùng kỹ nữ vui chơi, bị Sát phỏng ty tố cáo.

[47] Chiếu cho Nhập nội cung phụng quan, Kiêm ký Hoàng thành sứ, Dao quận thứ sử Lưu Viện, được thụ chức Chiêu tuyên sứ, vẫn giữ chức cũ; Phụng nghị lang, Tiền tri Giang Đô huyện Lã Chấn, bị thu hồi tất cả văn tự từ khi xuất thân, cách chức, đuổi về, biên quản ở Phủ châu, vì tội tự ý lấy gỗ của quan làm giường thiền.

[48] Chiếu cho Trụ trì Thượng Thanh Trữ Tường cung, Động Nguyên Thông Diệu đại sư Lưu Côn Khang về Mao Sơn, theo lời thỉnh cầu của ông.

[49] Chiếu đặt một viên Tri thành, hai viên Giám áp và Tuần kiểm ở Ninh Tắc thành, chiêu mộ 100 binh sĩ cho Bắc thành.

[50] Kinh lược sứ Hi Hà Lan Hội lộ Hồ Tông Hồi tâu: Nay xét thấy châu Thiện nên đặt các chức Tri châu, Thông phán, Thiêm phán, Ty lý Ty hộ Tham quân kiêm Lục sự, Tư pháp mỗi chức một viên, Binh mã Giám áp, Tuần kiểm mỗi chức hai viên, đặt một chỉ huy Bảo Ninh. Quân sương ở châu Hoàng và thành Ninh Tắc cùng đặt một tướng, chính tướng đóng ở châu Hoàng, phó tướng đóng ở thành Ninh Tắc. Quân kỵ hai chỉ huy, quân bộ ba chỉ huy, thành Bắc châu Hoàng một chỉ huy, quân sương bản thành một chỉ huy. Châu Thiện đặt một tướng, sung làm tướng thứ tám của Hi Hà Lan Hội lộ. Châu Hoàng và thành Ninh Tắc cùng đặt một tướng, sung làm tướng thứ chín. Các tướng, phó tướng, lệnh cho Kinh lược ty chọn quan tâu lên.

(Cựu chép rất chi tiết, nay theo bản mới.)

[51] Cung phụng quan, Tẩu mã thừa thụ lộ Quỳ Châu Trình Doãn Vũ tâu: Tri quân Nam Bình Cao Quyền và Thông phán Trương Cập bất hòa, lại việc Chuyển vận ty sai cựu Câu áp quan Vương Hữu Chi đi khảo sát ruộng đất và thuế má ở quân Nam Bình bị trì hoãn. Chiếu bãi chức Tẩu mã thừa thụ của Doãn Vũ, các quan Chuyển vận ty không nên sai Vương Hữu Chi, mỗi người phạt 20 cân đồng.

(Quan Tào ty bị phạt tiền, theo 《Bố lục》 thêm vào.)

[52] Chiếu rằng những người phát tiền vật phong trang của kho Nguyên Phong thuộc triều đình, các cửa khẩu phải báo cáo kho Nguyên Phong trong vòng một ngày; nếu trễ hạn hoặc tự ý cho kho khác chi nạp[12], sẽ bị đánh 100 trượng.

(Bản mới không có.)

[53] Ngày Canh Thìn, Hữu ty lang trung Từ Ngạn Phu tâu: Năm ngoái, ruộng muối bị ngập nước, nguyên nhân là do người dân ở các nơi như Đống Thủy, Diêu Xiêm Cừ, Phàn Gia Yển, Tiểu Trì cố tình đào bờ phía nam để nước chảy vào ruộng muối[13]. Vì hai bờ đê ở Đống Thủy và Diêu Xiêm Cừ, cùng với Tiểu Trì Phàn Gia Yển, vốn chỉ giao cho các huyện úy phụ trách tuần tra; lại vì ruộng muối và các đê đập ở Diêu Xiêm Cừ, Đống Thủy Hà có diện tích không dưới vài trăm dặm, việc quản lý không xuể. Nay xin thêm 100 binh sĩ và một viên tiểu sứ thần, để phân công quản lý Diêu Xiêm Cừ, Đống Thủy Hà, Tiểu Trì Phàn Gia Yển, cùng các bờ đê xung quanh ruộng muối lớn. Được chấp thuận.

[54] Chiếu cấp cho châu Thiện 40.000 quan tiền công sứ, châu Hoàng 20.000 quan, thành Long Chi 3.000 quan.

[55] Xu mật viện tâu: Kinh lược ty lộ Kinh Nguyên tấu, tướng thứ 12 là Chiết Khả Thích tiếp nhận phiên quan Cách Liệt Khắc quy thuận, là một thủ lĩnh lớn. Vì không có giấy tờ chứng minh, nên tạm bổ làm Tam ban sai sứ. Gần đây, theo lời tâu của Phó đô tổng quản Vương Ân, Cách Liệt Khắc dẫn 10 người bộ lạc vào địa giới phía tây, gặp quân giặc Tây giao chiến, chém được 14 thủ cấp, chiêu hàng được 72 người. Chiếu phong đặc cách cho Cách Liệt Khắc làm Hữu thị cấm.

[56] Hi Hà tâu xin cấp 150 tờ tuyên tráp không tên và 100 tờ điệp tử y sư hiệu để đối phó với người Khương mới. Được chấp thuận.

(Sách 《Bố Lục》 ghi ngày Canh Thìn.)

[57] Ngày Tân Tỵ, Thông nghị đại phu, Thủ Thượng thư Hữu thừa Hoàng Lí bị cách chức Thượng thư Hữu thừa, đi nhận chức Tri Bạc Châu, vì lời bàn luận viển vông, kết bè kết đảng, mưu đồ gian trá, làm lung lay chính sự quốc gia, mệnh lệnh đã ban ra, nhưng sau lưng lại có lời nói khác. Trâu Hạo bị đày đến Tân Châu, Hoàng Lí nói rằng Trâu Hạo được bệ hạ tự mình đề bạt, ban thưởng ưu ái trước đây, nên dám phạm vào điều cấm kỵ, mà bệ hạ lại vội vàng đày ông ta đến chỗ chết, từ nay về sau, bề tôi nào dám vì bệ hạ bàn luận được mất? Vua ngạc nhiên nói: “Khanh nói rất có căn cứ, Trẫm sẽ từ từ suy nghĩ.” (Điều này căn cứ theo truyện của Hoàng Lí, cần xem xét thêm.) Hoàng Lí lui ra, liên tiếp bị giáng chức trách phạt.

Hôm đó, Hoàng Lí ở lại tâu việc, để lại bốn tờ tấu chương trên long sàng. Tăng Bố vào chầu lần thứ hai, Vua nói cười như thường. Tối về Tây phủ, nghe tin Hoàng Lí bị cách chức, nhưng chưa biết rõ chi tiết. Hoàng Lí cũng chưa biết việc này. Chương Đôn và Thái Biện trước đó, trong buổi họp chiều tại Đô tỉnh, đã nhận được chỉ dụ từ trung ương, nhưng không báo cho Hoàng Lí. Hôm sau, Hoàng Lí định vào triều, quan lại dưới quyền báo cho ông biết, nên ông dừng lại. Lệnh cách chức đã được ban ra từ lúc canh tư, qua cửa Môn hạ, và chỉ thị đã xuống các cửa.

Hoàng Lí bị giáng chức, Vua bảo Tăng Bố: “Hoàng Lí có bốn tờ tấu chương cứu Trâu Hạo, lúc đó không nói, sau khi mệnh lệnh đã thi hành, lại làm như vậy, chắc chắn bị người khác xúi giục.” Vua lại nói: “Lữ Gia Vấn hai ngày trước đã từng yết kiến Hoàng Lí.” Vua lại hỏi: “Ngô Cư Hậu có thể làm Doãn Kinh phủ không?” Có lẽ Vua muốn cách chức Gia Vấn. Tăng Bố vào chầu lần thứ hai, bèn thỉnh cầu Vua: “Hoàng Lí hôm qua để lại bốn tờ tấu chương, tâu việc gì?” Vua nói: “Bốn tờ tấu chương đều dẫn chuyện xưa: một là Đường Giới, hai là Chu Vân, ba là Lưu Vũ Tích.” Vua lại nói: “Hoàng Lí là khách của họ Lữ.” Tăng Bố nói: “Hoàng Lí thực sự xuất thân từ cửa họ Lữ, nhưng ông ta ngốc nghếch, không biết kiêng kỵ.” Vua nói: “Hoàng Lí thuần phác ngốc nghếch, không hiểu chuyện, chắc chắn bị người khác xúi giục.” Vua lại hỏi: “Gia Vấn có mấy con rể?” Tăng Bố nói: “Không nhớ rõ.” Vua nói: “Kiển Tự Thần, Tăng Thành đều là con rể của ông ta.” Vua lại hỏi: “Tăng Thành là người thế nào? Nghe nói tham gia nhiều việc.” Tăng Bố nói: “Chương Đôn không thích Thành, nói rằng An Đào muốn hạ bệ Đôn, Thành tham gia nhiều mưu kế, nhưng chưa biết hư thực.” Vua lại hỏi: “Thái Biện và anh em không hòa thuận?” Tăng Bố nói: “Bên ngoài nhiều người nói như vậy, nhưng không biết thực hư, đại để là tranh giành làm chấp chính trước.” Vua nói: “Vợ chồng cũng không hòa thuận, đến mức không gặp mặt?” Tăng Bố nói: “Thần có quan hệ họ hàng với họ, cũng nghe qua, thực sự không hòa thuận, nhưng chưa đến mức không gặp mặt.” Hôm đó, Chương Đôn ở lại rất lâu, Tăng Bố nghi ngờ những điều Vua hỏi đều do Chương Đôn tâu lên.

(Điều này cần xem xét kỹ. Theo báo cáo của Hữu Thánh để: Tam tỉnh cùng phụng thánh chỉ: Hoàng Lí giữ chức chấp chính, bàn luận viển vông, kết bè kết đảng, mưu đồ gian trá, làm lung lay chính sự quốc gia. Huống chi những việc Hoàng Lí làm đều xuất phát từ triều đình. Khi bắt đầu thi hành, đã có chỗ không đúng, lẽ ra phải bàn bạc rõ ràng để sửa chữa được mất; sao có thể mặt ngoài nghe theo, mà sau lưng lại nói khác? Làm bề tôi bất trung, không gì hơn thế! Có thể cách chức, đi nhận chức Tri Bạc Châu, thay thế Hà Uyển, vẫn được miễn tạ từ. Sắc chỉ: Trẫm nghĩ rằng các bề tôi chấp chính là cánh tay đắc lực, cùng nhau bàn việc, đoàn kết một lòng, để cùng đạt đến đạo lý. Nếu có ý kiến khác làm hại chính sự, thì Trẫm cũng không thể thiên vị. Hoàng Lí bàn luận viển vông, không đủ năng lực, kết bè kết đảng, mưu đồ gian trá, làm lung lay chính sự quốc gia. Huống chi những việc ông ta làm đều xuất phát từ triều đình, được mất đúng sai, lẽ ra phải phân biệt rõ ràng; sao có thể mệnh lệnh đã ban ra, mà sau lưng lại nói khác? Làm bề tôi như thế, Trẫm còn trông mong gì nữa! Nên cách chức, đi nhận chức ở địa phương, nên tự xét lại, đừng để mắc lỗi lầm nặng nề. Có thể đặc cách cách chức Thượng thư Hữu thừa, đi nhận chức Tri Bạc Châu. Quách Tri Chương thi hành.

Lại nữa, Hoàng Lí khi đến nhậm chức có dâng biểu tạ ơn rằng: Kính vâng sắc chỉ, được bổ nhiệm làm Tri Bạc Châu, đã đến nhậm chức vào ngày mồng 3 tháng này. Kính vâng mệnh trời, ra nhận chức ở địa phương; lần đầu gặp lại dân, đã ban bố chính lệnh. Trung tạ. Kính nghĩ rằng thần xuất thân xa xôi, gặp thời thịnh trị, tiên đế đề bạt làm quan Hiến ty, bệ hạ đưa lên triều đình. Ơn nặng như Thái Sơn, thân nhẹ như sợi tóc, thầm ngưỡng mộ người xưa, mong đóng góp chút ít vào sự trị vì của thánh thượng. Đã bị vu oan mà bị bỏ rơi, bỗng nhiên khiến không còn chỗ để thanh minh, nhớ lại lời nói đã thành của Bùi Độ, bèn trở thành sự ngang ngạnh nhiều lần của Cấp Ám. Lui về suy nghĩ lại sự liều lĩnh của mình, đáng bị xử tử, dám nghĩ rằng lòng nhân từ sâu xa của bệ hạ, vẫn còn cho nhận chức ở quận gần. Đó là do hoàng đế bệ hạ, chí hiếu như Vua Thuấn, nhân từ như Vua Nghiêu, khiến cho kẻ ngu muội như thần, được nhận trọng trách tuyên dương. Lo sợ tu tỉnh, chí hướng nên rèn luyện ở Yêm Tư; bao dung rộng lớn, đức độ không dám quên Mân Hạo. Hoàng Lí nói “bị vu oan mà bị bỏ rơi”, “không còn chỗ để thanh minh” v.v., có thể xem xét sự việc lúc đó, nên ghi chép thêm vào đây.

Theo truyện Hoàng Lí trong 《Huy Tông thực lục》: Hữu chánh ngôn Trâu Hạo bàn việc bị đày đến Tân Châu, Hoàng Lí tâu rằng Trâu Hạo được bệ hạ tự mình đề bạt, ban thưởng ưu ái trước đây, nên dám phạm vào điều cấm kỵ, mà bệ hạ lại vội vàng đày ông ta đến chỗ chết, từ nay về sau, bề tôi nào dám vì bệ hạ bàn luận được mất? Vua ngạc nhiên nói: “Khanh nói rất có căn cứ, Trẫm sẽ từ từ suy nghĩ.” Lại nói: Khi Trâu Hạo vì bàn việc bị đày đến Tân Châu, Hoàng Lí tâu xin đổi đến nơi tốt hơn, nên bị điều đi làm Tri Bạc Châu. Lời truyện trùng lặp, rất khó hiểu. Cần xem xét thêm. Ngày mồng 2 tháng 3 năm Kỷ Hợi, Tăng Bố nói gì đó cần xem xét. Ngày 25 tháng 9, chú thích trong 《Trung Nịnh lục》 nên chuyển vào đây.)

[58] Ty lí Thiểm châu Lã Tuấn vì giấu thuế làm mất sổ sách của quan, nguyên Thừa huyện Ngô, Tô châu Lã Biện vì sai Mã Vĩnh Quán trốn tránh sát phỏng ở Chiết lộ, cùng đốt thư từ qua lại của con em, đều đợi khi mãn tang, đặc cách xử theo lệ người bị cách chức.

(Sách 《Tân》 không chép.)

[59] Nguyên tri Tô châu Vương Tử Kinh đem binh lính, công nhân của Phát vận ty mượn tiền gạo, làm trạng tâu lên Phát vận ty, bị phạt 20 cân đồng.

(Sách 《Tân》 không chép.)

[60] Ngự sử trung thừa An Đôn tâu xin lập pháp, các cơ quan ở kinh thành nhận được thánh chỉ tạm thời, đều phải chép vào sổ riêng, kiểm tra nghiêm ngặt. Vua nghe theo.

(Sách 《Tân》 không chép.)

[61] Chiếu rằng: Các vật phẩm cung cấp cho quan, Chuyển vận ty phải dự tính trước, chuẩn bị tiền, sai châu chọn quan đến nơi sản xuất thuận tiện lập trường làm vật liệu, rồi xin thêm tiền so với giá thị trường để mua. Cho phép trước một năm triệu người bảo lãnh xin tiền, nhận số lượng bán. Nếu tự ý giao xuống huyện thu mua, cùng chế tạo vật phẩm, đều bị xử theo tội vi chế, không được giảm tội vì đã thôi chức hay được ân xá.

[62] Đề điểm hình ngục các lộ Vĩnh Hưng quân Lưu Hà được phục chức.

(Ngày Quý Mão mùng một tháng 5, Lưu Hà phục chức.)

[63] Tăng Bố tâu: “Thần phụng mệnh giữ chức ở hai phủ, mọi việc sắp xếp, ứng phó với biên phòng đều do thần tự mình cân nhắc, soạn thảo. Tam tỉnh chỉ thay đổi một hai câu chữ, còn đại thể cách sắp xếp cũng không thay đổi so với thần đã định. Thần tuy ngu muội, nhưng không dám không hết sức. Tuy nhiên, thần cũng thường lo lắng rằng suy nghĩ có chỗ chưa đến nơi, nhưng tự xét cũng không đến mức sai lầm lớn.

Gần đây, nghe nói Tam tỉnh càng không hài lòng, mỗi việc đều soi mói, tìm cách hạch tội, không việc gì không làm. Việc bãi chức Lưu Hà, giáng chức quan ở Thiểm Tây vì việc phân phối áo nạp[14], cùng việc đặt châu Tây An, vì chưa xây dựng xong, đều không báo cáo. Môn hạ tỉnh nghe đều cho là không đúng. Ba việc này đều cùng Tam tỉnh trình lên. Nếu quả thật không đúng, không chỉ là tội của thần, huống chi cũng không có gì không đúng. Những việc này thần cũng không dám tâu lên bệ hạ, chỉ là bàn tán dưới triều, khiến mọi người nghi ngờ mà thôi.

Thần không dám không tâu rõ từng việc, vì nếu thần không nói thì bệ hạ không biết được. Thần thường lấy việc làm phiền thánh thính làm điều răn, nhưng việc bất đắc dĩ, phải tâu lên, mong bệ hạ tha tội nhiều lời của thần.”

Vua nói: “Làm gì có chuyện đó, đều là cùng Tam tỉnh trình lên, có hại gì? Chỉ nói Lưu Hà không liên quan đến việc khác, nên cho phục chức.” Tăng Bố chỉ vâng dạ. Hôm đó là ngày Giáp Dần tháng 5.

Hôm sau, [Bố] đem việc cùng bãi chức Lưu Hà, đề điểm hình ngục và hai việc khác trình lên, nhân đó tâu: “Lưu Hà vốn vì Vương Phát tâu rằng ở Phu Diên, mỗi ngày thuê một người, phải bồi thường ba quan tiền, Lữ Huệ Khanh và các quan giám ty đều tức giận. Sau đó, ở Hà Trung, người bị thuê đến Sát viện kiện rằng việc thuê dịch của bảo giáp hơn bảy mươi ngày, nợ hơn một trăm ba mươi quan tiền chưa trả. Mới biết lời tâu của Vương Phát không sai. Thái Biện và mọi người bàn rằng Lưu Hà vì việc này mà bắt bẻ Vương Phát không công bằng, nên cùng bãi chức. Tội của Lưu Hà rất rõ, không có gì nghi ngờ. Lại nữa, Vương Phát kiện Lưu Hà về việc riêng, đều không xét hỏi, không biết Tam tỉnh sao biết là vô tội mà cho phục chức ngay. Những việc lừa dối trời cao như vậy, thần không dám làm.”

Vua đổi sắc mặt. Sau đó, quan suy khám ở phủ Hà Trung là Vương Khắc Nhu tâu: “Lưu Hà sai quan đi xét việc Vương Phát không công bằng, lại là việc sau khi thay chức và không thuộc quyền, theo pháp không nên xử lý. Hiện đang giam hơn hai trăm người, đều vô tội, có người bị giam từ mùa đông năm ngoái.”

(Tăng Bố ghi đoạn này vào ngày Đinh Mão 25 tháng 5.)

Ngày hôm sau, Đồng bình chương sự Tăng Bố một mình dâng tấu trình bày việc Khắc Nhu, nhân đó nói: “Tam tỉnh nói rằng Lưu Hà là người phụng hành mệnh lệnh của Mật viện để tra xét Mộ Dung Tướng Mỹ, vì thế không nên bãi chức. Nay kiểm tra lại văn bản gốc, thì thấy đó là do Tam tỉnh cùng ký tên, kiêm thêm việc Vương Phát chỉ trích Lưu Hà làm việc không công bằng, chưa được xem xét kỹ lưỡng, mà Lưu Hà lại xét án Vương Phát cũng là vi phạm pháp luật, lại không thuộc quyền quản lý, không biết Lưu Hà sao lại được phục chức sai khiển[15]. Hứa Tướng, Thái Biện đối với thần cũng cho rằng nên bãi chức.” Biện lại nói: “Chương Đôn không từng bàn bạc, chỉ trong lúc nói chuyện đã phục chức Lưu Hà.”

Thượng nói: “Có lẽ đã từng bàn bạc.” Bố nói: “Việc này lừa dối quá đáng, thần cũng từng nói với Biện rằng: ‘Đây là do các ông làm lầm thừa tướng.’ Biện giận dữ nói: ‘Sao lại là các ông làm lầm?’ Bố nói: ‘Các ông thuận theo, tức là làm lầm Đôn, nếu thần cùng Đôn đồng liệt, tất sẽ lấy lý mà tranh luận. Như thế thì Đôn cũng không có lỗi lầm.’ Việc này nên cùng Tam tỉnh dâng trình, nhưng thần không dám không tâu trước.” Lui về, đem tờ trình của quan tra xét cho Đôn xem, Đôn nói: “Đã xem.” Bố nói: “Như thế Lưu Hà có lẽ nên bãi chức.” Đôn nói: “Tốt.” Bố nói: “Không tranh thì thôi, tranh thì Bố có thể bãi chức, Lưu Hà không thể không bãi.” Lại đem tờ phê của đồng ký tên cho Đôn xem.

Ngày hôm sau lại cùng dâng trình, Bố nói: “Lưu Hà xét án Vương Phát vi phạm pháp luật, không nên chấp nhận; kiêm thêm việc Vương Phát chỉ trích Lưu Hà làm việc không công bằng, chưa rõ thực hư. Và Lưu Hà thu thập tình trạng của Vương Phát, Mộ Dung Tướng Mỹ rất rõ ràng, không biết sao lại được phục chức sai khiển. Thần không dám lải nhải, xin hạ lệnh cho Tam tỉnh trình bày.” Đôn nói: “Lưu Hà xét án Mộ Dung Tướng Mỹ, dường như không có lỗi, lại là mệnh lệnh của Mật viện, nên Tam tỉnh bàn bạc, cho phục chức sai khiển.”

Bố nói: “Thái Biện nói không từng bàn bạc, chỉ trong lúc nói chuyện đã phục chức.” Đôn, Biện đều im lặng.

Bố lại nói: “Lưu Hà vốn bị cách chức chức vụ ở Viện Mật, nếu Tam tỉnh cho rằng có thể phục chức, cũng phải bàn bạc với Viện Mật; thế mà một mặt tiến trình phục chức, là ý gì? Bên ngoài đều bàn tán rằng Tam tỉnh cho rằng Viện Mật cách chức Lưu Hà, Tam tỉnh lại phục chức, chỉ muốn làm rõ việc của Viện Mật mà thôi. Nhưng chức vụ của Lưu Hà sai trái như vậy, sao có thể lại làm Giám ty?” Đôn lại nói: “Lưu Hà e rằng không có việc như vậy.”

Bố nói: “Đôn với Hà là thân thích, sao có thể một mực bênh vực Hà?” Đôn nói: “Thần không dám tránh né điều này.”

Bố nói: “Nếu nói công bằng, thì không tránh né cũng được. Vương Phát thực có tội, triều đình đủ để xử lý; chức vụ của Lưu Hà sai trái, cũng nên cách chức.” Biện nói: “Vương Phát, Lưu Hà đều có thể xét xử, Hà tạm thời điều chuyển chức vụ hoặc tạm cách chức đều được.”

Bố nói: “Theo ý thần, Lưu Hà suốt đời không thể làm Giám ty, muốn điều chuyển đi đâu? Tạm cách chức càng không thể, vẫn là Giám ty của bản lộ, làm sao xét xử được sự thật? Hà ở Vĩnh Hưng lộ tức giận Vương Phát không hợp lệ trình báo việc bồi thường tiền bảo giáp[16], liền bắt bẻ Vương Phát. Ở Tần Phượng lộ tức giận Mộ Dung Tướng Mĩ trực tiếp trình báo việc Tần Phượng khai khống công lao để được thưởng, liền xét xử Tướng Mĩ. Hà làm Giám ty, đến đâu cũng lộng quyền làm oai, che mắt triều đình như vậy, e rằng không thể.”

Vua nói: “Hai người đều có tội, hãy cùng xét xử. Tạm cách chức cũng không được, phải cách chức chức vụ.” Hứa Tướng nói: “Triều đình cử quan xét xử đi thì tiện.”

Vua nói: “Triều đình cử quan Đại Lý đi.” Bố nói: “Ai có thể cử?” Hứa đáp: “Đại Lý chính Chu Mục.” Bố nói: “Thần chưa dám bảo đảm Mục. Vì Lưu Hà là thân thích của Đôn, lại Tam tỉnh có ý thiên vị Hà, quan xét xử e rằng không tránh khỏi nhìn theo ý trên, xin hãy cẩn thận chọn lựa. Tam tỉnh có thể họa phúc cho người: nếu việc thuận ý, ắt được thăng chức; nếu trái ý, họa hoạn lập tức đến. Xu mật viện không chỉ không thể họa phúc cho người, mà thần cũng không dám làm như vậy, người ta cũng không sợ.” Rồi cử Khai Phong phủ suy quan Tào Điều làm quan xét xử.

(Tào Điều có truyện, vào tháng 9 năm Tuyên Hòa nguyên niên, chép việc Điều xét xử Lưu Hà, cần xem lại. Lý Bang Ngạn viết mộ chí cho Tào Điều rằng: Đề hình Vĩnh Hưng Lưu Hà vì việc bị hặc, chiếu cho Điều xử lý, nói: “Đại thần với Hà không hợp[17], Trung thư, Mật viện lại tố cáo tội của hắn. Khanh hãy vì Trẫm đi, hãy giữ công bằng, đừng nhìn theo ý trên.” Điều nói: “Ba thước là công bằng thiên hạ. Tội có chỗ dựa, bệ hạ không thể khiến thần nặng nhẹ, sao lại là đại thần!” Triết Tông khen ngợi lời nói của ông, bèn sai Điều xét xử, quả nhiên tìm ra sự thật.)

Vua nói: “Việc này e rằng khó xét xử.” Bố nói: “Tội trạng của Vương Phát đã rõ, chỉ việc của Lưu Hà cần xét xử kỹ, e rằng nhìn theo ý trên. Tào Điều ắt sẽ đối chất, xin hãy thêm lời răn dạy.” Bố lại muốn thêm vào trong thánh chỉ hôm qua rằng “Lưu Hà xét xử Vương Phát và Mộ Dung Tướng Mĩ, có bắt bẻ hay không, tình trạng ra sao, và nhìn theo ý trên để kết tội, quan lại xét xử, đều phải xử lý nặng ngoài pháp luật.” Đôn chỉ ra rằng: “Mật viện lại thêm mấy đoạn này vào thánh chỉ hôm qua.”

Vua nói: “Tại sao?” Biện nói: “Đêm qua đến ba canh mới đưa đến.” Bố nói: “Việc của Vương Phát muốn xét xử kỹ, việc của Lưu Hà sao chỉ xét xử một nửa?” Biện nói: “Việc bắt bẻ của Lưu Hà, chỉ có thể xem xét kỹ, không thể xét xử.” Bố nói: “Như vậy, phải do triều đình xem xét. Muốn dời đoạn này về sau, nói rằng tình trạng bắt bẻ của Lưu Hà, đợi án xong sẽ xin chỉ.” Vua nói: “Như vậy cũng tốt.” Biện cũng cho là phải.

Ban đầu, Tăng Bố cho rằng việc của Vương Phát không cần tra xét, triều đình căn cứ vào tội trạng, ra lệnh đình chỉ và thay thế cũng không có gì không được. Chương Đôn nói: “Vương Phát có tội tham nhũng, sao có thể không tra xét?” Tăng Bố đáp: “Như vậy chỉ là muốn kết tội tham nhũng của Vương Phát để làm vừa lòng Lưu Hà mà thôi.”

Hoàng đế lại hỏi: “Việc Lưu Hà tra xét Tướng Mỹ, là trước hay sau khi tâu trình việc Tần Phụng khai man?” Thái Biện nói: “Là trước.”

Tăng Bố liền kiểm tra lại bản tâu trình gốc, thấy rằng: “Tướng Mỹ được tâu trình vào ngày 28 tháng 6, ngày 9 tháng 7 sai Từ Ngạn Phu đi tra xét. Lưu Hà đến ngày 23 tháng 7 mới tâu trình việc tra xét Tướng Mỹ, sao có thể là trước? Hơn nữa, Vương Phát bị thay thế từ tháng 11 năm trước, tháng 2 năm ngoái sai quan đi điều tra, đến tháng 10 mới gửi văn thư cho Ty Chuyển vận và Ty Đề hình thi hành, như vậy chẳng phải là cố tình bới móc hay sao?”

Tăng Bố lại tâu: “Hai ngày nay vì việc Vương Phát mà nói nhiều, làm phiền Thánh thính, thực sự lo sợ. Nhưng đã mở lời, nếu không nói thì sự việc không rõ. Gần đây, Tam tỉnh dò xét Mật viện không ngừng. Thần cũng từng nói với Thái Biện rằng: ‘Mọi người đều sợ chấp chính và quan đài gián, chỉ có thần là không sợ. Tại sao vậy? Thần không phạm lỗi, lại chức vụ cũng không đến nỗi sai lầm. Xin cứ tìm kiếm và kiểm tra, e rằng không có gì không đúng.’ Việc của Tam tỉnh, bên ngoài truyền cười không ít. Diệp Tổ Hợp từng nói: ‘Chương Đôn vì việc tra xét cháu mình được làm quan dân, sai phái không rõ ràng, bị chửi là ‘Thượng thư cốt đột’.’ Tổ Hợp nói: ‘Điều này thực không dám tránh, nhưng e rằng Tam tỉnh còn cốt đột hơn. Như Tôn Kiệt từ chức Sát phỏng trở về, xin được vào chầu trước, lại bị đưa về Lại bộ tra xét.’ Thái Biện cũng nói: ‘Đâu chỉ việc này. Chung Chính Phủ vào chầu xin tuyển thủ lệnh và học quan để làm phong tục thuần hậu, cũng bị đưa về Lại bộ tra xét, điều này càng đáng cười.'”

Tăng Bố cũng tâu trước mặt Hoàng đế: “Tam tỉnh kiểm tra việc Mật viện không đúng, nếu không nói trước mặt Mật viện, có thể tin được, nhưng nếu nói trước mặt Mật viện, e rằng khó mà khuất phục. Văn thư của Tam tỉnh, những gì cần ký tên với Mật viện, mười phần có tám chín phần không đúng, phải trả lại sửa đổi, như thần đã sửa, mới dám ký tên.” Lại nói: “Việc Hình bộ tra xét Lưu Hà, trì trệ không đúng, Thị lang và Lang quan đều bị giáng một chức. Xin Tam tỉnh kiểm tra xem từ trước đến nay, Lục tào tra xét công việc trì trệ không đúng, có tiền lệ nào từng bị giáng chức hay không?” Tam tỉnh đều im lặng không đáp được.

Tối hôm đó, Tăng Bố nói với Hứa Tướng: “Hai ngày nay nói nhiều, cũng là bất đắc dĩ.” Hứa Tướng nói: “Như vậy cũng đủ rồi!” (Đoạn này vào ngày 28 tháng 5, Canh Ngọ.) Sau đó, quan tra xét dâng án lên. Chiếu chỉ Lưu Hà được bổ làm Tri châu xa nhỏ, Vương Phát bị đặc cách đình chỉ.

(Ngày 12 tháng 9 nhuận, Tân Tỵ, vụ án Lưu Hà và Vương Phát mới kết thúc. Từ cuối tháng 5 sai quan tra xét, đến nay tổng cộng hơn 130 ngày.)

[64] Ngày Nhâm Ngọ, Phụng nghị lang, Hiệu thư lang, Quốc sử biên tu quan Ngô Bá Cử được bổ làm Trứ tác tá lang.

(Bá Cử ngày 12 tháng 7 nhận chức Hiệu thư, ngày 22 tháng 12 làm Tả sử[18].)

[65] Quyền Điện trung thị ngự sử Tả Phu tâu rằng, Quyền tri Khai Phong phủ Lữ Gia Vấn có hành vi coi thường mệnh lệnh, không kính cẩn, vi pháp tư lợi, xin được xử lý. Lại tâu rằng, Gia Vấn trước đây giữ chức Phát vận sứ, khi được bổ làm Tri Thanh Châu, chưa nhận chức đã sai Khách ty chở gạo nhà mình đến nơi nhậm chức để bán, xin xử lý. Lại tâu rằng, gần đây đã đàn hặc Thông phán Khai Phong phủ dẫn tản quan đổi mua quán trà của người họ Lý, việc đổi mua vẫn chưa xong, xin được xem xét xử lý. Chiếu lệnh Lữ Gia Vấn phân tích tâu lên.

(Bản mới từ “lại tâu” trở xuống đến “xử lý” đã bị cắt bỏ. Sách 《Bố lục》 ngày Ất Dậu ghi việc nghe Tả Phu tâu sáu việc của Gia Vấn, có chỉ lệnh phân tích.)

[66] Vương Thiệm tâu rằng, đã từ số bạc lụa thu được ở Thanh Đường trích ra một phần để ban thưởng cho tướng tá.

(Sách 《Bố lục》 ngày Nhâm Ngọ, ngày 19 tháng 9 có thể tra cứu.)

[67] Ngày Quý Mùi, Ngự sử trung thừa An Đôn tâu rằng, xin các vùng biên giới Thiểm Tây thu phục đất cũ và tiếp nhận hàng giới, trong phạm vi có mộ phần và đền chùa của người Khương, không được tự ý đào bới, phá hủy. Được chấp thuận.

[68] Chuẩn bị tướng Kinh Nguyên lộ, Hoàng thành sứ Tôn Văn, Phó tướng, Hoàng thành phó sứ Hứa Nguyên Khải đều bị giáng một cấp, giáng làm Chuẩn bị tướng lĩnh, vẫn quản lý công việc của tướng thứ ba và phó tướng; Quyền đồng phó tướng, Chuẩn bị tướng lĩnh, Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Trạch Sĩ Ngạn bị giáng một cấp, giáng làm Chuẩn bị sai khiển: vì không nắm được động tĩnh của giặc Tây, khiến tám Tuần kiểm vào đất địch, bị người Tây giết chết sứ thần và cung tiễn thủ.

[69] Ngày Ất Dậu, Thị lang Lại bộ Từ Đạc tâu rằng: “Xin từ nay nếu biết rõ nơi trộm cướp ẩn náu, dù chúng đã rời khỏi nơi đó, nhưng trong vòng năm ngày có thể truy bắt được, thì đều theo điều lệ mà thưởng công.” Được chấp thuận.

[70] Chiếu rằng: Đông đầu cung phụng quan, quyền Trấn Nhung quân Bình Hạ thành Giám áp Lưu Bôn, đặc cách tha tội, bãi chức, lưu lại làm Tuần phòng sứ ở biên giới xa xôi của bản lộ. Bôn phạm tội tự ý giết Đẩu tử Lý Lập, nhưng vì có nhiều chiến công, nên được khoan hồng.

[71] Ngày Bính Tuất, Quyền Điện trung Thị ngự sử Tả Phu tâu: “Thần nghe nói Tông thất Quả Châu Đoàn luyện sứ Trọng Hốt có được một cái đỉnh cổ, trang trí hình rồng, bên cạnh có chữ lệ khắc rằng: ‘Lỗ Công tạo Văn Vương tôn di.’ Màu đồng xanh lục, xin ban chỉ lấy về, chiếu cho các bậc nho thần bàn luận thêm.” Chiếu lệnh Lễ bộ lấy về, giao Tam tỉnh xem xét.

(Có thể bỏ.)

[72] Xu mật viện lại bàn việc, Tăng Bố nói: “Nội thần điện Hoàng hậu là Giang Hữu Khánh hợp lệ được thăng Phó sứ ký tư. Theo lệ cũ, không phải sứ thần điện các thì không được ký tư Phó sứ, nhưng gần đây có chỉ đặc biệt cho phép tính cả thời gian khảo hạch, cũng là danh khác mà thực chất giống nhau[19]. Tuy nhiên, điện Thái phi có hai người, một ký tư, một tính cả thời gian, không rõ điện Thái hậu, Thái phi, Hoàng hậu có được coi là điện các không?” Vua nói: “E rằng không phải điện các, có thể lệnh cho Nội tỉnh xem xét rồi tâu lên, báo lại Xu mật viện.” Bố cho rằng Thái hậu, Thái phi, Hoàng hậu đều có điện, nhưng e rằng không phải là điện các. (Theo sử ký của Bố, ngày Bính Tuất.) Sau đó có chỉ, sứ thần hầu hạ điện Thái hậu, Thái phi được coi như điện các, điện Hoàng hậu cũng theo đó.

(Theo sử ký của Bố, ngày Kỷ Dậu tháng mười, nay gộp vào đây.)

[73] Ngày Đinh Hợi, chiếu rằng Kinh Nguyên lộ Kinh lược sứ, Đoan Minh điện Học sĩ, Thái trung đại phu Chương Tiết giáng làm Trung đại phu, các chức vụ khác giữ nguyên. Thái Biện cho rằng Tiết chậm trễ mệnh lệnh triều đình, không lập tức tu sửa phong đài, bèn tâu lên Vua và gấp rút trách phạt. Tăng Bố nói rằng tuy Tiết tâu báo chậm, nhưng chưa để xảy ra sự cố gì. Chương Đôn rất bất bình.

[74] Hôm đó, tù trưởng nổi loạn ở Hà Nam là Lang A Chương khởi binh vây thành Nhất Công.

(Theo《Lũng Hữu Lục》. Ngày 30 tháng 10, Triệu Cát và những người khác đã phá vây thoát ra.)

[75] Ngày Mậu Tý, Lưu An Dân, chức Tam Ban Phụng Chức, Cáp Môn Chi Hậu, được bổ làm Cung Bị Khố Phó Sứ, Cáp Môn Thông Sự Xá Nhân; Lưu Cảnh Niên, chức Đái Ngự Khí Giới Hữu Ban Điện Trực, được bổ làm Tây Kinh Tả Tàng Khố Phó Sứ kiêm Cáp Môn Thông Sự Xá Nhân; Lưu An Trạch, chức Tam Ban Phụng Chức, Cáp Môn Chi Hậu, được bổ làm Nội Điện Sùng Ban.

[76] Lộ Tần Phượng tấu rằng, bộ tộc lớn ở vùng Điệp, Đãng do thủ lĩnh Bành Bố Tích Bốc Tát dẫn đầu xin dâng đất quy thuận. Triều đình ra chiếu lệnh tiếp nhận và an ủi họ.

(Theo《Bố Lục》ngày Mậu Tý.)

[77] Xu Mật Viện xin rút quân Phu Diên về vì đã hết hạn phục vụ. Lữ Huệ Khanh tâu: Quân lính đã hết hạn mà chưa được thay thế, lòng người bất an, thêm vào đó vùng biên cương nghèo khó, vật giá đắt đỏ, khí hậu lạnh lẽo, quân lính đã phải cắt áo, rút bông để tự lo liệu. Tăng Bố nói rằng lời của Huệ Khanh rất khẩn thiết, vì muốn có quân thay thế. Ông bèn tâu lên hoàng đế, xin rút quân về doanh trại. Hoàng đế cho là phải. Tăng Bố lui ra bàn với Tam Tỉnh, ai nấy đều cười Huệ Khanh. (Theo《Bố Lục》ngày Mậu Tý.) Sau đó, lại rút thẳng năm chỉ huy quân lính Tần Phượng.

(Theo《Bố Lục》ngày Nhâm Thìn, nay gộp vào đây.)

[78] Ngày Canh Dần, ra chiếu thúc giục các châu quân Hà Bắc sửa chữa thành trì trong thời hạn quy định, đồng thời yêu cầu báo cáo trước thời hạn cần hoàn thành.

(Theo《Bố Lục》.)

[79] Ngày Tân Mão, Hoàng Thường, Binh Bộ Thị Lang kiêm quyền Lại Bộ Thị Lang, tâu: Xin rằng ngoài ba lộ theo tiêu chuẩn tài vũ, những nơi trọng yếu có quân trấn giữ, nếu sau năm ngày xếp hạng mà vẫn không có người đủ tiêu chuẩn, thì lấy những người từng giữ chức Tuần Kiểm, Giám Áp, nhiệm kỳ đã hết mà không có khuyết điểm, hoặc những người từng được thưởng vì lập công trong quân, miễn thi võ nghệ, thăng nửa năm thứ hạng trở lên, để việc bổ nhiệm được thông suốt hơn. Triều đình đồng ý.

[80] Xu mật viện tâu: Kinh lược sứ Hi Hà Lan Hội lộ Hồ Tông Hồi tấu rằng: Gần đây đã thu phục xong Thanh Đường, tất cả các vật dụng ngự dụng giả mạo của ngụy vương tử, tượng Phật bằng vàng bạc, bản ty đã chỉ huy Vương Thiệm sai sứ thần quản áp đưa về kinh đô, cùng với một túi lụa vàng chứa châu báu mà Hạt Chinh đã dâng trước, cùng ấn truyền quốc và ấn Tiết độ sứ quân Sóc Phương, tổng cộng 44 mặt ấn trong hai hộp. Chiếu rằng các vật dụng ngự dụng giả mạo của Hạt Chinh, lệnh cho Kinh lược ty tuyển chọn sứ thần trước tiên quản áp đưa về kinh đô.

[81] Lập pháp tấu cử sứ thần biên nhiệm lên Xu mật viện thuyên lượng nghe sai pháp. (Ghi trong 《Bố Lục》).

[82] Ngày Nhâm Thìn, chiếu rằng Sa Uyển giám vẫn thuộc quản lý của Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ mua ngựa, vẫn lấy tên là Đề cử Thiểm Tây đẳng lộ Mãi Mã Giám Mục ty.

[83] Giang Hoài phát vận ty và Lưỡng Chiết chuyển vận ty tâu rằng: Hiện nay việc xây dựng cống ở Nhuận châu Kinh Khẩu và Thường châu Bôn Ngưu đã hoàn thành, đang theo sự xem xét của Đề cử hưng tu cống Lưỡng Chiết chuyển vận phán quan Tăng Hiếu Tạ[20], lập ra quy tắc, hạn ngày mở đóng[21], thông thuyền vận chuyển, thật sự là biện pháp lâu dài khả thi. Theo đó.

[84] Trước đó, Tăng Bố đã trình bày số lượng binh tướng ở Hà Bắc lên triều đình. Đến thời Hi Ninh, từng có việc điều một tướng quân ở Tương Châu ra trấn thủ Hà Đông, nay muốn cho họ thay phiên trấn thủ Tần và Tấn, đồng thời thiết lập biên chế mới, giảm biên chế cũ để cấp cho quân mới. Hoàng đế rất tán thành. Sau khi lui về bàn bạc với Tam tỉnh, mọi người đều cho rằng việc này khả thi. Ngày hôm đó, chiếu chỉ điều tướng quân thứ 13 ở Hà Bắc đi trấn thủ Kinh Nguyên, tướng quân thứ 17 trấn thủ Hà Đông. Lại do Hà Bắc bị lũ lụt, dân lưu tán khá nhiều, nên ở Đại Danh phủ và 32 châu quân khác, tăng thêm mã bộ quân tổng cộng 56 chỉ huy, hơn 3 vạn người. (Theo ghi chép của Tăng Bố, điều tướng quân thứ 13 ở Hà Bắc trấn thủ Hà Đông, không nói đến trấn thủ Kinh Nguyên. Lại ghi ở Đại Danh và 22 châu quân khác tăng thêm mã bộ quân tổng cộng 56 chỉ huy, hơn 2 vạn người, đều khác với bản này. Chiếu chỉ ngày Nhâm Tý tháng 10 năm đó hoàn toàn giống với ghi chép của Tăng Bố, có lẽ bản này sai.)

Mã quân lấy tên là Quảng Uy, bộ quân lấy tên là Bảo Tiệp, đều theo lệ cấp phát vật phẩm như quân Phiên Lạc Bảo Tiệp ở Thiểm Tây, đồng thời trong số quân cũ, mỗi chỉ huy giảm 100 người, tổng cộng giảm hơn 1 vạn 7 nghìn người. Tăng Bố nhân đó tâu lên Hoàng đế: “Việc tăng quân ở Hà Bắc, giảm biên chế quân cũ và điều quân đi trấn thủ nơi khác, đều là những điều người trước không dám bàn. Nếu không phải nhờ sự quyết đoán sáng suốt của bệ hạ, sao dám đề xuất việc này? Tuy nhiên, tình người khó lường, nếu có kẻ tiểu nhân hung hãn xúi giục phá rối pháp luật, cũng không thể tránh khỏi, chỉ cần triều đình kiên quyết đàn áp. Quân địa phương ở Kinh Đông cũng từng giết tuần kiểm gây loạn. Tiên đế dùng binh ở phương Tây, Khánh Châu cũng có biến loạn. Việc này tuy chưa chắc xảy ra, nhưng phòng ngừa vạn nhất, thần không dám không tâu trước.” Hoàng đế vui vẻ tiếp nhận, Tam tỉnh cũng khen ngợi.

(Chiếu ngày 13 tháng 10, nên tham khảo, hoặc chuyển đoạn này sang chỗ khác.)

[85] Lục Sư Mẫn tấu, xin cho ty Mãi Mã tiếp tục kiêm nhiệm chức Giám Mục, và tăng thêm tiền công sứ. Được chấp thuận.

(Theo ghi chép của Tăng Bố, ngày Nhâm Thìn.)

[86] Hạt Chinh và Long Tạt tuy đã lần lượt ra hàng, nhưng người của bộ tộc họ vốn không có ý quy thuận nhà Hán. Có người bàn rằng (người bàn chính là Vương Mẫn và Lý Viễn, nói rằng Thanh Đường có bốn điều không thể giữ được. Lý Viễn tự có sách 《Thanh Đường Lục》, do Uông Tảo biên soạn và sửa chữa, nên đã bỏ qua tên của Vương Mẫn và Lý Viễn.) Hiện nay quân triều đình không sửa chữa trước các thành lũy phía đông Mạc Xuyên mà đã chiếm Thanh Đường, đó không phải là kế sách hay. Vương Thiệm không nghĩ đến hậu họa, vội vàng tiến vào đất ấy, có thể nói là không có mưu lược.

Xét theo tình hình hiện tại, Thanh Đường có bốn điều không thể giữ được: Từ chùa Bỉnh Linh vượt sông đến Thanh Đường, tổng cộng bốn trăm dặm, đường hiểm trở, đất xa xôi, khi có việc gấp thì viện binh không kịp đến, đó là điều thứ nhất; Nếu người Khương chặn cầu Bỉnh Linh, chặn cửa ải Tỉnh Chương, dù ta có trăm vạn quân cũng không thể tiến lên kịp thời, đó là điều thứ hai; Mang quân đơn độc vào, bốn phía không có viện binh, người Khương rình rập, ắt sẽ sinh biến loạn, đó là điều thứ ba; Nếu phái đại quân đến, thì lương thực ở Thanh Đường, Tông Ca, Mạc Xuyên chỉ đủ dùng trong một tháng[22], trong nội địa không có lương thực để vận chuyển, khó có thể đóng quân lâu dài, đó là điều thứ tư.

Người Khương ban đầu tưởng rằng nhà Hán đem đại quân đến, nay thấy quân số ít ỏi, ắt sẽ phản lại trong chốc lát. Hơn nữa, quân sĩ từ Hội Xuyên trở về đều tiều tụy, quần áo rách rưới, vũ khí không đầy đủ. Người Khương nhìn thấy, càng thêm khinh thường nhà Hán. Cuối tháng 9, Tâm Mâu Khâm Chiên mỗi ngày tập hợp hơn trăm người Khương trước cửa cấm cung giả, cúi đầu nói chuyện, người biết tiếng Khương nghe lén, đều không nghe rõ, ai nấy đều biết họ ắt sẽ làm phản. Tháng này, ngày Tân Mùi, bắt được bốn người do Thanh Đường phái đi cầu viện nước Hạ, chém đầu ở chợ. Lúc này mới biết Tâm Mâu Khâm Chiên cùng nhà Tẩy Nạp A Kết âm mưu[23], muốn dần dần đưa con tin vào thành, đến ngày 9 tháng nhuận, trong ngoài phối hợp, chiếm lại Thanh Đường.

Đến ngày Mậu Dần, các bộ tộc Khương ở phía nam núi quả nhiên nổi loạn trước. Vương Thiệm chọn hai nghìn kỵ binh nhẹ giao cho tướng dưới quyền là Lý Trung[24] đêm vào thung lũng Lãnh Cốc bắt giữ, ngày hôm sau các bộ tộc Khương đều hưởng ứng. Vương Thiệm bèn bắt Tâm Mâu Khâm Chiên cùng mười tám người khác giam lại. Người Khương tràn đầy khắp bốn phía núi, hô hào ngày đêm không ngớt. Vương Thiệm tự giữ thành phía tây, thành phía đông giao cho Vương Du đóng giữ. Hơn mười vạn người Khương cầm củi, vác cửa, muốn đốt cổng thành mà vào. Ba ngày trước đó, có em trai của Kết Ngõa Xước là Thạc A Tô, xin cầm cờ trắng ra thành chiêu dụ, đến lúc này lại dẫn quân Khương phản loạn đánh thành rất mạnh.

Lúc đó Lý Trung vượt núi Nam vào thung lũng Mộc Đôn đánh dẹp các trại tộc phía nam núi, thừa thắng giải vây An Nhi rồi trở về, vừa gặp quân Khương. Lúc đầu giao tranh, quân ta bị thua thiệt. Phiên quan Lý Lăng đánh nhau với Nạp Cát, tử trận. Đánh nhau lâu, quân Khương đại bại chạy trốn, giẫm đạp lên nhau, rơi xuống vực chết không kể xiết[25]. Một lát sau, khắp bốn phía núi không còn một bóng người. Ngày Tân Tỵ, Vương Thiệm trước tiên chém chín thủ lĩnh lớn là Kết Ngõa Xước, Tâm Mâu Khâm Chiên, Lận Bô Sất Ba Kim Ma, Tâm Mâu Lãnh Ma, Khâm Tróc Bác Binh, Long Chiên, Lang Bô Lư Tư, Đa Đáp Tróc Mã Lạc, bắt hết người Khương trong thành chém đầu, xác chết chất thành núi. Thủ lĩnh Tông Ca là Gia Sấm Trát Thực bắt Thạc A Tô dâng lên, cũng bị xử tử. Vương Thiệm lúc mới vào Thanh Đường, hỏi Tiên La Kết rằng: “Ngươi đã triệu quân triều đình, sao lại đón lập Long Tạt?” Đáp rằng: “Đón lập Long Tạt, không phải để chống lại quan quân. Chỉ vì người Khương quý trọng dòng dõi vương tộc, dù Khê Ba Ôn thờ Phật không so đo, nhưng Long Tạt tuổi đã lớn, sợ rằng sau này sẽ gây họa, nên dùng kế đưa hắn về, muốn dứt họa từ gốc.” Vương Thiệm rất tán thành. Vương Thiệm ngầm bảo các thủ lĩnh, đăng ký những người Khương có thể cầm vũ khí, xăm lên cánh tay. Lúc đó các thủ lĩnh đã có âm mưu, nên trì hoãn không ai chịu làm. Tiên La Kết tự xin về bộ lạc mình, trước tiên đăng ký làm quân, để khích lệ các thủ lĩnh khác. Vương Thiệm đồng ý. Tiên La Kết được đi, liền kết nối với bên ngoài làm phản. Khi vây hãm Thanh Đường được giải, Tiên La Kết vẫn cùng Gia Lặc Ma tập hợp tàn quân, giữ vững núi Thanh Đường để tự cố thủ.

[87] Trước đó, người Khương đem vài ngàn người vây đánh Mạc Xuyên. Ngày Nhâm Ngọ, nước Hạ sai Nhân Đa Bảo Trung, Bạch Khạp Mâu cùng ba viên Giám quân, dẫn quân đến tiếp viện, tổng cộng hơn mười vạn người. Trước hết, họ chặt cầu chùa Bỉnh Linh, đốt cháy đường sạn đạo ở hẻm Tỉnh Chương, rồi từ bốn phía tấn công gấp. Trong thành chỉ có hai ngàn bốn trăm quân, khí giới thiếu thốn, chỉ được một hai phần trăm. Tổng quản Vương Mẫn ra lệnh cho quân sĩ tháo cửa nhà làm khiên, vót gỗ bôi mực làm giáo; tập hợp hơn một trăm phụ nữ trong thành, mặc quần áo đàn ông để giả làm quân lính; vài chục trẻ con dùng ngói rang kê để cung cấp lương thực; tuyển ba trăm dũng sĩ, đội khăn vàng. Vương Mẫn năm đó đã sáu mươi bảy tuổi, mặc giáp cưỡi ngựa, dẫn dũng sĩ mở cửa thành ra đánh. Trên cửa thành đã đục sẵn lỗ, ném đá lớn giết chết vài người, quân Khương không dám tiến lên. Phía góc nam thành có nhiều hốc tường, quân Khương dùng làm chỗ ẩn nấp để đánh thành, tên đá không thể bắn tới. Vương Mẫn bèn tháo nhà làm đuốc, ném vào hốc tường, lửa cháy lan vào trong hốc, người trong hốc đều bị cháy. Quân Khương chuyển sang đánh trại nước phía bắc, rồi tràn vào được. Vương Mẫn dẫn dũng sĩ mở cửa thành xông ra đánh, chém được hơn trăm thủ cấp. Quân Khương bèn vây thành bắn tên, tên trong thành nhiều như lông nhím. Quân sĩ chết và bị thương nhiều, đến nỗi phải lấy tên làm củi nấu ăn.

Quân Khương phá được trại Lan Tông, bắt được viên quan thành là Lưu Văn Khuê, đem đến dưới thành, nói: “Ta chỉ muốn thành và đất, nếu các ngươi giao thành cho ta, ta sẽ đưa các ngươi từ cửa ải Kim Thành về Hán.” Vương Mẫn bảo Vương Khuê: “Ngươi hãy nói với giặc Hạ rằng, thiên tử nhà Hán sai ta giữ thành này, giặc có thể giết ta, nhưng thành thì không thể lấy được.” Rồi sai phục binh bắn tên vào Văn Khuê nhưng không trúng, quân Khương đưa Văn Khuê đi. Mạc Xuyên bị vây từ ngày Mậu Dần đến ngày Nhâm Thìn, tổng cộng mười sáu ngày. (Ngày Mậu Dần là ngày mồng 9 tháng nhuận, ngày Nhâm Thìn là ngày 23 tháng nhuận.) Hôm đó, quân Khương chất củi ở cửa nam, định đốt cửa thành và chướng ngại vật. Trong thành lo sợ, không biết làm thế nào.

May sao, Kinh lược ty sai Miêu Lý ở Lan Châu, Diêu Hùng ở Hà Châu dẫn quân các lộ Tần Phượng vượt sông, và triều đình sai tướng chuẩn bị lộ Kinh Nguyên là Lý Trung Kiệt dẫn quân Tuyển Phong đến cứu viện. Từ Phiêu Ca, Ngõa Xuy, Hắc Thành, quân ta đánh nhau tiến lên, đốt phá trại lều của quân Khương, rộng mấy trăm dặm, bụi bay mù trời. Quân Khương không biết quân ta nhiều hay ít, vội rút quân vượt sông Hoàng Thủy, chết đuối mấy ngàn người, bắt sống được ngụy Kiềm hạt Ngôi Danh Khất Ngộ, và thu được cờ thêu. Lúc đó[26], Mạc Xuyên nếu không có Vương Mẫn thì gần như nguy khốn, Tông Ca cũng từ ngày Mậu Dần bị vây đến ngày Mậu Tý, tổng cộng mười ngày thì giải vây.

(Ngày Mậu Dần tháng nhuận, ngày Mậu Tý tháng nhuận. Ngày Quý Tỵ, sai Miêu Lí, Diêu Hùng, xem ngày 24 tháng nhuận tháng 9.

Sách 《Thực lục》 ngày 24 Quý Tỵ chép: Đô thiêm hạt Hi Hà là Vương Mẫn, Tri thành Mạc Xuyên là Mã Dụng Thành tâu rằng: “Hiện giặc Phiên khoảng bốn nghìn người vây thành Hoàng Châu, đã chia quân lên thành đánh giặc. Kinh lược ty đã sai Miêu Lí, Diêu Hùng dẫn quân Tần Phượng vượt sông tiến lên, hội hợp ứng viện.” Chiếu rằng: “Đã sai phát quân Tần Phượng và tướng lĩnh Kinh Nguyên là Lý Trung Kiệt, tuyển chọn quân bộ lạc tiến lên ứng phó, lệnh Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội lộ nhanh chóng chỉ huy quan binh tướng mới được sai, dàn binh thế lớn, rộng rãi do thám, cần phải thận trọng, quyết bảo toàn vạn toàn.”

Xét việc này đã dùng sách 《Thanh Đường lục》 để tu, nay không ghi riêng. Chỉ có chiếu thư 《Thanh Đường lục》 không chép. Nhưng vây đã giải, dù không chép cũng được.

《Thực lục》 lại ngày 11 tháng 10 Kỷ Dậu chép: Xu mật viện tâu: “Kinh lược ty Hi Hà Lan Hội lộ tâu: Ngày 10 tháng nhuận tháng 9, bộ tộc Mạc Xuyên phản bội, Vương Mẫn thân dẫn tướng sĩ đánh úp. Ngày hôm sau, nước Hạ sai quân giặc mấy vạn ngựa, hợp lực vây đánh. Mẫn đánh úp ngày đêm, giết giặc khoảng hơn nghìn người, bắt sống ngụy thiêm hạt Ngôi Danh Khất Ngộ, cướp được cờ hổ, quân giặc liền tan chạy.”

Xét việc này 《Thanh Đường lục》 đã chép đủ, nay không ghi riêng.

《Ngọc điệp》 tháng nhuận tháng 9 Kỷ Dậu chép[27]: “Người Khương dẫn bộ tộc phản bội Mạc Xuyên xâm phạm, thống chế quan Vương Mẫn đánh bại, bắt sống ngụy thiêm hạt Ngôi Danh Khất Ngộ, chém được nghìn thủ cấp.”

《Tăng Bố nhật lục》 ngày 24 tháng nhuận tháng 9 Quý Tỵ, cùng trình Hi Hà và Lý Huệ tâu: “Bộ Phiên Mạc Xuyên làm loạn, vây thành và Lan Tông bảo, sứ thần bị giết hại, cùng Lũng Chu, Hắc Thành bị phá, Thanh Đường mấy ngày đường không thông.” Chiếu sai Miêu Lí, Lý Trung Kiệt và quân Tần Phượng cùng đi đánh dẹp.

Ngày 25 Giáp Ngọ, cùng trình biên tấu Hi Hà: “Ngày nay Kim Thành quan do thám báo: Chỉ có người Mạc Xuyên làm loạn, từ Tông Ca đến Thanh Đường một dải không sao. Nhưng tin tức chưa thông.” Chiếu Hồ Tông Hồi, Miêu Lí đa mộ người đến Thanh Đường do thám.

Ngày 4 tháng 10 Nhâm Dần, Hi Hà tâu thư thắng trận giải vây Thanh Đường, Mạc Xuyên đến. Thiện, Hoàng đều bị vây, Vương Thiệm xuất quân đánh giặc, chém bốn nghìn thủ cấp, giết chín tên thủ lĩnh lớn là Kết Ngõa Xước, Tâm Mâu Khâm Chiên. Có tên A Tô, xin cờ trắng đi chiêu phủ quân phản. Sau đó A Tô dẫn quân đánh thành rất mạnh. Thủ lĩnh Tông Ca là Gia Sấm Trát Thực bắt sống A Tô dâng lên, Thiệm giết đi. Trong thành Mạc Xuyên chỉ có hai nghìn bốn trăm quân dân, đồ giữ thành chưa đủ. Vương Mẫn, Mã Dụng Thành đánh giữ vững, quân Phiên vây quanh mấy vạn. Lại có quân Tam Giám Tây Hạ giúp.

Đến ngày 23 chất củi muốn đốt thành, thì quân Diêu Hùng đến. Giặc thấy bụi, lại có do thám về báo quân Hán sắp đến, liền chạy. Ngày 24, quân Hùng hội với Mẫn, giặc đã tan. Mẫn bắt một tên ngụy thiêm hạt Tây Hạ, rồi đánh dẹp quân còn lại. Ngày này cùng Tam tỉnh làm thánh chỉ, tướng sĩ đều được cấp đặc chi bảy trăm, Miêu Lí đem quân vượt sông được năm trăm. Lại làm chỉ huy suý ty, tướng tá đánh giết bộ tộc làm loạn, của cải gia súc chia đều cho quân sĩ, trâu ngựa lạc đà mua vào quan.

Ngày 5 Quý Mão, họp ở Đô đường, đều chúc mừng rằng: “Triều đình đã lập hai quận, nếu thất bại, lấy gì cho thiên hạ đời sau? Nay giải vây, là nhờ linh thiêng xã tắc.” Vương Thiệm không thông tin tức gần hai mươi ngày, quân đơn độc sâu trong đất giặc, không thất bại, thật may mắn.

《Bố lục》 ngày 24 Quý Tỵ lại chép: “Chiếu sai Miêu Lí, Lý Trung Kiệt và quân Tần Phượng đến Hi Hà, cùng đánh dẹp bộ Phiên Mạc Xuyên làm loạn.”

Xét việc này đã theo 《Thanh Đường lục》 chép đủ ngày 23, 《Bố lục》 chép như vậy, có thể bỏ đi.)

[88] Ngày Ất Mùi, tể thần Chương Đôn tâu: Việc biên soạn và ban hành sách 《Tường định biên sắc》 đã hoàn thành; các quan tường định là Thái Kinh, Lưu Canh, cùng các quan san định là Cát Phụng Thế, Mạc Chỉ, Điền Đăng, Thôi Bưu, Lâm Sư, Trần Ngạn Cung đều được giảm hai năm khảo hạch, và được ban thưởng bạc lụa theo thứ bậc. Ngô Hi hầu đợi khi xong việc biên soạn sắc lệnh của một ty sẽ xin chỉ dụ.

[89] Chiếu giáng hai chức quan của Tuyên nghĩa lang, Khởi cư xá nhân, Sùng chính điện thuyết thư Chu Thường, và bổ nhiệm thêm chức Giám sát trà, muối, rượu ở Châu Sâm. Trước đó, Chu Thường đã dâng sớ tự hặc lên Ngự sử đài gửi Hoàng Lí, và Đặng Tuân Vũ cùng các quan phân tích rằng Chu Thường nói việc Hoàng Hựu thừa bị điều đi là để tiễn hành, cùng việc Trâu Hạo trở lại, chỉ muốn hợp tục, bỏ phép để cầu danh, nên mới có mệnh lệnh này.

[90] Chiếu cho Hồ Tông Hồi chỉ huy Miêu Lí và các tướng, nếu giặc thấy quân triều đình vượt sông, dù chúng lập tức tan rã, cũng phải thẳng tay giết sạch, nhất định phải tiêu diệt hết những kẻ làm loạn, nhưng không được giết oan người vô tội.

(Theo 《Bố lục》 ngày Ất Mùi.)

[91] Thưởng công cho tám trại bảo ở Hà Đông[28], Văn Chấn trở xuống và Quách Thời Lượng được thăng chức, giảm năm khảo hạch, và ban thưởng theo thứ bậc.

(Theo 《Bố lục》.)

[92] Hoàng tử mất, triều đình ngừng chầu ba ngày, và không xử lý chính sự trong ba ngày. Truy tặng tên là Mậu, phong làm Thái sư, Thượng thư lệnh, truy phong làm Việt vương, thụy hiệu là Xung Hiến.

(Theo《Cựu lục》: Việt vương Mậu mất[29]. Mậu là con trưởng của hoàng đế, sinh vào tháng 8 ngày Mậu Dần, mẹ là Hoàng hậu Lưu thị. Sinh ra đã khôi ngô tuấn tú. Đến tháng 9 ngày Giáp Tý bị bệnh nặng, sai thầy thuốc trong cung chữa trị nhưng không khỏi, tìm thầy thuốc trong dân gian, nhưng cũng không hiệu quả, rồi mất. Năm đó mới một tuổi. Hoàng đế đau xót, ngừng chầu ba ngày, và không xử lý chính sự trong ba ngày, truy tặng tên là Mậu, phong làm Thái sư, Thượng thư lệnh, truy phong làm Việt vương, thụy hiệu là Xung Hiến. Nay hoàng đế kế vị, gia tặng kiêm Trung thư lệnh, truy phong làm Đặng vương. Xét theo sớ giả của Trâu Hạo, 《Cựu lục》 cũng không ghi chép. Truyện của Hạo lại quá sơ lược, nên tách ra ghi riêng. Đã chú thích vào ngày 25 tháng 9.)

[93] Ngày Đinh Dậu, chiếu chỉ cách chức sáu người thuộc viên y quan là Trác Thuận Chi, Lý Sĩ Sảng, Trương Ỷ, Vương Chu Đạo, Lý Sĩ Thích, Hồ Tông, vì chữa trị cho hoàng tử không hiệu quả, đều bị tước chức và cách chức. Trác Thuận Chi đưa về Hành Châu, Lý Sĩ Sảng về Vĩnh Châu, Trương Ỷ về Toàn Châu, Vương Chu Đạo về Tùy Châu, Lý Sĩ Thích về Từ Châu, Hồ Tông về Đường Châu, đều bị quản thúc.

[94] Công chúa thứ tư của hoàng đế là Ý Ninh mất, năm đó ba tuổi; triều đình ngừng chầu ba ngày, truy phong làm Ngụy Quốc công chúa. Công chúa là con của Hoàng hậu Lưu thị. Y quan Hàn lâm là Trương Vĩnh Nguyên bị giáng một chức, cách chức, Thạch Dữ Linh và Ban Công Quyền đều bị cách chức đặc biệt.

(Việc Ý Ninh mất, 《Bố lục》 ghi vào ngày 29 Mậu Tuất.)

[95] Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty tâu: “Xét theo điều khoản về cảm dũng, các sứ phủ tuyển cảm dũng với số lượng 100 người, chiêu mộ những người có hộ tịch rõ ràng, tuổi từ 20 trở lên, khỏe mạnh dũng cảm, có thể sử dụng, biết chữ, chưa từng phạm tội, võ nghệ đạt chuẩn thì được thu nhận. Lại có điều khoản quy định ba hạng mức chiêu mộ:

Hạng nhất, bắn cung bộ đạt 1 thạch 1 đấu, bắn cung ngựa đạt 9 đấu, mỗi tháng được lĩnh 2 quan tiền, 2 thạch gạo;

Hạng nhì, bắn cung bộ đạt 1 thạch, bắn cung ngựa đạt 8 đấu, mỗi tháng được lĩnh 1 quan 500 đồng, 1 thạch 5 đấu gạo;

Hạng ba, bắn cung bộ đạt 9 đấu, bắn cung ngựa đạt 7 đấu, mỗi tháng được lĩnh 1 quan tiền, 1 thạch gạo. Những người này còn phải tập cưỡi ngựa, bắn tên vào bia, đánh giáo trên ngựa, và sử dụng binh khí thành thạo thì mới được thu nhận.

Ty này xét thấy, hiện có nhiều Điện thị quân tướng, Thủ khuyết quân tướng đang chờ sai phái, trong đó có những người vốn là cảm dũng, do lập nhiều chiến công nên được bổ nhiệm, nhưng chưa có chính thức sai phái. Hiện nay, những người này đều có đơn xin tạm thời làm cảm dũng, chuẩn bị ra trận, được cấp tiền lương để nuôi sống. Ty này hiện quản lý 87 cảm dũng, phần lớn là người mới, chưa quen việc ra trận.

Nay xin xét lại những người vốn là cảm dũng, đã lập công được bổ làm Điện thị quân tướng, Thủ khuyết quân tướng[30], chưa có chính thức sai phái, nếu họ nguyện làm cảm dũng, thì căn cứ vào hạng mức khi được bổ làm cảm dũng và thăng giáng, cấp tiền lương. Nếu đủ số lượng, xin giảm bớt những người bắn cung yếu kém[31], võ nghệ non kém. Nếu Điện thị quân tướng, Thủ khuyết quân tướng lại làm cảm dũng, sau này lập chiến công, xin căn cứ vào chức vụ hiện có mà thăng bổ. Như vậy không chỉ có người ra trận chiến đấu, mà họ còn được cấp tiền gạo hàng tháng để nuôi sống.

Nếu được chấp thuận, xin sớm ban chỉ dụ.”

Tờ vàng tâu: “Theo điều khoản, cảm dũng lấy 100 người làm mức. Lộ này hiện quản lý 87 người, thiếu không nhiều, xin triều đình sớm ban chỉ dụ. Nếu được chấp thuận, xin không cấp tiền lương cho thân phận Điện thị quân tướng nữa.”

Chiếu lệnh Kinh Nguyên lộ Kinh lược ty, xét kỹ những cảm dũng hiện có, nếu có người võ nghệ yếu kém, không đạt hạng mức, thì trước hết cho thôi việc. Căn cứ vào số thiếu, thực hiện theo lời tâu của ty này.

(Chương Tiết tâu ngày 21 tháng 9 nhuận, nay phụ vào cuối tháng 9 nhuận.)


  1. 'Khuyết' nguyên bản viết 'Khuyết', theo các bản khác sửa lại
  2. 'Ngôn' nguyên bản viết 'Quan', theo các bản khác sửa lại
  3. Sai Nội cung phụng quan Lý Cấu, 'Cấu' nguyên là 'Cốc', theo 《Tống hội yếu》 phiên di 6-34 và sách này quyển 518, năm Nguyên Phù thứ 2, tháng 11, ngày Quý Dậu sửa lại.
  4. Câu đương công sự Kinh lược an phủ ty Hi Hà Lan Hội lộ Vương Hậu làm Đông thượng các môn phó sứ, chữ 'ty' nguyên là 'sứ', theo bản khác sửa lại.
  5. 'Ty' nguyên là 'sứ', theo các bản sửa.
  6. 'Nhân' nguyên là 'Nhập', theo các bản, bản in hoạt tự sửa.
  7. Vùng Đao Điệp: chữ 'Nhất' nguyên bản là 'Nhị', theo các bản khác và bản in chữ rời sửa lại.
  8. Chữ 'thần' trong câu 'thần trước đây vâng mệnh xem xét văn thư tố tụng' vốn bị thiếu, theo bản khác bổ sung.
  9. Quyền Phúc Kiến chuyển vận phán quan Trương Khang Quốc, chữ 'sứ' dưới 'chuyển vận' là thừa, theo bản khác mà bỏ
  10. Quyền Lưỡng Chiết chuyển vận phán quan Tăng Hiếu Hữu, chữ 'sứ' dưới 'chuyển vận' là thừa, theo bản khác mà sửa
  11. Chữ 'lang' nguyên là 'đại phu', xét đoạn văn này, trước kể các đại phu, sau đến các lang như Thừa nghị, không nên dưới 'Thông trực lang', trên 'Triều phụng lang' lại chèn vào 'Triều tán đại phu', nay theo bản khác mà sửa
  12. Trễ hạn hoặc tự ý cho kho khác chi nạp: chữ 'cập' nguyên bản thiếu, theo bản khác bổ sung.
  13. 'Nước' nguyên bản là 'băng', theo các bản và bản in chữ hoạt tự sửa lại
  14. Việc giáng chức quan ở Thiểm Tây vì phân phối áo nạp, chữ 'phối' nguyên là 'chước', theo các bản và bản in chữ rời sửa lại.
  15. Không biết Lưu Hà sao lại được phục chức sai khiển, chữ 'tiện' nguyên là 'sứ', theo bản trong các sách và văn bản dưới đây mà sửa lại
  16. Hà ở Vĩnh Hưng lộ tức giận Vương Phát không hợp lệ trình báo việc bồi thường tiền bảo giáp 'hợp' nguyên là 'lệnh', theo bản khác sửa.
  17. Đại thần với Hà không hợp 'hợp' nguyên là 'trung', theo bản khác sửa.
  18. Ngày 22 tháng 12 làm Tả sử, '22 ngày' nguyên bản viết '12 ngày', so với câu trên 'ngày 12 tháng 7' văn lệ không thống nhất, rõ ràng có sai sót, nay căn cứ vào bản các và bản hoạt tự sửa lại.
  19. Cũng là danh khác mà thực chất giống nhau, chữ 'danh' nguyên là 'các', theo các bản khác và bản in hoạt tự sửa
  20. 'cống' hai chữ nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung
  21. 'đóng' nguyên bản là 'cống', theo các bản khác sửa
  22. lương thực chỉ đủ dùng trong một tháng, 'chỉ đủ' trong 《Tống Hội Yếu》 binh cửu chi nhị viết là 'không', 《Tống Sử》 quyển 492 truyện Hạt Chinh không có chữ 'đủ'. Lại nữa, 'một tháng' trong các bản khác viết là 'nửa tháng'.
  23. mới biết Tâm Mâu Khâm Chiên cùng nhà Tẩy Nạp A Kết âm mưu, chữ 'cùng' trong 《Tống Hội Yếu》 phiên di lục chi tam tứ viết là 'ở'.
  24. Lý Trung trong 《Tống Sử》 quyển 350 truyện Vương Thiệm, 《Tống Hội Yếu》 binh cửu chi tam đều viết là 'Lý Tân', các chỗ sau cũng vậy.
  25. rơi xuống vực chết không kể xiết, chữ 'rơi' nguyên bản viết là 'theo', căn cứ vào các bản khác và bản hoạt tự sửa lại.
  26. chữ 'đương' nguyên bản thiếu, theo các bản khác bổ sung.
  27. 《Ngọc điệp》 tháng nhuận tháng 9 Kỷ Dậu chép, các bản đều giống, xét năm Nguyên Phù thứ 2 tháng nhuận tháng 9 ngày Canh Ngọ sóc, tháng này không có Kỷ Dậu. Lại xét trên văn có câu 'Ngày 10 tháng nhuận tháng 9, bộ tộc Mạc Xuyên phản bội', 'Ngày 10' là 'Kỷ Mão', nghi 'Kỷ Dậu' là 'Kỷ Mão' sai.
  28. 'Trại' nguyên bản viết là 'tắc', theo bản khác sửa lại
  29. Chữ 'Mậu' trong 'Việt vương Mậu mất' ban đầu bị thiếu, căn cứ vào bản trong các bản khác để bổ sung
  30. Thủ khuyết quân tướng, nguyên bản viết 'Tướng quân', theo bản khác sửa lại.
  31. Xin giảm bớt những người bắn cung yếu kém, chữ 'tức' nguyên bản viết 'kí', theo bản khác sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.