I. TỐNG THÁI TỔ
QUYỂN 13: NĂM KHAI BẢO THỨ 5 (NHÂM THÂN, 972)
Từ tháng giêng đến tháng chạp năm Khai Bảo thứ 5 đời Thái Tổ.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Ất Mùi, ban chiếu bãi bỏ việc cống nạp cá khô và thịt khô từ đạo Kinh Tương.
[2] Ngày Đinh Dậu, cấm dân chúng đúc sắt thành tượng Phật, tháp Phật và các hình người vô dụng. Thượng lo rằng dân ngu thường phá hủy nông cụ để cầu phúc, nên ra lệnh cấm.
[3] Ngày Kỷ Hợi, ban chiếu rằng từ nay các châu huyện dọc theo sông Hoàng Hà, Biện, Thanh, Ngự, ngoài việc trồng dâu và táo theo quy định cũ, giao cho quan lại địa phương khuyến khích dân trồng thêm du, liễu và các loại cây phù hợp với đất đai. Căn cứ vào hộ khẩu, chia làm năm bậc: bậc nhất mỗi năm trồng 50 cây, bậc hai trở xuống giảm dần 10 cây. Dân muốn trồng nhiều hơn thì được phép vượt số lượng quy định, còn những người cô quả nghèo khó thì được miễn.
[4] Cựu Huyện úy Lô huyện thuộc Vận châu là Hứa Vĩnh ở Yển Lăng dâng thư tự trình, nói rằng cha là Hứa Quỳnh đã 99 tuổi, anh cả 81 tuổi, anh thứ hai 79 tuổi, còn bản thân ông 75 tuổi, xin được bổ nhiệm một chức quan gần nhà để phụng dưỡng. Ngày Canh Tý, Thượng triệu kiến Hứa Quỳnh ở điện Tiện, hỏi han việc gần đây, Quỳnh trả lời rõ ràng, Thượng vui lòng, ban thưởng hậu hĩnh, liền bổ nhiệm Hứa Vĩnh làm Huyện lệnh Yển Thành[1].
[5] Ngày Nhâm Dần, giảm bớt các lại dịch và cán bộ ở các đạo, châu, huyện.
[6] Lại bộ Thượng thư đã về hưu, Trần Quốc công Trương Chiêu qua đời. Ông dặn con rằng: “Ta phụng sự nhiều triều đại, không có công đức gì với dân, đừng xin thụy hiệu và dựng bia, để tránh tăng thêm lỗi lầm của ta.”
[7] Phủ châu báo rằng quân Bắc Hán xâm phạm hai trại Phương Sơn và Nhã Nhĩ, bị đánh lui.
[8] Nạo vét sông Mẫn.
[9] Tháng hai, ngày Nhâm Tuất, mùng một, lấy Lưu Sùng Lượng, sứ giả tiến cống của Giang Nam, làm Đô quan viên ngoại lang. Sùng Lượng là con của Lưu Nhân Thiệm.
(Cần xem xét Sùng Lượng ở Giang Nam giữ chức gì, vì việc gì đến, và đến lúc nào.)
[10] Ngày Quý Hợi, ban chiếu miễn thuế giấy hàng năm của Đàm Châu, số lượng 1.780.000 tờ, đặc biệt miễn trong 10 năm.
[11] Ngày Ất Hợi, lấy trấn Kinh Môn thuộc Kinh Nam đặt làm quân Kinh Môn.
[12] Quyền tri Khánh Châu là Sử Phúc (Phúc, chưa rõ lai lịch) tâu rằng đã đánh bại quân Nhung ở Hoa Trì, giết hơn trăm người, bắt được hơn 600 con trâu dê. Lúc đó, Thứ sử Diêu Nội Bân vào triều, ở lại kinh đô lâu ngày, nên lệnh cho Phúc quyền tri châu sự.
(Sách ‘Thực lục’ gọi Sử Phúc là Thứ sử Khánh Châu, đó là sai. Lúc đó, Diêu Nội Bân mới thực sự là Thứ sử. Nội Bân vào triều năm thứ tư, ở lại kinh đô lâu ngày, nên lệnh cho Tả vệ tướng quân Sử Phúc quyền tri Khánh Châu, ghi chép vào tháng tám[2]. Nội Bân sau đó trở lại chức cũ, đến tháng hai năm thứ bảy mới mất. Sử Phúc chưa từng chính thức được bổ nhiệm làm Thứ sử, nay sửa lại.)
[13] Ngày Bính Tý, ban chiếu cho 17 châu phủ, trong đó có Khai Phong, mỗi nơi đặt một chức Hà đê phán quan, do Thông phán của châu đó đảm nhiệm, nếu thiếu thì lấy Phán quan của châu đó thay thế.
[14] Ngày Kỷ Mão, lệnh cho tăng ni không được thống lĩnh lẫn nhau, những người thọ giới phải đặt đàn tại chùa của mình.
[15] Ngày Canh Thìn, lấy mỏ bạc ở Phượng Châu đặt làm giám Khai Bảo.
[16] Trước đây, Chức phương lang trung Biên Tịch quản lý sở Thuế hóa Kiến An, tâu xin dời sở này đến Dương Châu. Có một người giàu tố cáo Hiệu úy Quảng Lăng là Tạ Đồ giết cha mình, bộ thuộc bắt giam Hiệu úy, các quan lại liên tiếp tra xét, suốt 300 ngày mà vụ án chưa xong, châu dâng tấu lên triều đình. Lệnh cho Tịch xét án, thu thập đầy đủ chứng cứ, mới biết người giàu kia vì thù riêng mà vu cáo, bèn xử tội phản ngược lại. Ngày Giáp Thân, lấy Tịch làm Tri Dương Châu, vẫn kiêm quản sở Thuế hóa. Tịch là người Hoa Châu.
[17] Ngày Mậu Tý, cấm việc tư nhân đưa đò qua sông Hoàng Hà, những người dân vốn có thuyền chở khách phải đăng ký số lượng và phá hủy thuyền.
[18] Ngày Canh Dần, phong Lưu Hi Cổ, học sĩ Điện Đoan Minh, Binh bộ thị lang, giữ nguyên chức, tham gia chính sự.
(Ghi chú: Lưu Hi Cổ, nguyên bản viết là “Lưu Kê Cổ”. Tra cứu ‘Tống sử’, quyển 3, phần ‘Thái Tổ kỷ’ và quyển 210, ‘Tể phụ biểu’, đều ghi là Lưu Hi Cổ. Kiểm tra lại các bản Tống và ‘Tống toát yếu’, cũng ghi là Lưu Hi Cổ, nên theo đó mà sửa.)
[19] Đế đã bình định Quảng Nam, dần có ý quản lý Giang Nam, nhân dịp Trịnh Vương Lý Tòng Thiện vào triều cống, bèn giữ lại. Quốc chủ rất lo sợ. Tháng đó, bắt đầu giảm bớt chế độ, hạ lệnh gọi là “giáo”, đổi Trung thư, Môn hạ thành Tả, Hữu Nội sử phủ, Thượng thư tỉnh thành Ty hội phủ, Ngự sử đài thành Ty hiến phủ, Hàn lâm viện thành Tu văn quán, Xu mật viện thành Quang chính viện. Phong Tòng Thiện làm Nam Sở Quốc công, Tòng Dật làm Giang Quốc công, Tòng Khiêm làm Ngạc Quốc công; cung điện đều dỡ bỏ hình chim nghê trên nóc.
[20] Tháng 2 nhuận, ngày Tân Mão mùng một, phong con gái thứ hai của Hoàng đệ làm Diên Khánh công chúa.
[21] Ngày Nhâm Thìn, Quyền tri cống cử Hỗ Mông tâu lên danh sách 11 tiến sĩ hợp cách, đứng đầu là An Thủ Lượng (người Kinh Triệu), cùng 17 người đỗ các khoa khác. Đế triệu tập sĩ tử đến Điện Giảng Vũ để đối đáp, rồi hạ chiếu ban bảng vàng, đây là chế độ mới.
[22] Ngày Quý Tỵ, phong Lý Tòng Thiện, sứ giả tiến phụng của Giang Nam, làm Thái Ninh Tiết độ sứ, ban cho nhà ở kinh sư. Lúc này, Quốc chủ tuy bề ngoài tỏ ra kính sợ, giữ lễ phiên thần, nhưng bên trong thực sự vẫn sửa soạn vũ khí, chiêu mộ binh sĩ, ngấm ngầm chuẩn bị chống giữ. Đế sai Tòng Thiện gửi thư khuyên Quốc chủ vào chầu, nhưng Quốc chủ không nghe, chỉ tăng thêm cống nạp hằng năm mà thôi.
[23] Nam đô lưu thủ, kiêm Thị trung Lâm Nhân Triệu có uy danh, triều đình e ngại, bèn hối lộ người hầu cận của ông để lấy trộm bức họa chân dung của Nhân Triệu, treo ở một phòng riêng, rồi dẫn sứ giả Giang Nam đến xem, hỏi: “Đây là ai?” Sứ giả đáp: “Là Lâm Nhân Triệu.” Người kia nói: “Nhân Triệu sắp đầu hàng, trước hết đưa bức họa này làm tin.” Lại chỉ vào một dinh thự trống và nói: “Sẽ ban tòa nhà này cho Nhân Triệu.” Quốc chủ không biết sự thật, bèn sai người đầu độc giết Nhân Triệu.
(Việc của Nhân Triệu, căn cứ theo ‘Giang Nam dã lục’ và ‘Thập quốc kỷ niên’.)
[24] Ngày Canh Tý, công chúa Diên Khánh xuất giá lấy Tả vệ tướng quân, Phò mã đô úy Thạch Bảo Cát. Bảo Cát là con của Thạch Thủ Tín.
[25] Ngày Canh Tuất, đặt An Hóa quân ở Mật Châu.
[26] Ra lệnh cho Hải Môn đóng thuyền để thông đường sang Giao Châu.
[27] Khi mới bình định Lĩnh Nam, Vua sai Thái tử trung doãn Chu Nhân Tuấn (Nhân Tuấn, chưa rõ lai lịch.) làm Tri châu Quỳnh Châu[3], lấy bốn châu Đam, Nhai, Chấn, Vạn An thuộc về Quỳnh Châu. Vua nói với tể tướng: “Vùng đất xa xôi, nóng nực, không cần bổ nhiệm chính quan, hãy để Nhân Tuấn chọn quan lại cũ, dựa theo phong tục mà cai trị.” Ngày Tân Mão[4], Nhân Tuấn dâng danh sách bốn người là Lạc Sùng Xán, Vua nói: “Mỗi người ban chức Kiểm hiệu quan, cho họ quản lý châu sự, từ từ xem hiệu quả.”
(Việc lấy bốn châu thuộc Quỳnh quản là sự việc tháng 4 năm thứ 4.)
[28] Ngày Mậu Ngọ, cấm đạo sĩ mặc áo thường và tự ý cho người khác xuất gia làm đạo sĩ.
[29] Hiệu úy Long Kỵ quân ở Dĩnh Châu là Cừu Hưng cùng mọi người góp tiền cúng dường tăng ni để tạ ơn việc ban thưởng hậu hĩnh ở Nam Giao. Vua nghe tin, nói với tả hữu: “Trong quân đã có chế độ thường lệ, sao lại làm như vậy!”
[30] Tháng 3, ngày Canh Ngọ, ra chiếu cho Dĩnh Châu xuất tiền công để trả lại, đồng thời nghiêm khắc răn dạy.
[31] Ngày Tân Mùi, Vua nước Chiêm Thành là Ba Mĩ Thuế sai sứ thần là Bồ Ha Tán đến cống nạp sản vật địa phương.
[32] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự đến hồ Giáo Thuyền xem tập trận thủy chiến.
[33] Ngày Ất Hợi, Liệu Châu tâu rằng điều Chiêu thu Chỉ huy sứ Vương Mãn dẫn quân vào địa giới Bắc Hán, phá được một đồn.
[34] Dân Lĩnh Nam có người trốn thuế, quan huyện hoặc thay họ nộp, hoặc mượn tiền từ nhà giàu, rồi đều nhận vợ con của họ làm vật thế chấp. Tri Châu Dung Châu là Quán Thủ Tố tâu việc này, ngày Giáp Thân, hạ chiếu nghiêm cấm việc đó tại các nơi.
[35] Ngày Ất Dậu, Điện trung Thị ngự sử Trương Mục bị xử chém nơi chợ, vì tội khi thông phán Định Châu đã tham ô tiền của trị giá một trăm vạn, bị thuộc hạ là Hồng Ngộ tố cáo, tra xét đúng sự thật nên xử theo pháp luật. Ban cho Ngộ áo gấm, đai bạc và ba trăm tấm lụa.
[36] Hạ chiếu: “Ở Trung Quốc, cứ mỗi hai mươi hộc thuế thì nộp một tấm da trâu, quy đổi thành một ngàn tiền. Ở Tây Xuyên vẫn theo chế độ cũ, khi trâu hoặc lừa chết thì da phải nộp hết cho quan, nay bãi bỏ, chỉ cần nộp một tấm da trâu cho mỗi hai mươi hộc thuế, quy đổi thành năm trăm tiền.”
(Việc này căn cứ theo ‘Thực hóa chí’ ghi vào tháng ba năm nay, nay phụ chép vào đây, đợi tra cứu kỹ hơn.)
[37] Bãi bỏ việc hàng năm các châu ven sông ở hai kinh phải kê khai đinh vào mùa xuân và mùa thu, chỉ cần khai báo vào mùa hạ tháng sáu và mùa đông tháng mười hai. Lại nữa, việc thu thuế ở các châu, chỉ yêu cầu huyện lập sổ kê khai đơn giản để nộp lên châu, không được bắt các làng làm sổ kê khai chi tiết, gây phiền nhiễu.
(Việc này cũng được ghi trong ‘Thực hóa chí’ tháng ba năm nay.)
[38] Mùa hạ, tháng tư, ngày Canh Dần, mùng một, Vua nước Tam Phật Tề là Thích Lợi Ô Gia sai sứ đến cống vật phẩm.
[39] Vua xem sổ sách địa bạ Lĩnh Nam, thấy châu huyện nhiều mà hộ khẩu ít, bèn sai Tri Quảng Châu Phan Mỹ và Chuyển vận sứ Vương Minh đo đạc đất đai, sáp nhập để tiện cho dân. Ngày Giáp Ngọ, lần đầu bãi bỏ châu Bạch và châu Thường Lạc.
[40] Ngày Kỷ Hợi, lấy con của Tham tri chính sự Tiết Cư Chính là Duy Cát, con của Lữ Dư Khánh là Duy Cung, và con của Xu mật phó sứ Thẩm Nghĩa Luân là Kế Tông đều làm Tây đầu Cung phụng quan.
[41] Ngày Bính Ngọ, vì lũ lụt, sai Tả ty Viên ngoại lang Hầu Trắc cùng ba người khác, đi khắp nơi xem xét ruộng đất của dân.
[42] Thấp Châu Đoàn luyện sứ, kiêm Tấn Châu, Thấp Châu và các châu biên giới Đô tuần kiểm Chu Huân, đắp lũy ở biên giới Bắc Hán, bị quân Bắc Hán tập kích phá hủy. Ngày Mậu Ngọ, giáng Huân làm Nghĩa Châu Thứ sử.
[43] Cấm các châu Lĩnh Nam bắt người để bán.
[44] Tháng 5, ngày Giáp Tý, lấy Binh mã kiềm hạt Tấn châu Vũ Thủ Kỷ làm quyền Tri Tấn châu sự.
(Vũ Thủ Kỷ làm Tri Tấn châu sự, đầu đuôi không rõ, trong thực lục có ghi chép này, đặc biệt chép lại để đợi tìm hiểu thêm. Thủ Kỷ xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ 4, không rõ quê quán.)
[45] Ngày Ất Sửu, sai cận thần đến các đền miếu trong kinh thành để cầu tạnh trời.
[46] Bãi bỏ 13 châu: Trừng, Tân, Tầm, Loan, Phú, Tư Minh, Khang, Tú, Ngung, Thuận, Lao, Đảng, La; cùng 49 huyện đã bãi bỏ trước đó.
[47] Ngày Bính Dần, xuống chiếu bãi bỏ đạo Mị Xuyên đô ở Lĩnh Nam. Chọn những người trẻ khỏe sung vào Tĩnh Giang quân, người già yếu cho tự do, đồng thời cấm dân không được lấy nghề mò ngọc trai làm nghiệp.
Trước đây, Lưu Sưởng ở trấn Hải Môn chiêu mộ 2.000 người có thể mò ngọc trai, gọi là “Mị Xuyên đô”. Mỗi lần mò ngọc, phải buộc đá vào chân để lặn xuống, có khi sâu đến 500 thước, nhiều người chết đuối. Chỗ ở của Sưởng đều trang trí bằng mai rùa, ngọc trai, ngọc bích, xa xỉ đến cùng cực. Khi quân triều đình đến, ông đốt sạch cả kho tàng. Phan Mỹ và những người khác từ đống tro tàn tìm được số mai rùa và ngọc trai còn lại dâng lên, đồng thời tâu lên tình cảnh nguy hiểm, khổ cực của việc mò ngọc. Vua liền sai tiểu hoàng môn mang cho tể tướng xem, nhanh chóng ban chiếu bãi bỏ.
[48] Ngày Tân Mùi, sông lớn vỡ đê ở huyện Bộc Dương, châu Thiền.
Ngày Nhâm Thân, sai Dĩnh châu Đoàn luyện sứ là Tào Hàn đến đắp đê. Hàn từ biệt ở điện Tiện, Vua nói: “Mưa không ngớt, lại nghe tin sông vỡ đê. Từ hai đêm nay, Trẫm đốt hương cầu khấn trời, nếu có thiên tai xảy ra, xin để lên thân Trẫm, đừng làm hại đến dân.”
Hàn cúi đầu lạy nói: “Xưa Tống Cảnh Công chỉ là chư hầu, nhưng một lời thiện nói ra, sao tai đã lùi đi. Nay Bệ hạ lo nghĩ cho muôn dân, thành khẩn cầu xin như vậy, chắc chắn sẽ cảm động được trời, tất nhiên không thể gây ra tai họa được.”
[49] Ngày Quý Dậu, Vua lại hỏi các Tể tướng rằng: “Mưa lớn không ngừng, Trẫm ngày đêm lo lắng, không biết phải làm thế nào, có phải vì chính sách hiện tại còn thiếu sót nên mới như vậy không?”
Triệu Phổ đáp: “Từ khi Bệ hạ lên ngôi đến nay, luôn lo lắng chăm lo mọi việc, thấy tệ tật thì bỏ, nghe điều thiện thì làm, còn việc mưa lớn gây thiên tai, đó là do chúng thần thất chức.”
Vua nói: “Trẫm lại nghĩ, sợ rằng trong hậu cung có nhiều người bị giam giữ. Hôm qua đã lệnh lập danh sách toàn bộ hậu cung, tổng cộng ba trăm tám mươi người, rồi ra lệnh hỏi ai muốn trở về nhà, hãy nói rõ tình cảm, kết quả có hơn một trăm năm mươi người, Trẫm đều ban thưởng hậu hĩ và cho họ về.” Triệu Phổ và các quan đều chúc tụng Vua vạn tuế.
[50] Sông [Hoàng Hà] lại vỡ đê ở huyện Triêu Thành thuộc phủ Đại Danh, các châu phía bắc và phía nam sông đều bị lũ lớn.
[51] Châu Thiểm báo rằng, dân Phạm Nghĩa Siêu vào năm Hiển Đức nhà Chu vì thù riêng đã giết chết mười hai người trong gia đình Thường Cổ Chân, Cổ Chân khi ấy còn nhỏ trốn thoát được, đến nay đã trưởng thành, bắt được Nghĩa Siêu và tố cáo lên quan phủ. Cơ quan có thẩm quyền dẫn luật xá tội muốn tha. Vua nói: “Làm sao có thể tha tội giết cả một gia đình mười hai người?” Rồi ra lệnh chém Nghĩa Siêu.
[52] Tháng 6, ngày Mậu Tý, dời châu Nhai đến châu Chấn, sau đó bãi bỏ châu Chấn.
[53] Ngày Canh Dần, sông [Hoàng Hà] vỡ đê ở huyện Dương Vũ, sông Biện vỡ đê ở châu Trịnh và châu Tống.
[54] Lưu hậu châu Tĩnh Giang là Quách Đình Vị từ châu Tử về triều nhận chức mới, đến ngày Tân Mão thì qua đời. Vua sai trung sứ lo việc tang lễ.
[55] Ngày Đinh Dậu, Vua ban chiếu yêu cầu các quan lại ở các châu huyện ven sông phải chăm lo cho dân, không để họ phải di cư, nếu ruộng đất bị hư hại thì phải thống kê số lượng và báo cáo.
[56] Ngày Ất Tỵ, bãi bỏ châu Bích.
[57] Ngày Mậu Thân, huy động binh lính và dân phu từ các châu, tổng cộng năm vạn người để đắp đê ngăn lũ, cử Tào Hàn trông coi công việc. Chẳng bao lâu, các đoạn sông vỡ đều được đắp lại.
[58] Tháng này, hạ chiếu rằng: “Gần đây, các châu Thiền, Bộc và một số châu khác mưa liên tiếp, sông Hồng gây họa. Trẫm từng nhiều lần chứng kiến lũ lụt, gây khốn khổ cho dân chúng. Mỗi lần xem sách xưa, đều nghiên cứu kỹ về kinh độc. (Xét: ‘Kinh độc’ có nghĩa là ‘dòng chảy chính’. ‘Tống sử ký’ sửa thành ‘nghiên cứu kỹ về câu độc’. Tiết Ứng Kỳ trong ‘Tục thông giám’ sửa thành ‘nghiên cứu kỹ về kinh độc’. Đều sai.) Như trong sách của Hạ Hậu chỉ nói dẫn sông ra biển, theo núi đào sông, chưa từng nghe nói dùng sức ngăn dòng nước mạnh, xây đê cao. Từ thời Chiến Quốc chỉ lo lợi ích riêng[5], lấp đường cũ, việc nhỏ gây hại lớn, tư lợi hại công, chế độ Cửu Hà bị phá hủy, nỗi lo các đời không dứt. Phàm các bậc sĩ phu, kẻ sĩ ẩn dật, ai am hiểu sách về sông ngòi, thấu rõ biện pháp khơi thông, nếu có cách lâu dài, tránh nỗi khổ lớn, đều cho phép đến triều đình dâng sớ, gửi thư qua trạm. Trẫm sẽ tự xem, dùng tài năng của họ, đáp ứng yêu cầu tìm hiểu, sẽ ban thưởng xứng đáng.”
[59] Bấy giờ, có ẩn sĩ Đông Lỗ là Điền Cáo, soạn sách ‘Toản Vũ Nguyên Kinh’ 12 thiên[6], Vua nghe tin, triệu vào hỏi về đạo trị thủy, khen ngợi lời đối đáp, muốn phong quan. Cáo từ chối, viện cớ cha già, xin về phụng dưỡng, chiếu chấp thuận.
[60] Trước đó, người Nữ Chân xâm lược trại Bạch Sa, cướp ba con ngựa quan và 128 dân. Sau đó, họ sai sứ mang ngựa đến cống, chiếu chỉ yêu cầu dừng lại. Do đó, thủ lĩnh Bột Hải Na cùng hai người khác đến cống, nói đã lệnh bộ lạc trả lại dân và ngựa đã cướp từ trại Bạch Sa. Chiếu nghiêm trách tội xâm lược trước, nhưng khen ngợi ý thuận phục, tha cho sứ giả cống ngựa.
[61] Mùa thu, tháng bảy, ngày Kỷ Mùi, Hữu thập di, Thông phán Quỳ Châu Trương Tuân bị tội tham ô, xử tử giữa chợ.
[62] Ngày Đinh Mão, ban chiếu rằng các miếu thờ Ngũ Nhạc, Tứ Độc và Đông Hải đều do Lệnh và Uý của huyện đó kiêm nhiệm chức Lệnh và Thừa của miếu[7], quản lý việc tế tự, thường xuyên kiểm tra, đảm bảo sạch sẽ. Lại ghi chép số lượng miếu vũ và đồ tế khí, khi thay người, giao lại đầy đủ[8]. Các quan trưởng lại của châu mỗi tháng một lần đến miếu kiểm tra việc tế tự.
(Ghi chép mới vào ngày Nhâm Thìn tháng 6. Nay theo ghi chép cũ và bản kỷ.)
[63] Ngày Mậu Thìn, Tiền Bảo Đại tiết độ sứ Viên Ngạn mất. Ngạn từng nhiều lần trấn giữ các trấn, nhưng xuất thân từ quân ngũ, không thông thạo chính sự[9]. Khi ở Tào Nam[10], ông bị quan lại và dân chúng kiện tụng, nhưng Vua nghĩ đến công lao cũ, nên không xử tội. Do đó, sai trung sứ lo liệu việc tang lễ cho ông.
[64] Ngày Canh Ngọ, phong Hoàng đệ tam nữ làm Vĩnh Khánh Công Chúa.
[65] Ngày Giáp Thân, Công chúa Vĩnh Khánh giáng hôn với Hữu vệ tướng quân, Phò mã đô úy Ngụy Hàm Tín. Ngụy Hàm Tín là con trai của Ngụy Nhân Phố.
Trước đây, Công chúa từng mặc áo ngắn thêu hoa gắn lông chim vào cung. Thượng thấy thế, bảo Công chúa rằng: “Ngươi hãy đưa cái áo này cho ta, từ nay về sau chớ mặc loại trang phục này nữa.”
Công chúa cười hỏi: “Những lông chim này có giá trị bao nhiêu mà phải vậy?”
Thượng đáp: “Không phải. Nếu nhà ngươi mặc loại áo này, thì những người trong cung đình và họ hàng tất sẽ bắt chước. Giá lông chim ở kinh thành sẽ tăng cao, dân gian sẽ tranh nhau buôn bán, việc giết hại sinh vật sẽ ngày càng lan rộng, đều là do ngươi mà ra. Ngươi sinh ra và lớn lên trong giàu sang, nên biết trân trọng phúc đức, sao lại có thể tạo ra cái đầu mối tội ác này?” Công chúa nghe lời, cảm thấy xấu hổ và tạ lỗi.
Công chúa nhân lúc hầu chuyện, cùng Hoàng hậu nói: “Quan gia làm thiên tử đã lâu, sao không dùng vàng trang trí kiệu để đi lại?”
Thượng cười bảo: “Ta với sự giàu có của thiên hạ, muốn dùng vàng bạc trang hoàng cung điện cũng không khó. Nhưng ta nghĩ rằng mình là người gìn giữ tài sản cho thiên hạ, sao có thể tùy tiện tiêu dùng? Xưa nay người ta nói, một người cai trị thiên hạ, chứ không phải lấy thiên hạ phục vụ một người. Nếu chỉ lo chăm chút cho bản thân, thì thiên hạ sẽ nhìn ta thế nào? Ngươi đừng nói như vậy nữa.”
(Sách ‘Đàm uyển’ chép việc này là của Ngụy Quốc Trưởng công chúa. Theo sử, Ngụy Quốc công chúa là con gái thứ bảy của Thái Tông. Vào thời Thái Tổ, Ngụy Quốc chưa được phong tước, nên không thể gọi là “chủ gia”, có lẽ có nhầm lẫn. Tuy nhiên, sự việc này thực sự do Ngụy Hàm Tín kể lại, nên được ghi chép sau việc Công chúa kết hôn, cần xem xét thêm.)
[66] Tả vệ tướng quân, Phò mã đô úy Thạch Bảo Cát nhậm chức Thứ sử Ái Châu.
[67] Chiếu chỉ rằng: “Trẫm nghe nói các châu đặt ngục thất trong Tư mã bộ viện, bên ngoài lại xây thêm tử thành, các ty ngục cũng tự tiện giam giữ người, thật là vô lý. Từ nay về sau, cấm nghiêm việc này. Kẻ nào vi phạm sẽ bị xét xử nghiêm khắc, ai tố cáo sẽ được thưởng mười vạn tiền.”
[68] Tam ty tâu rằng kho lương tháng này chỉ đủ cấp đến tháng hai năm sau[11], xin phân bổ các quân đồn trú, huy động toàn bộ thuyền dân để hỗ trợ vận chuyển lương thực từ Giang, Hoài.
Thượng nổi giận, triệu Quyền phán Tam ty Sở Chiêu Phụ đến trách mắng rằng: “Nước không có dự trữ đủ chín năm gọi là thiếu thốn. Ngươi không sớm tính toán, nay kho lương sắp cạn, mới xin phân bổ quân lính, thu gom thuyền dân để cấp lương vận[12], việc này có thể làm ngay được sao? Vả lại, đặt ngươi làm gì! Nếu có thiếu sót, tất sẽ trị tội ngươi để tạ lỗi với mọi người.” Chiêu Phụ hoảng sợ, không biết tính sao, bèn thẳng đến Khai Phong phủ, gặp Hoàng đệ Quang Nghĩa khóc lóc cầu xin, mong được nhờ giải thích giùm, nới lỏng tội lỗi để có thể tận lực lo liệu. Quang Nghĩa đồng ý.
Chiêu Phụ ra ngoài, Quang Nghĩa hỏi Hữu Tri khách Áp nha Vĩnh Thành là Trần Tòng Tín rằng: “Phải làm thế nào?”
Tòng Tín đáp: “Tòng Tín từng đi du lịch ở Sở, Tứ, thấy nguyên nhân việc vận chuyển lương thực bị đình trệ, chủ yếu là do thủy thủ ăn uống hàng ngày, phải đến các châu huyện nơi họ đi qua để xin cấp phát, nên thường bị trì hoãn[13]. Nếu từ lúc khởi hành đã tính toán ngày và cấp phát đầy đủ, cả đi lẫn về đều như vậy, thì có thể quy định thời hạn cho họ. Lại nữa, việc vận chuyển gạo từ Sở, Tứ lên thuyền, đến kinh sư chuyển gạo vào kho, nên chuẩn bị sẵn lực lượng vận chuyển, đều bắt họ xuất nạp ngay lập tức. Như vậy, mỗi lần vận chuyển có thể giảm được vài chục ngày. Từ Sở, Tứ đến kinh sư ngàn dặm, trước đây quy định 80 ngày một lần vận chuyển, một năm ba lần. Nay nếu bỏ đi những ngày trì hoãn vô ích, thì mỗi năm có thể tăng thêm một lần vận chuyển. Lại nghe nói Tam ty muốn trưng dụng thuyền của dân, nếu không cho phép, thì không thể bắt họ làm việc, nếu lấy hết thuyền để dùng, thì mùa đông ở kinh sư sẽ thiếu củi đốt, chi bằng tuyển chọn những thuyền chắc chắn để vận chuyển lương thực, còn những thuyền hư hỏng thì cho dân chở củi, như vậy cả công lẫn tư đều có lợi. Hiện nay gạo trong chợ đắt, quan lại định giá mỗi đấu là 70 đồng, thương nhân nghe vậy, vì không có lợi nên không dám chở gạo đến kinh sư, dù người giàu có dự trữ cũng giấu không bán, vì thế gạo càng đắt, mà dân nghèo sẽ lo sợ chết đói.” Quang Nghĩa cho là phải. Hôm sau, đem hết lời ấy tâu lên Thượng, Thượng đều nghe theo. Nhờ vậy việc được giải quyết, Chiêu Phụ cũng được miễn trách nhiệm.
(Truyện Trần Tòng Tín chép việc này xảy ra vào mùa thu năm Khai Bảo thứ ba. Sách ‘Bảo huấn’ chép là năm thứ hai. Xét rằng Sở Chiêu Phụ quyền phán Tam ty thực sự là tháng 5 năm thứ tư, sao có thể năm thứ ba mùa thu đã có việc này? Nay chép vào mùa thu năm thứ năm, để tránh mâu thuẫn. Tháng 10 mùa đông, 10 vạn thạch gạo từ Giang, Hoài đến kinh sư, chính là do kế sách của Tòng Tín được thực hiện.)
[69] Trước đó, Đại Lý chính nội Hoàng là Lý Phù nhậm chức Tri châu Quy Châu, thấy việc chế trí của Ty chuyển vận không hợp lý, liền dâng tấu lên, được Vua khen ngợi.
Khi mãn nhiệm trở về kinh, Vua thấy tiền tệ các châu phía Tây kinh thành không đủ, vào ngày Quý Tỵ tháng 8, bèn sai Lý Phù làm Tri chuyển vận sứ phía Nam kinh Tây, ban cho tám chữ “Lý Phù đến nơi, như Trẫm thân hành”, lệnh viết lên cờ lớn, thường mang theo bên mình. Lý Phù trước sau dâng tấu những việc có lợi, tổng cộng hơn trăm điều, trong đó 48 việc được thi hành và ghi vào lệnh.
[70] Ngày Bính Thân, lệnh cho Đồng tri Quảng Châu là Phan Mỹ và Doãn Sùng Kha kiêm nhiệm chức Lĩnh Nam chuyển vận sứ, còn Nguyên chuyển vận sứ là Vương Minh làm Phó sứ, Thái tử Trung duẫn là Hứa Cửu Ngôn làm Phán quan. Chức Chuyển vận phán quan bắt đầu từ Hứa Cửu Ngôn.
(Sách ‘Long Bình Tập’ chép năm Khai Bảo thứ 6, lần đầu bổ nhiệm Từ Trạch làm Quảng Nam vận phán, e là sai.)
[71] Ngày Kỷ Hợi, Quảng Châu tâu rằng Hành dinh Binh mã đô giám là Chu Hiến dẫn quân đánh bại hơn hai vạn quân giặc Lão dưới thành Dung Châu. Trước đó, khắp Lĩnh Nam nổi dậy giặc cướp, Ngụy Khai phủ là Nhạc Phạm, thổ hào là Chu Tư Quỳnh, mỗi người tụ tập đám đông dựa vào biển làm loạn, Doãn Sùng Kha dẫn quân đánh dẹp, Vua sai Trung sứ là Lý Thần Hữu đốc chiến, vài tháng sau dẹp yên bọn chúng.
(Sách ‘Tân Lục’ và ‘Cựu Lục’ đều chép vào ngày Quý Mùi tháng 7 rằng dân châu Ung, Dung dụ dỗ người Man làm loạn, ‘Bản Kỷ’ cũng chép như vậy. Nay ghi chung vào đây. Chu Tư Quỳnh, trong truyện Doãn Sùng Kha chép là tướng giặc châu Thiều, trong truyện Phan Mỹ chép là thổ hào. Truyện Sùng Kha còn chép Ngụy Khai phủ là Nhạc Phạm, Chỉ huy sứ là Viên Hán Quỳnh cùng Đặng Tồn Trung chiếm giữ năm châu làm phản. Nhưng không rõ năm châu là những châu nào, nay chỉ theo truyện Phan Mỹ, coi Chu Tư Quỳnh là thổ hào, thêm Nhạc Phạm một người, lại theo truyện Phan Mỹ chung chép là tụ tập đám đông dựa vào biển, không nói rõ châu nào, để tránh mâu thuẫn. Việc Đặng Tồn Trung đã chép trong phần Phạm Mân làm Tri châu Ung, nay không chép lại.)
[72] Ngày Quý Mão, lập Bảo Tĩnh quân ở châu Túc.
[73] Châu Mật lại đặt làm châu Phòng ngự, bỏ Tiết độ sứ An Hóa quân.
[74] Giám quân trấn Hải Môn là Triệu Lệnh Dong (Lệnh Dong, chưa thấy chép) đánh bại giặc châu Liêm, Bạch.
[75] Tháng 9, ngày Đinh Tỵ mùng 1, có nhật thực.
[76] Ngày Canh Ngọ, khôi phục châu Bích.
[77] Cấm dân Tây Xuyên thu tiền kết xã[14] và đua thuyền.
[78] Xu mật sứ Lý Sùng Củ kết thân mật với tể tướng Triệu Phổ, gả con gái cho con trai Phổ là Thừa Tông. Vua nghe việc này, không vui. Trước đây, Xu mật sứ và Tể tướng chờ đối đáp ở điện Trường Xuân, cùng ở chung một nhà, Vua bắt đầu ra lệnh cho họ tách biệt.
Có người tên Trịnh Thân, làm khách dưới trướng Sùng Củ gần chục năm. Sùng Củ biết Thân gian trá, không đức hạnh, nên đối đãi ngày càng lạnh nhạt. Thân oán hận, đánh trống Đăng Văn, tố cáo Sùng Củ nhận vàng của Tịch Hy Tẩu người Thái Nguyên, nhờ cậy riêng Hàn lâm học sĩ Hỗ Mông cho Hy Tẩu đỗ Giáp khoa, và dẫn Quân khí khố sứ người Phạm Dương là Lưu Thẩm Quỳnh làm chứng. Vua nổi giận, triệu Thẩm Quỳnh đến tra hỏi, Thẩm Quỳnh thuật lại đây là vu cáo, Vua nguôi giận phần nào. Ngày Quý Dậu, Sùng Củ bị cách chức Xu mật sứ, giáng làm Trấn quốc tiết độ sứ.
Vua ban cho Thân học vị đồng Tiến sĩ, bổ nhiệm làm Chủ bạ huyện Toan Tảo. Sau khi Thân chết, mẹ ông nghèo đói, đến nhà con trai Sùng Củ là Kế Xương xin ăn. Gia nhân tranh nhau mắng mỏ đuổi đi[15], chỉ Kế Xương cho gặp, tặng một trăm lạng bạch kim. Đương thời khen Kế Xương là bậc trưởng giả.
(Theo sách ‘Hội yếu’, lúc ấy Xu mật sứ chỉ có Thẩm Nghĩa Luân một người. Năm thứ sáu, Nghĩa Luân làm Tể tướng, phong Sở Chiêu Phụ làm Phó sứ, cũng chỉ một người tại viện.)
[79] Ngày Mậu Dần, dời Dương Trọng Huân, Lưu hậu Kiến Ninh, làm Lưu hậu Bảo Tĩnh.
(Sách ‘Dương Ức Thuyết Uyển’ chép: Phùng Huy làm Tiết độ sứ Linh Vũ, có uy danh, người Khương, Nhung đều kính sợ. Con là Kế Nghiệp kế vị. Dương Trọng Huân cũng nhiều đời cai trị Lân Châu. Cả hai đều tuân mệnh triều đình, vỗ về các tộc người phiên, làm lá chắn cho biên giới tây bắc. Thái Tổ nhân dịp Kế Nghiệp vào triều, dời ông về trấn thủ Đồng Châu, sai quan văn quản lý việc ở Linh Châu, triệu Trọng Huân về giao cho trấn gần, lại sai quan võ cai quản châu sự. Về sau, hai phương này khiến triều đình phải lo toan, nhiều người bàn rằng hai việc này là sai lầm. Việc sai quan võ cai quản Lân Châu, ‘Thực lục’ không ghi, cần xem xét thêm.)
[80] Tháng này, Hiệu úy Nha Châu là Lục Xương Đồ làm loạn, đốt phá nha thự. Tri Châu Quỳnh là Chu Nhân Tuấn sai quân đánh dẹp yên.
(Thực lục chép việc này vào tháng 5 năm sau, nay đưa vào đây.)
[81] Cấm tàng trữ các vật dụng huyền tượng, thiên văn, đồ sấm, lịch Thất Diệu, Thái Nhất Lôi Công, Lục Nhâm Độn Giáp trong nhà dân, ai có phải nộp lên quan.
[82] Mùa đông, tháng 10, khôi phục Khang Châu.
[83] Ngày Mậu Tuất, xuống chiếu rằng các quan ở biên viễn chỉ cần làm đủ ba năm thì được thay thế, cơ quan chức năng phải xét kỹ sổ sách, không để chậm trễ.
[84] Trước đó, Tiết độ sứ Hà Dương là Trương Nhân Siêu ở Lạc Dương, nhân dịp tế giao vào triều, xin ở lại kinh đô. Ngày Canh Tý, ông mất. Vua vội đến nhà ông, khóc thương, ngừng triều ba ngày, sai trung sứ lo việc tang, ban chiếu ưu đãi truy tặng chức Trung thư lệnh, đây là việc không theo thường lệ.
[85] Ngày Quý Mão, xuống chiếu cho Công đức sứ cùng Đạo lục Tả Nhai là Lưu Nhược Chuyết tập hợp các đạo sĩ ở kinh sư để khảo sát, ai học vấn chưa đủ và không tu dưỡng đều bị loại. Nhược Chuyết là người Thục, tự hiệu là Hoa Cái Tiên Sinh, giỏi phép phục khí, tuổi hơn 90 mà vẫn khỏe mạnh, đi lại nhanh nhẹn. Mỗi khi có hạn hán, ông đều được triệu vào cung, dựng đàn cầu đảo, phép thuật tinh thông, được Vua rất coi trọng.
[86] Ngày Kỷ Dậu, xuống chiếu rằng các quan trường viện, Lương liệu sứ, Trấn tướng ở các châu đều lấy ba năm làm một nhiệm kỳ.
[87] Thủ lĩnh đất Thục thời Tần là Lý Băng có miếu thờ ở quân Vĩnh Khang. Thời kỳ đầu Ngụy Thục, ông được phong làm Đại An Vương, sau lại phong làm Ứng Thánh Linh Cảm Vương. Khi Thục bình định, Vua ban chiếu cho quan lại địa phương tu sửa và trang hoàng miếu ấy. Ngày Ất Mão, lại đổi phong làm Quảng Tế Vương, hằng năm cúng tế một lần.
[88] Hộ làm muối ở giám Hải Môn là Bàng Sùng cùng đám người làm phản. Giám quân Triệu Lệnh Dong đánh bại chúng, chém đầu ba trăm tên.
[89] Tháng đó, chuyển mười vạn thạch gạo từ Giang, Hoài đến kinh sư, đều do thuyền công tư ở hai sông Biện, Thái chở.
[90] Tháng 11, ngày mùng 1 Đinh Tỵ, lấy Thần châu đô chỉ huy sứ Tần Đức Sùng (Đức Sùng, không rõ lai lịch) làm Khởi phục Vân huy tướng quân, quyền quản lý Thần châu, kiêm Ngũ Khê tuần kiểm sứ. Hai năm sau, Đức Sùng bị bãi chức trở về, được bổ làm Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân.
(Sách ‘Ngụy Thái Đông Hiên lục’ chép: Vũ Lăng, Thần Dương, Lễ Dương, Thanh Tương, Thiệu Dương năm châu, đều có người Man Dao tập hợp, dựa núi ngăn sông[16], khoảng hơn mười vạn người. Thời Mã Hi Phạm, Chu Hành Phùng, họ nhiều lúc kéo ra cướp phá biên giới, thậm chí bao vây uy hiếp hai châu Thần, Vĩnh, giết hại dân chúng, cướp bóc gia súc, năm nào cũng không yên.
Thái Tổ sau khi chiếm được Kinh Hồ, muốn tìm người am hiểu tình hình người Man, thông thạo hiểm địa, dũng cảm mưu lược để trấn phủ họ.
Có người Man Dao ở Thần châu tên là Tần Tái Hùng, cao bảy thước, mạnh mẽ có mưu lược, thời Chu Hành Phùng từng nhiều lần lập công trong chiến đấu, người Man đều kính sợ. Thái Tổ triệu ông đến kinh đô, xét thấy có thể dùng được, bèn giao phó việc cai quản một vùng, phong làm thủ lĩnh người Man, bổ làm Thần châu thứ sử, cho con trai ông làm Điện trực, ban thưởng hậu hĩnh, lại cho phép ông tự tuyển chọn quan lại, và được hưởng toàn bộ tô thuế trong châu. Tái Hùng cảm kích ơn sâu, thề chết báo đáp.
Đến châu nhậm chức, ông huấn luyện binh sĩ, có được 3.000 người, đều có thể mặc giáp vượt sông, leo núi vượt hào, nhanh như khỉ vượn. Lại chọn 28 người thân tín đi sứ các bộ tộc Man, truyền đạt ý tốt của triều đình, ai nấy đều theo gió quy thuận, dâng biểu xin hàng. Thái Tổ rất mừng, lại triệu ông đến kinh đô, trực tiếp khen ngợi[17]. Tái Hùng quỳ khóc, nghẹn ngào không nói nên lời. Sau đó, ông được đổi làm Thần châu đoàn luyện sứ, và cho môn khách là Vương Nguyên Thành làm chức Suy quan của châu này.
Tái Hùng tận tụy nơi biên cương, nên suốt đời Thái Tổ, không có loạn người Man. Năm châu kéo dài mấy nghìn dặm, không tăng thêm một binh lính, không tốn hao kho lẫm, mà biên giới yên ổn, nhờ vào thần cơ điều khiển, chỉ dùng một Tái Hùng mà thôi.
Xét những điều Ngụy Thái chép về Tái Hùng rất tốt đẹp, nhưng chính sử, thực lục không thấy ghi, lại không thấy chép ở sách khác, có lẽ Tần Đức Sùng này chính là Tần Tái Hùng vậy. Đức Sùng từ chức Nha hiệu đã quản lý châu, lại được khởi phục, việc ắt có điều khác lạ, tiếc là chính sử, thực lục không ghi chép rõ. Đến ngày 30 tháng giêng năm thứ 8, khi được bổ làm Hữu Thiên Ngưu vệ tướng quân, ông đã được gọi là “tiền tri Thần châu”, thì Đức Sùng ở Thần châu cũng không kéo dài đến hết đời Thái Tổ, nay ghi chép theo lời của Ngụy Thái, đợi sau này tra cứu thêm.)
[91] Ngày Kỷ Mùi, châu Liên tâu rằng cung phụng quan Lý Kế Lãng cùng Dược Kế Thanh dẫn quân đại phá giặc Lão dưới thành châu Anh.
(Kế Lãng, Kế Thanh không rõ lai lịch. Sách ‘Tống triều yếu lục’[18]ghi: Ngày Canh Thân, ban cho người dâng sách Trịnh Thân danh hiệu đồng tiến sĩ xuất thân, bổ làm chủ bạ huyện Toan Tảo.)
[92] Ngày Quý Hợi, cấm tăng ni, đạo sĩ tự học thiên văn, địa lý.
[93] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu: “Từ nay, các cử nhân ở các đạo phải về châu phủ gốc để ứng thí, không được gọi là ký ứng. Nếu từ nơi khác đến, phải nộp đơn tại phủ Khai Phong, tâu xin chỉ dụ, mới được phép dự thi[19]. Quốc Tử Giám cũng không được tự tiện ghi tên giám sinh để tham gia tiến cử.”
[94] Ngày Giáp Tuất, bãi bỏ hai châu Xuân, Cần cùng bảy huyện Hóa Nhân, đồng thời bãi bỏ châu Nam Nghĩa.
(Việc bãi bỏ châu Nam Nghĩa không được ghi trong bản kỷ và thực lục, chỉ ghi năm sau phục hồi, nên ghi lại ở đây.)
[95] Ngày Canh Thìn, sai tham tri chính sự Tiết Cư Chính kiêm đề điểm tam ty, coi việc chuyển vận đường thủy, bộ ở các châu Hoài Nam, Hồ Nam, Lĩnh Nam; Lữ Dư Khánh kiêm đề điểm tam ty, coi việc chuyển vận đường thủy, bộ ở các châu Kinh Nam, Kiếm Nam.
[96] Ban chiếu cho hàn lâm học sĩ Lý Phưởng cùng tông chính thừa ở Lạc Dương là Triệu Phu soạn bia mới cho các miếu nhạc, đọc và các đế vương qua các đời, sai sứ khắc vào đá trong miếu, tổng cộng 52 bài.
[97] Tháng 12, ngày Ất Mùi, sai cận thần cầu tuyết tại các đền miếu trong kinh thành.
[98] Ngày Kỷ Hợi, đi săn ở vùng ngoại ô, rồi đến phủ Khai Phong Doãn thăm bệnh.
[99] Giáp Dần, ban chiếu rằng: “Những người được tuyển chọn từ bên ngoài, qua mười lần khảo hạch mà vào được chức lệnh lục[20], mới được dẫn đối và bổ nhiệm. Những người thuộc chức khu sử, tản quan, kỹ thuật, dù có nhiều lần khảo hạch cũng không được bổ nhiệm.”
[100] Ra lệnh đánh chết Đổng Diên Ngạc thuộc nội ban, vì tội giám sát việc trộm cắp thóc lúa ở doanh trại xe[21], số tang vật lên đến hàng chục vạn, sau khi tra xét đã xác nhận sự việc.
[101] Lưu Hán, quan y thuộc Hàn lâm, thừa chức ở Hồng lư tự, được thăng làm Thượng dược phụng ngự thuộc Điện trung tỉnh. Lại ban cho đạo sĩ Huyền bí đại sư Mã Chí tước Thông nghị đại phu, cùng ban cho khí tệ và ngựa, vì bệnh của Khai Phong doãn đã khỏi.
[102] Ngày Ất Mão, có tuyết lớn.
[103] Quân Can Ninh báo rằng 2.248 hộ dân Bắc Hán đến quy phụ.
[104] Ba ty Diêm thiết, Hộ bộ, Độ chi đều có câu viện và khai sách ty, do phán quan của bản bộ quản lý. Tháng này, ban chiếu hợp nhất Diêm thiết và Hộ bộ thành một, còn Độ chi giữ nguyên như cũ.
[105] Năm đó, xảy ra nạn đói lớn.
[106] Lúc đầu, Vua hỏi Thừa tướng Triệu Phổ: “Trong hàng nho thần, ai là người có tài võ?” Phổ tiến cử Tả bổ khuyết, Tri Bành Châu là Tân Trọng Phủ.
Vua bèn điều Trọng Phủ làm Tây Xuyên Binh mã đô giám. Sau đó, Vua cho triệu kiến, thử tài bắn cung, rồi hỏi: “Khanh có thể mặc giáp được không?”
Trọng Phủ đáp: “Khi thần còn làm mạc khách dưới trướng Quách Sùng, đã nhiều lần theo việc chinh thảo, nên từng mặc giáp trụ.”
Vua nói: “Khanh có biết Vương Minh chăng? Trẫm đã phong hắn làm thứ sử. Khanh rất trung thuần, nếu chăm chỉ làm việc không lười biếng, chẳng bao lâu sau cũng sẽ được phong làm mục bá.” Trọng Phủ lập tức cúi đầu tạ ơn.
Vua bèn nói với Triệu Phổ: “Phương trấn thời Ngũ đại tàn bạo, dân chúng chịu nhiều tai họa. Trẫm đã lệnh chọn hơn trăm nho thần có năng lực, phân ra cai quản các đại phiên, dù họ đều tham nhũng, cũng chưa bằng một võ thần.”
Sau đó, quan hữu ty sai Trọng Phủ kiểm tra ruộng dân, Vua nói: “Đó là chức trách của huyện lệnh.” Lập tức lệnh Lại bộ chọn quan khác thay thế.
[107] Bắc Hán chủ lần đầu ra lệnh cho dân nộp tiền cung cấp quân phí, còn trăm quan văn võ đều giảm bổng lộc, vì tài chính không đủ dùng.
- Các bản đều ghi là 'Yển Thành huyện lệnh'. Theo 'Tống sử' quyển 3, 'Thái Tổ kỷ' ghi là 'Yển Lăng lệnh', quyển 457, 'Trần Đoàn truyện' lại ghi là 'Yển Thành lệnh'. ↵
- 'Tháng tám' nguyên bản viết là 'năm thứ tám', theo 'Đại điển' quyển 12306 và ý nghĩa văn bản sửa lại. ↵
- Chu Nhân Tuấn nguyên bản là 'Chu Nhân Tuấn', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Đại điển quyển 12306 sửa lại. Hơn nữa, ở phần dưới của quyển này tháng 9 và quyển 16 tháng 3 đều ghi là 'Chu Nhân Tuấn'. ↵
- Tân Mão nguyên bản là 'Ất Mão', căn cứ theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- 'Chuyên' nguyên bản là 'tranh', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống và 'Tống sử' quyển 91 'Hà cừ chí' sửa lại. ↵
- 'Toản Vũ Nguyên Kinh' 12 thiên, trong 'Tống sử' quyển 91 'Hà cừ chí' chỉ ghi 'Toản Vũ Nguyên Kinh' 12 thiên, nghi chữ 'trước' là thừa. ↵
- 'Dĩ bản huyện lệnh uý kiêm miếu lệnh thừa', chữ 'lệnh' ban đầu bị thiếu. Xét theo 'Tống đại chiếu lệnh tập' quyển 137, 'Thông khảo' quyển 83 phần Giao Xã khảo, và 'Tống sử' quyển 102 phần Lễ chí đều ghi là 'dùng Lệnh của huyện kiêm Lệnh của miếu, Uý kiêm Thừa của miếu', nay căn cứ để bổ sung. ↵
- 'Giao dĩ tương phó' nguyên bản viết là 'dĩ giao', căn cứ vào bản trong các sách và 'Đại điển' quyển 12306, 'Thông khảo' quyển 83 phần Giao Xã khảo mà sửa. ↵
- 'Bất thông chính thuật', chữ 'thông' nguyên bản viết là 'nhĩ', căn cứ vào bản trong các sách và 'Đại điển' quyển 12306 mà sửa. ↵
- 'Tại Tào Nam thời vi lại dân sở tụng', nguyên bản viết là 'Nam Tào', 'Đại điển' quyển 12306 viết là 'Tào Nam'. Xét theo 'Tống sử' quyển 261 truyện Viên Ngạn, Ngạn là võ tướng, đầu thời Tống từng trấn giữ Tào Châu. 'Tào Nam' là tên gọi từ thời Xuân Thu năm Hi Công thứ 19, chỉ Tào Châu. Nay căn cứ vào 'Đại điển' mà sửa. ↵
- Kho lương tháng này chỉ đủ cấp đến tháng hai năm sau, chữ 'Cập' nguyên bản là 'Cấp', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 'Tống sử' quyển 276, 'Trần Tòng Tín truyện' sửa lại. ↵
- Để cấp lương vận, chữ 'Dĩ cấp' nguyên bản là 'Cấp dĩ', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 'Đại điển' quyển 12306 sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'Cố' viết là 'Cố', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Đại điển quyển 12306 sửa lại. ↵
- Cấm dân Tây Xuyên thu tiền kết xã và đua thuyền. 'Kết' nguyên bản là 'Cấp', căn cứ theo các bản khác và Đại điển quyển 12306 sửa lại. ↵
- Gia nhân tranh nhau mắng mỏ đuổi đi. 'Mắng' nguyên bản là 'Xích', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống sử quyển 257 truyện Lý Kế Xương sửa lại. ↵
- chữ 'sơn' nguyên bản là 'chỉ', theo 'Đông Hiên bút lục' (sau đây gọi tắt là 'Đông Hiên lục') quyển 1 sửa ↵
- chữ 'diện' nguyên bản là 'nhi', theo các bản khác và 'Đại điển' quyển 12306, 'Đông Hiên lục' quyển 1 sửa ↵
- Ghi chú trong 'Tống triều yếu lục' dẫn một đoạn văn, vốn nằm dưới sự kiện Trịnh Thân vào tháng 9, ngày Canh Ngọ, có lẽ do người đời sau thêm vào. ↵
- Chữ 'tựu thí' nguyên bản viết 'triệu thí', theo bản Tống, 'Tống toát yếu' và 'Tống hội yếu' sửa lại. ↵
- 'Kinh thập khảo nhập lệnh lục giả' trong nguyên bản viết là 'Kinh khảo dư lệnh lục giả', căn cứ vào các bản khác và 'Đại điển' quyển 12306, 'Thông khảo' quyển 35 phần 'Tuyển cử khảo', 'Tống sử' quyển 159 chí 'Tuyển cử' đã bổ sung chữ 'Thập' và sửa chữ 'Dư' thành 'Nhập' ↵
- 'Đạo' trong nguyên bản viết là 'giám', căn cứ vào các bản khác và 'Đại điển' quyển 12306, 'Tống sử' quyển 3 phần 'Thái Tổ kỷ' đã sửa lại ↵