"

I. TỐNG THÁI TỔ

QUYỂN 16: NĂM KHAI BẢO THỨ 8 (ẤT HỢI, 974)

Từ tháng giêng năm Khai Bảo thứ 8 đời Thái Tổ đến tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính Tý, Quyền tri châu Trì là Phàn Nhược Băng đánh bại 4000 quân Giang Nam tại biên giới châu.

[2] Lúc đầu, khi quân của Tào Bân chưa xuất chinh, Vua đã phong Thứ sử Thiều Châu là Vương Minh làm Thứ sử Hoàng Châu, trực tiếp giao kế sách. Sau khi nhậm chức, Vương Minh gấp rút tu sửa thành lũy, huấn luyện binh sĩ, nhưng mọi người không hiểu ý ông. Đến khi Tào Bân xuất quân, liền bổ nhiệm Vương Minh làm Tuần kiểm đường sông từ Trì Châu đến Nhạc Châu, kiêm chức Chiến trác đô bố thự.

Ngày Tân Tỵ, Vương Minh sai Binh mã đô giám Vũ Thủ Khiêm dẫn quân vượt sông, đánh bại hơn vạn quân Giang Nam ở Vũ Xương, giết 700 người, chiếm được trại Phàn Sơn.

(Tấu sớ đến vào ngày 19.)

Cùng ngày, Chiến trác đô giám tả sương hành dinh là Điền Khâm Tộ dẫn quân đánh bại hơn vạn quân Giang Nam ở Lật Thủy, chém chết Đô thống sứ Lý Hùng.

(Tấu sớ đến vào ngày 19. Sách ‘Thập quốc kỷ niên’ chép Lý Hùng là Trương Hùng.)

[3] Ngày Giáp Thân, Vương Minh tâu đã đánh bại hơn 300 quân Ngạc Châu ở bờ nam sông.

(Theo ‘Thực lục’, ghi ngày tấu sớ đến, nhưng thắng trận này có thể xảy ra cuối năm trước hoặc đầu năm nay, trước khi chiếm trại Phàn Sơn.)

[4] Ngày Ất Dậu, Vua nói với Tể tướng: “Vua chúa thời xưa, ít ai tự sửa mình để không mắc lỗi. Trẫm thường lo sợ đêm ngày, ngăn ngừa sai lầm, kìm chế dục vọng, mong noi theo đức hóa để giáo hóa người đời. Như Đường Thái Tông từng tiếp nhận lời can gián, thẳng thắn nhận lỗi lầm của mình, chưa từng che giấu hay cảm thấy xấu hổ, sao bằng tự mình không làm gì sai để kẻ dưới không dị nghị! Làm bề tôi, có người không giữ trọn danh tiết, rơi vào bất nghĩa. Bởi trung tín mỏng manh nên phúc báo cũng ít, đó là điều đáng răn!”

[5] Ngày Bính Tuất, Phàn Nhược Băng sai Binh mã giám áp Vương Sân dẫn quân đánh bại hơn 4000 quân Giang Nam ở biên giới Tuyên Châu.

(Vương Sân là con của Vương Phác.)

[6] Ngày Canh Dần, Tào Bân cùng các tướng tiến công Kim Lăng, Hành dinh mã quân đô chỉ huy sứ Lý Hán Quỳnh dẫn quân bộ vượt sông Tần Hoài về phía nam, dùng thuyền lớn chở đầy cỏ lau, thuận gió phóng hỏa, đánh vào thủy trại của giặc, hạ được trại, chém được hàng nghìn thủ cấp.

Quân triều đình vừa đến Tần Hoài, quân Giang Nam có hơn mười vạn người cả thủy lục, dựa vào thành bày trận. Khi ấy thuyền bè chưa đủ, Phan Mỹ hạ lệnh: “Ta cầm mấy vạn quân tinh nhuệ, đánh tất thắng, công tất hạ, há lại vì một dải nước nhỏ này mà không vượt ngay sao?” Bèn dẫn quân mình qua sông trước, vương sư theo sau, quân Giang Nam đại bại. Giang Nam lại xuất quân, định ngược dòng đánh chiếm cầu phao Thái Thạch, Phan Mỹ liền đánh tan quân ấy, bắt được Thần đô quân đầu Trịnh Tân cùng bảy người.

(Chiến thắng Tần Hoài của Phan Mỹ, vốn xảy ra vào tháng giêng, nhưng ‘Thực lục’ và ‘Bản kỷ’ chép vào cuối tháng hai, không rõ ngày cụ thể, có lẽ vì ‘Tào Bân truyện’ chép đến tháng hai mới đóng quân ở Tần Hoài. Truyện Tào Bân và Phan Mỹ đều chép sau khi thắng ở Tần Hoài mới hạ được thủy trại, nhưng việc hạ thủy trại trong ‘Thực lục’ ghi rõ ngày là 17 tháng giêng. Căn cứ vào đây, thì nên chép việc thắng ở Tần Hoài trước. Nghi ngờ mà không dám quyết đoán, vẫn tạm ghi ở phần sau. Truyện Tào Bân nói sau khi thắng ở Tần Hoài, cầu phao mới xong. Xét Phan Mỹ đã dẫn quân vượt sông trước, thì Tần Hoài có lẽ chưa dựng cầu phao, cầu phao phải ở Thái Thạch Kích. Truyện Phan Mỹ lại chép sau khi thắng ở Tần Hoài mới nói cầu phao Thái Thạch xong, càng thấy rối. Nhưng cũng có thể thấy ở Tần Hoài chưa từng dựng cầu phao, mà Trịnh Tân ngược dòng chính là muốn chiếm cầu phao Thái Thạch. Nay hơi sửa chữa lại[1], chờ sau tra cứu thêm).

[7] Ngày Quý Tỵ, lệnh cho Kinh Tây chuyển vận sứ Lý Phù điều quân lương từ Kinh Hồ đến dưới thành Kim Lăng.

[8] Tháng đó, Bắc Hán chủ sai Lưu Kế Nghiệp, Mã Phong đánh Tấn Châu, Vũ Thủ Kì đánh bại chúng ở Hồng Động. (Theo ‘Thập quốc kỷ niên’).

[9] Tháng 2, ngày Bính Ngọ, Chu Động, quyền tri châu Đàm, sai Binh mã kiềm hạt Thạch Hi dẫn quân đánh bại hơn hai nghìn quân Giang Nam ở giới phía tây châu Viên. Thạch Hi là người Thái Nguyên.

(Tin báo đến ngày 16. Chu Động, chưa thấy ghi chép gì thêm.)

[10] Ngày Quý Sửu, Tào Bân cùng các tướng đánh bại hơn một vạn quân Giang Nam ở Bạch Lộ Châu, chém đầu hơn năm nghìn, bắt sống hơn một trăm người, thu được năm mươi chiến thuyền.

(Tin báo đến ngày 17.)

[11] Ngày Ất Mão, quân triều đình hạ được cửa thành của châu Thăng, quân giữ thành đều chạy vào nội thành, giết hơn một nghìn người, số chết đuối cũng hàng nghìn. Đô Tri Binh Mã Sứ của quân Thiên Đức là Trương Tiến cùng chín người đến hàng.

(Tin báo đến ngày 19.)

[12] Trước đây, Hữu Gián nghị Đại phu Đoàn Tư Cung làm tri châu Dương. Triều đình đang có ý kinh lược Giang Nam, bèn sai Tư Cung kiêm chức Duyên Giang Tuần kiểm, khi ra ngoài thì giao việc châu cho Thông phán. Nhưng Tư Cung thường mang theo ấn, cổ, giác và chuông vàng, những thư từ từ kinh sư gửi đến đều sai người đem đến chỗ ông ta [2], việc công vì thế thường bị chậm trễ. Thông phán là Hữu Tán Thiện Đại phu Lý Thiều không chịu nổi, bèn cùng nhau tố cáo. Việc được giao cho hữu ty xét hỏi, Tư Cung lời khai không thẳng thắn, ngày Đinh Tỵ, Tư Cung bị giáng làm Thái Thường Thiếu Khanh, còn Thiều làm Đại Lý Tự Thừa.

[13] Ngày Nhâm Tuất, ban cho Ngô Việt Vương Tiền Thục năm mươi nghìn bộ quân phục, để phân phát cho quân sĩ hành dinh [3].

[14] Ngày Quý Hợi, Hầu Trắc, quyền tri châu Dương, dẫn quân bản bộ đánh bại hơn một nghìn quân Giang Nam ở trấn Tuyên Hóa.

[15] Ngày Giáp Tí, Vua nói với Tể tướng: “Năm nay mùa màng bội thu, nhân vật thịnh vượng, nếu không nhờ trời giúp, sao được như vậy. Nên cùng nhau nghĩ cách cứu giúp, sửa chữa chính sự thiếu sót, để mở mang cơ nghiệp thịnh trị.”

[16] Ngày Đinh Mão, Tri chế cáo Vương Hỗ được cử quyền Tri cống cử, Tri chế cáo Hỗ Mông, Tả bổ khuyết Lương Chu Hàn, Bí thư thừa Lôi Đức Tường đều được cử làm Quyền đồng Tri cống cử. Lệnh Quyền đồng Tri cống cử bắt đầu từ đây.

[17] Ngày Mậu Thìn, Vua ngự tại điện Giảng Vũ, phúc thí các cử nhân hợp cách Vương Thức do Vương Hỗ tiến cử. Nhân đó, Vua ra chiếu rằng: “Trước đây, các bậc danh khoa phần lớn bị các thế gia chiếm lấy, khiến con đường của kẻ cô hàn bị bế tắc, thật là vô nghĩa. Nay Trẫm thân hành chủ trì kỳ thi này, dùng sự khả năng để thăng giáng, nhằm dứt bỏ những tệ lỗi trước kia.” Vương Thức và mọi người đều cúi đầu tạ ơn.

Sau đó, từ trong cung ban ra đề thi thơ phú để phúc thí[4], kết quả lấy được 30 tiến sĩ, đứng đầu là Vương Tự Tông, cùng 34 người đỗ các khoa khác. Hai tiến sĩ Giang Nam là Lâm Tùng, Lôi Thuyết thi không đỗ, nhưng vì họ đã vượt đường xa để về triều, nên đều được ban cho danh hiệu Tam truyền xuất thân.

[18] Vương Tự Tông người Phần Châu. Ban đầu được bổ làm Tư khấu Tham quân ở Tần Châu, lúc đó Thị ngự sử Lộ Xung làm Tri châu sự, chính sự hà khắc gấp gáp, khiến bọn trộm cướp nổi lên khắp nơi. Tự Tông nhân cơ hội thẳng thắn chỉ ra những sai lầm của ông ta. Lộ Xung nổi giận, bắt giam Tự Tông vào ngục, lại xúi giục những kẻ vô lại từng bị tội trong dân đi kiện Tự Tông xử án oan sai. Triều đình phái sứ giả đến tra xét, thu thập đủ chứng cứ về việc những kẻ kiện cáo đã bịa đặt, báo lên, Tự Tông mới được tha.

(‘Ký văn’ chép: Lộ Xung bắt Tự Tông đối câu, rồi thả ông ta. Khác với ở đây, cần xem xét thêm. Việc ông đỗ trạng nguyên nhờ thi đấu vật, được chép trong phần nói về việc tiến cử Chủng Phóng [5].)

[19] Tháng ấy, quan chủ trì việc thi cống cử ở Giang Nam, Viên ngoại lang bộ Hộ là Ngũ Kiều cho đỗ tiến sĩ bọn Trương Xác ba mươi người. Từ năm Bảo Đại thứ 10 mở khoa thi cống cử đến năm nay, tổng cộng mười bảy khoa, cho đỗ tiến sĩ và cử nhân là chín mươi ba người, người thông hiểu chín kinh một người.

(Theo sách ‘Thập Quốc Kỷ Niên’. Quân Vương đã đến dưới thành mà việc thi cống cử vẫn không bỏ, Lý Dục thật là người không biết lo toan, nên đặc biệt ghi lại.)

[20] Tháng 3, ngày Mậu Dần, triệu tập các quan cận thần đến vườn uống rượu bắn cung.

[21] Ngày Nhâm Ngọ, Thái tử tẩy mã Chu Nhân Tuấn bị cách chức, giáng làm Huyện lệnh Bình Lương, vì khi làm quan ở Châu Quỳnh buôn bán trục lợi.

[22] Ngày Ất Dậu, ngự giá đến xưởng đóng thuyền.

[23] Ngày Đinh Hợi, Quyền tri Châu Lư Châu là Hình Kỳ dẫn quân vượt sông, đến địa giới Châu Tuyên, đánh chiếm trại Nghĩa An, chém hơn nghìn thủ cấp.

[24] Vua tính khoan dung nhân từ, hay tha thứ. Khi cung cấp đồ ăn, có con rận bò bên cạnh mâm, bảo tả hữu rằng: “Đừng để người coi việc ăn uống biết.” Khi đọc sách ‘Nghiêu điển’, than rằng: “Thời Nghiêu, Thuấn, tội của bốn kẻ xấu chỉ bị đày đi, sao ngày nay pháp luật nghiêm ngặt vậy?” Thật là có ý muốn giảm bớt hình phạt. Vì vậy từ niên hiệu Khai Bảo đến nay, những kẻ phạm trọng tội mà không gây hại sâu sắc, phần nhiều đều được tha chết.

Ngày Kỷ Sửu, các quan báo rằng từ năm thứ hai đến nay[6], chiếu tha chết tổng cộng bốn nghìn một trăm tám người.

[25] Ngày Canh Dần, Tào Bân đánh bại hơn ba nghìn quân Giang Nam trên sông, bắt sống năm trăm người.

[26] Ngày Quý Tỵ, sai các quan cận thần cầu mưa ở các đền miếu trong kinh.

[27] Ngày Ất Mùi, Thái tử trung xá Quách Xán bị tước chức, vì khi làm Giám sát ở Giám Lai Vu nhận hối lộ của quan đúc là Cảnh Tiết.

[28] Ngày Kỷ Hợi, Quyền tri Châu Lộ Châu là Dược Kế Năng dẫn quân vào địa giới Bắc Hán, đêm đánh úp bảo Ứng Giản, chiếm được, chém mấy nghìn thủ cấp, bắt hơn tám trăm ngựa.

[29] Khiết Đan cử sứ Khắc Diệu Cốt Thận Tư mang thư đến thăm, Vua sai Kháp môn phó sứ Hác Sùng Tín (Sùng Tín, chưa thấy ghi chép.) đến biên giới đón tiếp. Khi đến nơi, sứ đoàn được an trí tại đô đình dịch. Hôm đó, Vua triệu kiến, cùng với mười hai người tùy tùng, ban thưởng y phục, đai lưng, đồ dùng và tiền bạc theo thứ bậc, rồi mở tiệc ở điện Trường Xuân.

Sau đó, Vua lại triệu đến điện tiện, xem các quân cưỡi ngựa bắn cung, sai hai người tùy tùng là Niểu Ốc Lục và Trừ Cốt thi cưỡi ngựa bắn cầu lông cùng với các vệ sĩ, cắt cành liễu. Khi sứ đoàn từ biệt về nước[7], Vua lại triệu kiến và ban thưởng đồ dùng và tiền bạc. Nhân đó, Vua nói với tể tướng: “Từ thời Ngũ Đại đến nay, phương Bắc hùng mạnh là do Trung Nguyên suy yếu, dẫn đến việc Tấn Đế phải chịu nhục, đây là lúc cùng cực của suy vi. Nay họ ngưỡng mộ mà đến, là do thời vận vậy, không phải do đức hạnh của ta mà được.”

Trước đó, Châu Trác gửi thư cho Tôn Toàn Hưng, nói rằng cử sứ Khắc Diệu Cốt Thận Tư. Lúc mở thư, chỉ thấy ghi Khắc Thận Tư. Có người nói “Khắc” là tên chức quan; lại có người nói đó là họ.

[30] Ngày Nhâm Dần, sai trung sứ Vương Kế Ân dẫn vài nghìn quân đến Giang Nam.

[31] Vua ban chiếu: “Gần đây, dân chúng nộp thuế, những tấm lụa và lụa không đủ một tấm thì thường phải ba đến năm hộ ghép lại mới đủ một tấm để nộp cho quan, rất phiền phức. Từ nay, lụa không đủ nửa tấm, lụa không đủ một tấm thì tính theo thước mà nộp giá trị tương ứng.”

[32] Nước Đại Thực cử sứ đến cống nạp sản vật địa phương.

[33] Mùa hạ, tháng tư, ngày Ất Tỵ, Vua ngự đến xưởng xay nước ở phía đông.

[34] Vương Minh tâu rằng đã đánh bại quân Giang Nam ở địa giới Châu Giang, chém hơn hai nghìn thủ cấp.

(Theo ‘Thập Quốc Kỷ Niên’, sự việc này xảy ra vào tháng ba, nhưng không rõ ngày cụ thể, nên ghi theo ngày tấu lên.)

[35] Ngày Quý Sửu, Vua ngự đến đình bên sông ở đô đình dịch để xem xét các chiến thuyền mới.

[36] Ngô Việt binh vây Thường châu, thứ sử Vũ Vạn Thành cố thủ, đại tướng Kim Thành Lễ bắt Vạn Thành đầu hàng. Khi Ngô Việt mới khởi binh, Thừa tướng Thẩm Hổ Tử (Hổ Tử, chưa rõ lai lịch.) can gián rằng: “Giang Nam là tấm lá chắn của nước, nay Đại Vương tự tay dẹp bỏ lá chắn ấy, thì lấy gì để bảo vệ xã tắc?” Ngô chủ không nghe, bèn cách chức Thẩm Hổ Tử, ra lệnh cho thông nho học sĩ Thôi Nhân Ký thay thế, nắm giữ binh quyền. Nhân Ký là người Tiền Đường.

[37] Ngày Nhâm Tuất, Vua đến đô đình dịch, đứng bên sông Biện xem quân Phi Giang luyện tập chiến đấu trên thuyền đao ngư.

[38] Tào Bân và các tướng tâu rằng đã đánh bại hơn hai nghìn quân Giang Nam ở phía bắc sông Tần Hoài.

(’Thực lục’ không ghi ngày phát tấu, tấu đến vào ngày 20 nên chép vào đây. ‘Bản kỷ’ lại nói là chiếm được thành Quan của Thăng châu, đó là nhầm. Việc chiếm thành Quan xảy ra vào ngày 12 tháng hai.)

[39] Ngày Mậu Thìn, Vua đến Ngọc Tân viên xem cấy lúa, rồi đến Giảng Vũ trì xem tập thủy chiến.

[40] Quảng Châu tâu: “Những kẻ trộm cắp đầy năm quan đến mức phải xử tử, theo chiếu cần phải tâu lên xin xét xử. Nhưng Lĩnh Nam xa xôi, việc xét lại chậm trễ, xin không đợi chỉ thị mà quyết định ngay.” Vua thương xót nói: “Phong tục vùng biển, tập tính tham lam, trộm cắp là chuyện thường.”

Ngày Canh Ngọ, xuống chiếu: Dân Quảng Nam phạm tội trộm cắp đầy năm quan thì chỉ đánh trượng, xăm mặt và phát phối làm lao dịch; đầy mười quan thì xử chém.

[41] Vua đến Tây Thủy Cái.

[42] Tháng này, Giáo phường sứ Vệ Đức Nhân vì già nên xin làm quan ngoài, lại theo tích xưa đời Đồng Quang xin làm thứ sử. Vua nói: “Dùng kẻ hát làm thứ sử, đó là sai lầm của Trang Tông, sao có thể bắt chước được!” Tể tướng định bổ làm Tư mã thượng châu, Vua nói: “Chức thượng tá vốn là chỗ sĩ nhân đảm nhiệm, yêu cầu danh vọng rất cao, không thể tùy tiện bổ nhiệm. Hạng này chỉ nên thăng chuyển trong bộ nhạc mà thôi.” Bèn cho làm Lệnh đại nhạc thự thuộc Thái thường tự.

[43] Tháng năm, ngày Nhâm Thân mùng một, phong thêm Ngô Việt vương Tiền Thúc chức Thái sư, cho con trai của ông là Trấn Hải, Trấn Đông tiết độ sứ Tiền Duy Tuấn làm Đồng bình chương sự, Ninh Viễn tiết độ sứ Tiền Duy Trị làm Phụng Quốc tiết độ sứ, Hành quân tư mã Tôn Thừa Hữu làm Bình Giang tiết độ sứ, Hành dinh binh mã đô giám Đinh Đức Dụ tạm quyền quản lý châu Thường.

[44] Trước đó, Binh bộ lang trung Đổng Xu được bổ nhiệm làm Giám sát Quế Dương, sau bị bãi chức, Hữu tán thiện đại phu Khổng Lân thay thế. Khi Khổng Lân bị bãi chức, Thái tử tẩy mã Triệu Du thay thế, nhưng ông cáo bệnh từ chức. Trứ tác lang Trương Khản được bổ nhiệm thay thế. Khản đến chưa được bao lâu, đã tấu rằng Khổng Lân trong thời gian tại chức vài tháng, thu được số bạc dư thừa hàng chục cân[8], tuy đã nộp vào quan nhưng không kê khai đủ số lượng. Tính ra, Đổng Xu cùng Khổng Lân đã tham ô rất nhiều.

Triều đình ra chiếu lệnh cho Ngự sử phủ điều tra. Khi vụ án kết thúc, quan chức nói rằng theo pháp luật cả hai đều phải tử hình. Vua nói: “Triệu Du không tự mình ăn cắp, chỉ là không thể phát hiện ra mà thôi.” Khổng Lân và Đổng Xu đều bị xử tử, còn Triệu Du bị đánh trượng và lưu đày ra hải đảo[9], đồng thời bổ nhiệm Trương Khản làm Đồn điền viên ngoại lang. (Trương Khản, không thấy xuất hiện).

[45] Ngày Canh Dần, bổ nhiệm Giải Châu thứ sử Vương Chính Trung tạm quyền quản lý châu Tấn, kiêm chức Binh mã kiềm hạt.

(Vương Chính Trung, không thấy xuất hiện. Nghi ngờ rằng Chính Trung thực sự thay thế Vũ Thủ Kỳ, muốn tìm hiểu về sự tích của Thủ Kỳ, tạm ghi lại đây để chờ xem xét kỹ hơn. Lại có lời truyền rằng Vương Chính Trung là một trong mười người huynh đệ nghĩa xã của Thái Tổ, cũng cần kiểm tra lại.)

[46] Ngày Tân Tỵ, vì mưa kéo dài, lệnh cho các quan cận thần làm lễ cầu tạnh tại các đền miếu trong kinh thành.

[47] Đổi tên Hùng Viễn quân thành Bình Nam quân.

[48] Ngày Giáp Thân, Ngô Việt Vương Tiền Thúc tâu rằng quân Ninh Viễn ở Giang Âm cùng các trại ven sông đều đã đầu hàng.

[49] Vua ngự đến xưởng nhuộm mới xây dựng.

[50] Người Man ở động Mai Sơn nghe tin Giang Biểu dùng binh, nhân cơ hội xâm phạm các châu Đàm, Thiệu.

Ngày Ất Dậu, ban chiếu miễn thuế nợ năm trước cho dân bảy huyện Trường Sa thuộc châu Đàm bị giặc Man cướp bóc[10], đồng thời miễn dịch một năm. Sau đó, lại ban chiếu áp dụng điều tương tự cho bảy huyện Vũ Cương thuộc châu Thiệu.

Vua ban đầu sai Cung phụng quan Lý Kế Long dẫn ba trăm quân Hùng Vũ trấn thủ châu Thiệu[11], chỉ cấp đao thuẫn. Khi đến phía nam châu Đàm[12], giặc Man mấy ngàn người chặn đường, Kế Long liều mình đánh, giặc Man bèn rút lui. Ông bị trúng tên độc cả tay chân, binh lính bị thương hơn trăm người. Có người báo lên Vua rằng Kế Long khinh địch, đáng tội. Sau đó, Vua biết rõ sự thật, bèn bắt đầu coi trọng ông.

Kế Long là con của Lý Xử Vân[13].

[51] Ngày Giáp Ngọ, Tiết độ sứ Tĩnh Hải là Đinh Liễn sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.

[52] Ngày Đinh Dậu, Vương Minh tâu rằng đã đánh bại hơn một vạn quân Giang Nam ở Vũ Xương, chiếm được năm trăm chiến thuyền.

[53] Ngày Kỷ Hợi, phủ Khai Phong tâu rằng các nhà ngục của các cơ quan trong kinh thành đều trống, không có tù nhân bị giam giữ.

[54] Ngày Tân Sửu, sông Hoàng Hà vỡ đê tại thôn Quách Long, châu Bộc.

[55] Xuống chiếu cho phép thương nhân mang thuốc sống qua núi được miễn thuế.

(Sách ‘Đông Đô Sự Lược’ của Vương Xưng chép: Chiếu viết: “Tục ở vùng Lĩnh Biểu, có bệnh không gọi thầy thuốc. Từ khi vương hóa lan tới, mới biết dùng thuốc men. Thương nhân mang thuốc sống qua núi sẽ không bị tính thuế.”)

[56] Ban đầu, Trần Kiều và Trương Kỵ mưu tính cho quốc chủ Giang Nam, đề nghị củng cố phòng thủ các nơi để làm hao mòn quân triều đình. Quân triều đình tiến vào lãnh thổ nước này, quốc chủ không lo lắng, hàng ngày dẫn các nhà sư và đạo sĩ vào hậu uyển tụng kinh, giảng sách ‘Dịch’ và bàn luận cao xa, không quan tâm đến chính sự. Thư quân báo cáo tình hình khẩn cấp, nếu không phải do Từ Nguyên Vũ v.v. đều không thể thông đạt được. Quân triều đình áp sát dưới thành nhiều tháng, quốc chủ vẫn không biết.

Lúc ấy, các tướng lão thành đều đã tử trận trước đó. Thần Vệ thống quân đô chỉ huy sứ Hoàng Phủ Kế Huân là con của Hoàng Phủ Huy (Huy được nhắc đến lần đầu vào năm Càn Hựu thứ sáu), tuổi còn trẻ, được quốc chủ giao nắm binh quyền. Kế Huân vốn quý tộc kiêu ngạo, từ đầu không có ý chết trung, chỉ muốn quốc chủ đầu hàng nhanh nhưng không dám nói ra. Mỗi khi nói với mọi người, ông ta thường nói: “Quân phương Bắc hùng mạnh, ai có thể địch nổi!” Nghe tin quân mình thua trận thì mặt mày hớn hở, nói: “Ta đã biết là không thắng được.” Cháu trai của Kế Huân là Thiệu Kiệt, nhờ ơn Kế Huân, cũng giữ chức Tuần kiểm sứ, được thân cận. Kế Huân từng bảo Thiệu Kiệt bí mật trình bày kế hoạch quy thuận[14], nhưng quốc chủ không nghe.

Các tướng dưới quyền có kẻ muốn chiêu mộ dũng sĩ đêm ra doanh trại đánh úp quân triều đình, Kế Huân đều đánh roi vào lưng rồi bắt giam, khiến lòng quân oán hận. Lại lấy cớ việc quân bận rộn, ít vào triều yết kiến. Quốc chủ triệu hồi cũng không đến kịp thời.

Tháng đó, quốc chủ tự mình ra thành tuần tra, thấy quân triều đình đóng trại ngoài thành[15], cờ xí khắp nơi, biết mình bị tả hữu che giấu, bắt đầu kinh sợ. Bèn bắt Kế Huân giao cho ngục quan, kết tội tung tin đồn gây rối và không tuân lệnh, cùng Thiệu Kiệt đem xử tử. Quân sĩ tranh nhau xé thịt họ, trong chốc lát thịt đã hết.

Kế Huân bị giết, mọi việc xử lý quân cơ đều do Trừng Tâm Đường tuyên bố, thực chất là do Thật Kịp và những người khác nắm quyền. Bấy giờ, sai sứ triệu Thần Vệ quân Đô ngu hậu Chu Lệnh Uân, đem quân Thượng Giang về cứu viện. Lệnh Uân là con của Nghiệp (Nghiệp, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ ba), nắm giữ mười vạn quân đóng tại Hồ Khẩu.

Các tướng xin nhân lúc nước sông dâng cao tiến quân nhanh chóng, Lệnh Uân nói: “Nay ta tiến lên phía trước, địch tất sẽ phản công chiếm cứ phía sau. Nếu đánh thắng thì được, nếu không thắng, đường vận lương sẽ bị cắt đứt, hậu quả càng nghiêm trọng.” Bèn viết thư triệu Nam Đô lưu thủ Sài Khắc Trinh đến thay thế trấn giữ Hồ Khẩu. Khắc Trinh trước đó đã bệnh, nên trì hoãn không đi, Lệnh Uân cũng không dám tiến. Quốc chủ nhiều lần thúc giục, Lệnh Uân không nghe. Khắc Trinh là con của Tái Dụng.(Tái Dụng, lần đầu xuất hiện vào năm Can Ninh thứ hai).

[57] Tháng 6, ngày Quý Mão, Tào Bân và những người khác báo rằng đã đánh bại hơn hai vạn quân Giang Nam dưới chân thành, chiếm được hàng ngàn chiến thuyền.

[58] Ngày Đinh Mùi, Tống Châu quan sát phán quan Thôi Ước và lục sự tham quân Mã Hưu bị xử chém, đều vì tội nhận hối lộ và phạm pháp.

[59] Ngày Tân Hợi, Thiền Châu báo rằng sông Hoàng Hà vỡ đê tại Đốn Khâu huyện.

[60] Ngày Tân Dậu, cựu Phượng Tường tiết độ sứ, Thái sư, kiêm Trung thư lệnh, Ngụy Vương Phù Ngạn Khanh qua đời, triều đình đình hoãn ba ngày, nhà nước lo việc tang lễ.

Ngạn Khanh võ dũng có mưu lược, giỏi dùng binh. Kể từ sau trận thua ở Dương Thành, người Khiết Đan rất sợ Ngạn Khanh, hễ ngựa bệnh không ăn uống, họ liền khạc nhổ và nguyền rằng: “Chẳng lẽ do Phù Vương gia?”

Sau khi Khiết Đan diệt nhà Tấn rút về phương bắc, mẹ của Gia Luật Đức Quang hỏi tả hữu rằng: “Ngạn Khanh ở đâu?” Có người đáp: “Ở Từ Châu.” Mẹ ông nói: “Không đưa Ngạn Khanh về, thật là một sai lầm lớn!”

[61] Ngày Giáp Tí, sao chổi xuất hiện ở chòm Liễu, dài bốn trượng, buổi sáng thấy ở phương đông, chỉ về hướng tây nam, đi qua chòm Dư Quỷ, đến chòm Đông Bích, tổng cộng mười một chòm, sau tám mươi ba ngày mới biến mất.

[62] Ngày Kỷ Tỵ, ban thưởng cho Bí thư thừa Lôi Đức Tương 10 vạn tiền, vì con trai là Hữu Lân bệnh chết.

[63] Mùa thu, tháng bảy, ngày Tân Mùi mùng 1, nhật thực xảy ra.

[64] Trước đây, kêu gọi dân tố giác quan lại ẩn giấu lợi ích ngoài thuế khóa sẽ được thưởng tiền, nhưng có người tố giác lại dọa nạt để đòi tiền, hoặc nhân cơ hội báo thù riêng, khiến việc kiện tụng trở nên rối ren, càng thêm phiền nhiễu. Ngày Quý Dậu, ra chiếu bãi bỏ việc này.

[65] Ngày Bính Tý, phủ Khai Phong tâu rằng các nhà tù trong kinh thành đều trống, không có tù nhân.

[66] Chiếu rằng: “Các văn bản án tụng từ các châu dâng lên, giao cho Đại Lý tự và Hình bộ cùng xét xử rồi tâu lên. Các sứ thần tuần tra bắt cướp ở các đạo, khi bắt được giặc cướp, không được tự ý tra khảo, mà phải đưa ngay về châu phủ liên quan.”

[67] Ngày Đinh Sửu, Tuần kiểm trấn Vô Vi, Lư Châu là Đỗ Quang Tuấn tâu đã đánh bại hơn 300 quân Tuyên Châu ở bờ nam sông.

[68] Ngày Canh Thìn, cử Tây thượng các môn sứ Hác Sùng Tín và Thái thường thừa Lã Đoan sang sứ nước Khiết Đan. Lã Đoan là em của Lã Dư Khánh.

[69] Lúc trước, tin thắng trận từ Giang Nam liên tục đến, viên lại quán trọ thúc giục Lý Tòng Dật vào chúc mừng, nhưng Phan Thận Tu cho rằng: “Nước sắp mất, nên đợi tội, sao lại chúc mừng!” Từ đó, quần thần không dám chúc mừng, Tòng Dật liền dâng biểu xin tội. Vua khen ngợi sự đứng đắn của ông, sai trung sứ đến an ủi, cấp đầy đủ lương thực và vật dụng, đều theo mức ưu đãi.

Ngày Nhâm Ngọ, lại sai Lý Mục đưa Tòng Dật về nước, ban chiếu thúc giục quốc chủ đến đầu hàng, đồng thời lệnh cho các tướng hoãn tấn công để đợi.

[70] Ngày Quý Mùi, vương tử nước Tây Thiên Đông Ấn Độ là Nhương Kết Thuyết La đến triều cống.

(Sự việc này theo ‘Tân Lục’, cần xem xét thêm.)

[71] Trước đó, ra chiếu cho Ngô Việt vương Tiền Hoằng Thục về nước, Hoằng Thục giao quân cho đại tướng Ô Trình là Thẩm Thừa Lễ, theo quân triều đình tiến đánh. Ngày Giáp Thân, cử sứ sang cống tạ ơn.

[72] Thứ sử Cao Châu là Điền Cảnh Thiên mất, con trai là Nha nội đô chỉ huy sứ Điền Ngạn Y đến báo tin. Ngày Kỷ Sửu, liền lệnh Ngạn Y kế tập chức vụ thứ sử của cha.

[73] Ngày Quý Tỵ, hoàng tử Đức Phương xuất các.

[74] Ngày Kỷ Hợi, Quỷ chủ hai rừng phía sau núi là Hoài Hóa tướng quân Vật Ni cùng hơn sáu mươi người khác đến triều cống sản vật địa phương. Vua phong Vật Ni làm Quy đức tướng quân.

[75] Tả Ty viên ngoại lang, quyền giữ chức Tri Dương châu là Hầu Trắc nhận hối lộ, hành xử bất pháp, bị thuộc hạ tố cáo[16], bị triệu về kinh sư. Trắc vốn thân thiết với Tham tri chính sự Lư Đa Tốn, tự biết nếu bị giam giữ ắt sẽ cùng đường, bèn riêng sai người cầu xin Đa Tốn giúp đỡ.

Lúc đó, Kim Lăng chưa hạ được, Vua đang chán ngán chiến tranh, đất phương Nam ẩm thấp, tiết trời thu oi bức, quân lính lại nhiều bệnh dịch. Vua bàn bạc cho Tào Bân và các tướng rút về đồn trú ở Quảng Lăng, nghỉ ngơi binh mã, để tính kế lâu dài. Lư Đa Tốn tranh cãi nhưng không thành. Nhân lúc Hầu Trắc vừa từ Quảng Lăng trở về, biết rõ tình thế nguy ngập của Kim Lăng, Đa Tốn bảo ông hãy nhanh chóng thay đổi lời tâu về việc Giang Nam. Lúc đó, Trắc đang bệnh, Vua sai quân Hoàng thành đỡ ông vào triều.

Khi vào chầu, Trắc nói lớn: “Giang Nam sắp bình định trong sớm tối, bệ hạ sao lại định bãi binh? Xin hãy khẩn trương đánh chiếm. Nếu thần lừa dối bệ hạ, xin chu di tam tộc.” Vua cho lui tả hữu, triệu Trắc lên điện hỏi rõ sự tình, rồi lập tức bỏ ý định trước, tha tội cho Trắc không truy cứu. Ngày Giáp Thìn tháng 8, lại cho Trắc làm phán quan bộ Lại nội tuyên.

(có người nói do Trắc can gián mà đã thu hồi chiếu bãi binh, nhưng thực ra lúc đó chỉ mới bàn bạc).

[76] Triều đình thấy Đinh Liễn từ xa đến cống nạp đầy đủ, theo ý của cha ông là Đinh Bộ Lĩnh, bắt đầu bàn việc sủng ái tôn vinh. Ngày Bính Ngọ, phong Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, sai Hồng lư thiếu khanh Cao Bảo Tự và Hữu giám môn vệ suất Vương Ngạn Phù đi sứ. Bảo Tự là chú của Cao Kế Xung.

[77] Thứ sử Cát châu Giang Nam là Hồ Công Bá trốn đến hàng, được phong làm Thứ sử Hòa châu[17].

[78] Ngày Ất Mão, Vua ngự đến Đông thủy cai xem đánh cá, rồi đến Bắc viên.

[79] Ngày Tân Dậu, ban chiếu đình chỉ thi cử năm nay.

[80] Ngày Nhâm Tuất, Khiết Đan cử Tả Vệ đại tướng quân Gia Luật Bá Đức, Cung tiễn khố sứ Nghiêu Lô Cốt, Thông sự, Tả Giám môn vệ tướng quân Vương Anh[18]đến thăm, dâng lễ vật gồm áo ngự, đai ngọc, ngựa quý. Nhà Vua đều ban thưởng hậu hĩnh, rồi cho họ đi săn ở ngoại ô. Nhà Vua tự tay bắn các con thú, không một mũi tên nào lệch. Sứ giả cúi rạp xuống hô vạn tuế, sau đó bảo người phiên dịch rằng: “Hoàng đế thần vũ vô địch, bắn tên tất trúng, điều này tôi chưa từng thấy.”

[81] Các bộ tộc ở Tây Nam Phiền gồm 39 bộ, con trai của Thuận Hóa vương là Nhược Phế cùng 36 người khác đến cống ngựa và đan sa.

[82] Tả Kiêu vệ thượng tướng quân đã về hưu là Lý Hồng Tín qua đời.

Hồng Tín không có tài cán gì đặc biệt, chỉ nhờ là ngoại thích nhà Hán mà lên đến chức tướng tương. Ông thích tích trữ, tài sản lên đến hàng vạn, nhưng lại vô cùng keo kiệt. Lúc bấy giờ, các tiết trấn đều mộ sung thân binh, duy chỉ có Hồng Tín tích trữ quân sự rất ít.

[83] Ngày Quý Hợi, Đinh Đức Dụ tâu rằng đã đánh bại hơn năm nghìn quân Giang Nam dưới thành Nhuận Châu. Khi ấy, Đức Dụ cùng quân Ngô Việt bao vây Nhuận Châu.

[84] Tháng ấy, lấy Nam Đốn huyện lệnh Dương Khả Pháp làm Trịnh Châu phòng ngự suy quan, quyền tri quân châu sự.

(Theo ‘Tống hội yếu’.)

[85] Tháng chín, ngày Nhâm Thân, nhà Vua đi săn ở ngoại ô, đuổi theo con thỏ, ngựa vấp ngã khiến Vua rơi xuống. Vua rút dao găm đâm vào ngựa mình cưỡi, sau đó hối hận, nói: “Ta là chủ thiên hạ mà khinh suất việc săn bắn, không phải lỗi của ngựa.” Từ đó, Vua không đi săn nữa.

(Sự việc này được ghi lại vì tháng chín ngày Nhâm Thân nhà Vua đi săn, từ đó không đi săn nữa.)

[86] Khi quân của triều đình mới khởi binh, ở Giang Nam, nơi Kinh Khẩu là vị trí trọng yếu, cần phải có một tướng tài giỏi. Thị vệ đô Ngu hậu Lưu Trừng (Trừng, chưa từng xuất hiện trước đây), từng phục vụ ở phủ đệ, được Quốc chủ đặc biệt tin tưởng, liền được thăng làm Nhuận Châu lưu hậu. Trước khi lên đường, Quốc chủ nói với ông: “Khanh vốn không nên rời xa Cô, Cô cũng khó lòng tiễn biệt khanh, nhưng việc này chỉ có khanh mới có thể đáp ứng lòng Cô.” Trừng rơi nước mắt từ biệt, về nhà thu thập hết vàng bạc châu báu mang theo, nói với mọi người: “Đây đều là những thứ được ban tặng trước đây, nay đất nước gặp nạn, nên dùng chúng để lập công danh.” Quốc chủ nghe tin, rất vui.

Khi quân Ngô Việt vừa đến, doanh trại chưa dựng xong, tả hữu xin xuất binh đánh úp. Lúc này, Trừng đã có ý phản bội, liền nói: “Nếu thắng thì tốt, nếu không, sẽ bị bắt làm tù binh. Đợi viện binh đến rồi mới tính chuyện đánh nhau cũng chưa muộn.” Sau đó, Quốc chủ lệnh cho Lăng ba đô Ngu hậu Lư Ráng từ Kim Lăng dẫn tám nghìn quân thủy, phá vòng vây đến cứu viện. Ráng đến Kinh Khẩu, rời thuyền lên bờ, giao chiến với quân Ngô Việt.

Quân Ngô Việt tạm lui, Ráng lập tức vào thành, nhưng vòng vây lại siết chặt. Thành cố thủ hơn một tháng, bên trong lại nghi kỵ lẫn nhau. Trừng đã thông mưu đầu hàng, sợ Ráng mưu tính, liền từ tốn nói với Ráng: “Gần đây nghe nói kinh thành bị vây ngày càng ngặt, nếu kinh thành thất thủ, thì giữ nơi này còn ích gì?” Ráng cũng biết thành rồi sẽ thất thủ, bèn nói: “Ông là tướng giữ thành, không thể bỏ thành mà đi. Người nên đi ứng cứu chỉ có tôi mà thôi.” Trừng giả vờ khó xử, sau một hồi nói: “Ông nói đúng.” Ráng liền phá vòng vây mà đi.

[87] Lúc đầu, Lư Ráng giận một viên tì tướng, bàn định giết đi, nhưng chưa quyết, Lưu Trừng bí mật nói với viên tì tướng rằng: “Lư công giận ngươi, ngươi khó sống rồi.”

Tì tướng khóc lóc xin được tha mạng, Trừng bèn nói: “Ta có một lời bảo ngươi, không chỉ thoát chết mà còn được giàu sang.” Rồi khuyên viên tì tướng đầu hàng, bảo hắn hãy ra ngoài trước để bày tỏ ý định. Tì tướng nói: “Nhà ở kinh đô, phải làm sao?” Trừng đáp: “Việc đã gấp rồi, hãy tự lo cho mình. Nhà ta cả trăm người, cũng không kịp lo nghĩ nữa.” Thế là viên tì tướng vượt thành mà chạy. Lư Ráng vẫn chưa biết.

Hôm sau, Trừng cùng Lư Ráng dùng cơm, viên chủ binh đến báo, Trừng giả vờ tức giận nói: “Ta tưởng ngài đã chém hắn rồi, sao lại để hắn trốn mất?”

Sau khi Ráng bỏ đi, Trừng tập hợp các tướng sĩ, nói rằng: “Ta giữ thành mấy chục ngày, chí không phụ quốc, nhưng tình thế đã đến thế này, phải tính kế sinh tồn, các ngươi nghĩ sao?” Các tướng sĩ đều khóc lớn. Trừng sợ có biến, cũng khóc mà rằng: “Ta thụ ơn đất nước sâu hơn các ngươi, lại có cha mẹ ở kinh đô, lẽ nào không biết trung hiểu? Chỉ là sức không chống nổi. Các ngươi không nghe chuyện Sở châu sao?” Trước đây, Chu Thế Tông vây Sở châu, lâu không hạ được, sau khi chiếm được, giết sạch cả thành. Vì thế Trừng dùng chuyện đó để uy hiếp mọi người.

Ngày Mậu Dần, Trừng dẫn các tướng lại mở cửa thành xin hàng. Nhuận châu bình định. Lư Ráng nghe tin Kim Lăng nguy cấp, bèn vội vã đến Tuyên châu, ngày đêm uống rượu làm vui, có người khuyên nên cứu nguy, ông đều không đáp lại.

[88] Ngày Ất Dậu, tội nhân Tống Duy Trung bị xử chém ở chợ, vì tội tư học thiên văn, nói lời yêu ngôn hại nước[19], do bị em trai là Tống Duy Cát tố cáo.

[89] Đinh Đức Dụ điều động mấy ngàn quân hàng của Nhuận châu đến dưới thành Thăng châu, quân lính nhiều người bỏ trốn dọc đường, Tào Bân phát hịch chiêu dụ, họ dần dần tập hợp lại, nhưng lo sợ họ làm phản, lại giết hết. Ngày Canh Dần, Tào Bân và các tướng báo cáo đánh bại mấy ngàn quân tàn binh của Nhuận châu ở Thăng châu, chém được bảy trăm thủ cấp.

[90] Ngày Đinh Dậu, lấy Lục sự tham quân châu Tương là Tiền Văn Mẫn người Hà Nam làm Hữu tán thiện đại phu, quyền giữ chức Tri châu Lô.

Trước đây, các phiên trấn thường dùng văn thư riêng để lấy tiền trong kho quan, khi Hàn Trọng Uân cai quản Chiêu Đức, vẫn theo lối cũ, nhưng Văn Mẫn không chịu làm theo. Trọng Uân nổi giận, triệu Văn Mẫn đến trách mắng, Văn Mẫn vẫn khẳng khái không khuất phục. Khi Trọng Uân qua đời, Vua mới biết việc này, khen ngợi Văn Mẫn giữ vững đạo lý, nên thăng chức cho ông, và triệu kiến ở điện Tiện, bảo Văn Mẫn rằng: “Châu Lô gần với man di, càng cần phải vỗ về yên ủi, Tri châu Quách Trọng Thiên hà khắc, thu thuế vô pháp, ỷ mình ở nơi xa xôi, cho rằng triều đình không biết đến ngươi. Khi đến nơi, ngươi hãy vì Trẫm tra xét việc ấy, nếu có một hào xâm phạm dân, Trẫm sẽ không tha.” Vì vậy ban thưởng hậu hĩnh rồi cho lên đường, Trọng Thiên sau đó bị kết tội và xử chém. Văn Mẫn tại châu có nhiều chính tích, người Di đến tận cửa khuyết xin lưu lại ông, chiếu chỉ đổi làm Điện trung thừa, cho phép tái nhiệm.

[91] Tháng này, bắt đầu phát động dân đinh ba huyện châu Hoà để đào sông Hoành Giang, thông đường lương thực. Đây là kế sách của Chuyển vận sứ Kinh Tây là Lý Phù.

[92] Ban đầu, Lý Tùng Dật đến Giang Nam để truyền đạt ý chỉ của Vua, Quốc chủ (Lý Dục) định xuất hàng, nhưng Trần Kiều và Trương Kỵ đã dẫn dắt nhiều lời tiên tri, cho rằng thành trì kiên cố khó có thể chiếm được, quân phương Bắc sẽ tự rút lui vào sớm chiều. Quốc chủ bèn dừng lại. Khi Lý Mục trở về, Vua lại ra lệnh cho các tướng tiến quân. Đến khi Nhuận Châu bình định được, vòng vây bên ngoài càng gấp rút, Quốc chủ mới lo việc cử sứ giả đến triều cống, xin hoãn binh.

(Theo ‘Thực lục’, Lý Tùng Dật trở về nước vào ngày 12 tháng 8 và sai sứ giả đến triều cống xin hoãn binh, nhưng không rõ thời điểm ban đầu xuất phát từ Giang Nam. Sứ giả đến kinh thành vào ngày 1 tháng 10, vậy có lẽ là từ giữa tháng 9 trở đi. Từ giữa tháng 9, Tùng Dật không thể nào không ở Giang Nam. Tuy nhiên, trong truyện của Lý Dục có chép thư tay của ông, gửi kèm theo tấu chương của Chu Duy Giản, trong đó có câu: “Hai người em ở kinh thành được nuôi dưỡng đầy đủ.” Theo đó, có vẻ như Tùng Dật và Tùng Thiện đều không từng trở về. Tùng Dật đã trở về, nhưng trong thư này không hề nhắc đến, không rõ vì sao. Hoặc có lẽ khi Lý Mục trở về triều, Lý Dục đã dâng lời tạ ơn, còn bức thư này chỉ là hồi tưởng về việc Tùng Dật chưa trở về và được nuôi dưỡng chăng? Tuy nhiên, khi Lý Mục lại đi sứ Giang Nam lần nữa, lúc trở về, Lý Dục hẳn cũng phải có lời phúc mệnh, nhưng sử sách lại không ghi chép, có lẽ là do sơ suất. Nay tạm tham khảo các sách, sửa chữa đôi chút, đợi sau này sẽ tìm hiểu kỹ hơn.)

Đạo sĩ Chu Duy Giản, người Bà Dương, ẩn cư ở núi Tây Sơn, Hồng Châu. Quốc chủ triệu ông vào, cho ở tại cung Tử Cực, thường mặc áo vải đội mũ để giảng giải ‘Chu Dịch’, dần thăng đến chức Lang trung bộ Ngu rồi về hưu. Lúc đó, Trương Kỵ tiến cử Duy Giản có tầm nhìn xa, có thể dùng lời nói để dẹp binh đao. Quốc chủ lại triệu ông làm Cấp sự trung, cùng với Học sĩ Tu văn quán, Thừa chỉ Từ Huyền đi sứ đến kinh đô.

Khi ấy, Quốc chủ nhiều lần thúc giục Chu Lệnh Uân đem quân ở Hồ Khẩu đến cứu viện, bảo Huyền rằng: “Khanh đã đi, hãy ngăn quân cứu viện ở thượng du, đừng để họ tiến xuống phía đông.” Huyền đáp: “Thần đi lần này, chưa chắc đã giải quyết được khó khăn, trong thành đang trông chờ vào quân cứu viện, sao lại ngăn họ?” Quốc chủ nói: “Đang cầu hòa mà lại gọi quân, tự mâu thuẫn, chẳng phải nguy hiểm cho khanh sao?” Huyền đáp: “Phải lấy xã tắc làm trọng, bỏ thần ra ngoài tính toán.” Quốc chủ rơi lệ, liền phong ông làm Tả bộc xạ, tham tri tả hữu nội sử sự, nhưng Huyền cố từ chối. Quốc chủ lại thấy Duy Giản thanh cao, không màng danh lợi, bèn tự tay viết mười mấy tờ giấy, đề là ‘Tấu mục’, sai Duy Giản nhân cơ hội cầu xin thương xót, muốn từ chức để dưỡng bệnh.

Mùa đông, tháng mười, ngày mùng một Kỷ Hợi, Tào Bân cùng các tướng sai sứ đưa Huyền và Duy Giản về kinh.

Từ Huyền ở Giang Nam, tự phụ là danh thần, khi đến, định dùng lời nói để bảo vệ nước mình. Ông ngày đêm tính toán, suy nghĩ, khi đối đáp, lời lẽ rất chi tiết. Do đó, các đại thần trước đã tâu lên Vua, nói Huyền học rộng, tài biện luận, nên đối xử cẩn thận. Vua cười nói: “Cứ đi, việc này không phải là điều ngươi hiểu được.” Sau đó, Huyền vào triều, ngẩng đầu nói: “Lý Dục vô tội, Bệ hạ xuất quân không có danh nghĩa.” Vua từ từ triệu ông lên điện, để ông nói hết ý. Huyền nói: “Lý Dục lấy nhỏ thờ lớn, như con thờ cha, chưa có lỗi lầm, sao lại bị đánh?” Lời nói của ông kéo dài hàng trăm lần, Vua nói: “Ngươi nói cha con là hai nhà được chăng?” Huyền không thể đối đáp. Chu Duy Giản đem tấu chương dâng lên, Vua xem xong, nói: “Những điều chủ ngươi nói, ta chẳng hiểu gì cả.” Tuy Vua không hạ lệnh hoãn binh, nhưng cách đối xử với Huyền vẫn như lúc chưa xuất quân. Ngày Nhâm Dần, Huyền từ biệt trở về Giang Nam.

(Theo ‘Thực lục’, Từ Huyền và Chu Duy Giản hai lần đến kinh sư, nên ‘Ngũ đại sử’ và ‘Đàm uyển’[20] Thái Tổ đối đáp với Huyền có khác nhau, nay lấy những ghi chép trong ‘Ngũ đại sử’ gắn vào lần gặp đầu tiên, còn ‘Đàm uyển’ gắn vào lần gặp sau. Lúc đầu, Vua trả lời Duy Giản chỉ nói không hiểu những lời chủ ông nói, sau đó trách mắng, ban đầu còn dùng lý lẽ để phản bác Huyền, sau thẳng thừng nổi giận, có lẽ thời thế đã như vậy. Cần xem xét thêm.)

[93] Ngày Tân Hợi, ra chiếu cho các đạo, châu phủ, huyện lệnh và tá quan, các lệnh tá xuống làng xã, hỏi thăm người già, xem xét dân có hiếu đế, cần cù làm ruộng, có tài năng đặc biệt, hoặc văn võ tài cán đủ khả năng nhậm dụng, tuổi từ 20 trở lên, 50 trở xuống, đưa đến kinh đô.

[94] Ngày Ất Mão, sai sứ đi kiểm tra dân lánh nạn ở kinh kỳ.

[95] Ngày Đinh Tỵ, Quốc chủ Giang Nam lại sai sứ đến cống nạp, xin hoãn binh.

(Không rõ sai ai, cần tra cứu.)

[96] Sai Trang trạch sứ Vương Nhân Khuê, Nội cung phụng quan Lý Nhân Tộ cùng Tri Hà Nam phủ Tiêu Kế Huân cùng tu sửa cung thất Lạc Dương, Vua bắt đầu mưu tính việc di chuyển về phía tây. (Sách ‘Thực lục’ và ‘Bản kỷ’ đều chép rằng sai Nội ban đô tri Đoàn Nhân Hối, sau đó ban ơn thì là Vương Nhân Khuê, Lý Nhân Tộ. Không rõ nguyên do. Nay theo ‘Hội yếu’ và truyện Tiêu Kế Huân. Vương Nhân Khuê, Lý Nhân Tộ đều không thấy ghi chép khác.)

[97] Ngày Mậu Ngọ, đổi tên quân Trấn Hải ở Nhuận Châu thành quân Trấn Giang.

[98] Chu Lệnh Uân từ Hồ Khẩu đem quân vào ứng cứu, xưng là mười lăm vạn binh, buộc gỗ làm bè, dài hơn trăm trượng, chiến hạm lớn chứa được nghìn người, thuận dòng xuôi xuống, định đốt cầu phao Thái Thạch.

Vương Minh dẫn quân bản bộ đóng ở Độc Thụ Khẩu, sai con mình phi ngựa vào tâu, xin đóng thêm ba trăm chiến thuyền để đánh úp Lệnh Uân. Vua nói: “Đây không phải kế sách ứng biến. Lệnh Uân sớm tối sẽ đến, vây thành Kim Lăng sẽ giải.” Bèn sai sứ bí mật bảo Minh dựng nhiều cột dài ở các bãi châu, giống như hình cánh buồm. Lệnh Uân trông thấy, nghi có phục binh, liền dừng lại. Lúc ấy nước sông cạn, thuyền bè khó đi, Lệnh Uân ngồi thuyền lớn, cao hơn mười tầng, trên cắm cờ hiệu đại tướng. Đến Hoàn Khẩu, Hành doanh Bộ quân Đô Chỉ huy sứ Lưu Ngội tập hợp quân đánh gấp, Lệnh Uân thế cùng, bèn nổi lửa chống cự. Gặp lúc gió bắc rất mạnh, lửa lại thiêu chính mình, quân sĩ đều tan vỡ.

Ngày Kỷ Mùi, bắt sống Lệnh Uân và Chiến trạo Đô Ngu hậu Vương Huy, thu được vũ khí mấy vạn. Kim Lăng chỉ trông vào viện binh này, từ đó cô thành càng nguy khốn.

(Trong ‘Bản kỷ’ và ‘Lưu Ngội truyền’ đều chép bắt Lệnh Uân ở Hoàn Khẩu, trong ‘Vương Minh truyền’ lại chép ở Tiểu Cô Sơn, ‘Giang Nam Dã Lục’ chép ở Hổ Cứ Châu, không biết đầu là đúng. Nay theo ‘Bản kỷ’ và ‘Lưu Ngội truyền’).

[99] Giám sát ngự sử Lưu Bàn, tính tình thanh liêm, ít giao du, có thể chịu khổ, ăn uống đạm bạc, lại giỏi dùng mưu kế và thủ đoạn để dò xét sự đãi ngộ của nhà Vua [21]. Khi ấy, Lưu Bàn đang quản lý viện nhuộm. Ngày Ất Sửu, xa giá đến thăm, Bàn liền mặc áo ngắn, đi dép cỏ, cầm gậy, tự mình đốc thúc công việc, đầu tóc bù xù, vội vàng ra đón. Vua cho rằng ông làm việc siêng năng, ban thưởng 20 vạn tiền.

[100] Vua từ viện nhuộm đến thăm vườn phía bắc của Tấn vương, ban rượu cho các quan theo hầu, vui vẻ hết mức rồi giải tán.

[101] Tháng 11, ngày Kỷ Tỵ (mùng 1), Châu Quỳnh tâu rằng dân địa phương không có thầy thuốc, khi ốm đau chỉ cầu khấn thầy cúng. Vua xuống chiếu cấp các sách thuốc và “Bản thảo” cho họ. Sông Hữu Giang thuộc Châu Ung có cây thuốc độc, dân huyện Tuyên Hóa thường hái bán. Tri châu Hầu Nhân Báo tâu việc này, Vua hạ lệnh đốn bỏ hết. Hầu Nhân Báo là con của Hầu Ích. (Bản cũ ghi ngày Kỷ Tỵ là cuối tháng 10, nay căn cứ vào bản mới và “Bản kỷ”.).

[102] Trước đó, Vũ Thắng tiết độ sứ Trương Vĩnh Đức dâng ngựa để chúc mừng việc bình định Nhuận Châu, nhưng ngựa đều già và ốm yếu. Quan hữu ty dâng tấu hạch tội, Vĩnh Đức viết biểu xin chịu tội. Đến ngày Canh Ngọ, Vua ban chiếu tha tội và không truy hỏi nữa.

Vĩnh Đức nghe tin quân triều đình tiến đánh phương Nam, liền bỏ của cải gia đình để đóng mấy chục chiến thuyền, chở mấy vạn hộc lương thực, từ Thuận Dương dọc sông Hán mà xuôi về hướng Nam. Có tên hào cường trong châu là Cao Tiến, cả họ đều hung bạo, nhiều đời không ai trị nổi. Vĩnh Đức phát hiện hành vi gian trá của y, bèn bắt giam và xử theo pháp luật. Cao Tiến lén vào kinh đô, vu cáo rằng Vĩnh Đức chiếm giữ nơi hiểm yếu, lập hơn mười trại, có âm mưu làm phản. Vua sai sứ đi điều tra, sứ giả chất vấn Cao Tiến về việc lập trại, Cao Tiến bí lời, đành thú nhận: “Trương Thị trung (tức Trương Vĩnh Đức) đã giết hết người trong tông tộc của tôi, tôi muốn đổ tội cho ông ấy để báo thù riêng, thực ra chưa từng có việc lập trại gì cả.” Sứ giả về tâu lên Vua, Vua nói: “Ta vốn biết Trương Đạo nhân không phải là kẻ phản nghịch.” Liền giao Cao Tiến cho Vĩnh Đức, Vĩnh Đức lập tức cởi trói cho y, dẫn ra chợ đánh mấy roi rồi tha về. Người đời đều khen ông là bậc trưởng giả. Trước đây, Vĩnh Đức thích kết giao với các đạo sĩ, gia sản vì thế mà cạn kiệt, nên Vua gọi ông là “Đạo nhân”.

(Trong ‘Vĩnh Đức truyền’ có ghi: Vua sai Xu mật đô thừa chỉ Tào Hàn dẫn kỵ binh đi xem xét việc lập trại, nhưng không thấy có gì, Tào Hàn liền giao kẻ tố cáo cho Vĩnh Đức. Xét rằng, việc này trong truyền được kể liền với việc quân triều đình đánh Kim Lăng, mà lúc đó Tào Hàn đang làm tiên phong, sao lại có thể đến vùng Đường, Đặng được? Lại nữa, mới chỉ điều tra xem có trại hay không, sao đã vội dẫn kỵ binh, chẳng phải là quá ồn ào và gây thêm chuyện sao? Hơn nữa, không nên lập tức giao kẻ tố cáo cho Vĩnh Đức. Sợ rằng truyền chép sai. Nay tôi xin xóa bỏ đoạn này, cần xem xét kỹ hơn nữa.)

[103] Từ Huyền và Chu Duy Giản trở về Giang Nam, chưa bao lâu, Quốc chủ lại sai họ vào tâu Vua.

Ngày Tân Mùi, họ được triệu đến điện tiện. Từ Huyền tâu rằng Lý Dục đối với việc phụng sự thiên tử rất cung kính, chỉ vì bệnh tật nên chưa thể vào triều yết kiến, không dám chống chỉ, xin hoãn binh để bảo toàn mạng sống cho cả nước. Lời tâu hết sức khẩn thiết, Vua cùng họ tranh luận nhiều lần, giọng Từ Huyền càng thêm gay gắt. Vua nổi giận, cầm kiếm bảo Từ Huyền: “Không cần nói nhiều! Giang Nam có tội gì đâu, chỉ là thiên hạ là một nhà, bên cạnh giường ngủ của ta, há để người khác ngáy ngủ sao?” Từ Huyền hoảng sợ lui ra.

Vua lại quở trách Chu Duy Giản, Chu Duy Giản càng sợ hãi, bèn tâu: “Thần vốn ở nơi thôn dã, không có ý tiến thân, Lý Dục ép buộc sai thần đến đây. Thần từng nghe núi Chung Nam có nhiều linh dược, ngày sau mong được ẩn cư.” Vua thương tình đồng ý, lại ban thưởng hậu hĩnh rồi cho về.

[104] Ngày đó, Vua ngự đến viện Lăng Cẩm, triệu tập các bề tôi cùng dự tiệc và bắn cung trong vườn.

[105] Ngày Mậu Dần, lần đầu thiết lập viện Suy Khám của tam ty, cử Tướng tác giám thừa Trương Mạc làm viện sự, sau đó bãi bỏ.

[106] Tiết độ sứ Vân Châu của Khiết Đan (cần tra cứu tên họ) sai người đưa thư đến Doanh Châu, ngỏ ý muốn giao hảo với phòng ngự sứ Mã Nhân Vũ. Nhân Vũ đem thư tấu lên Vua.

[107] Ngày Canh Thìn, Vương Minh tâu rằng đã đánh bại hơn một vạn quân Giang Nam ở Hồ Khẩu, bắt được năm trăm chiến thuyền, cùng nhiều binh khí tương xứng.

[108] Trước đó, Tào Bân và những người khác đã lập ba trại để tấn công thành[22]. Phan Mỹ đóng quân ở phía bắc, mang bản đồ đến dâng lên Vua. Vua xem xét, chỉ vào trại phía bắc và bảo sứ giả: “Nơi này nên đào hào sâu để củng cố phòng thủ, người Giang Nam chắc chắn sẽ đem quân ra đánh úp ban đêm. Ngươi hãy mau đi bảo Tào Bân và những người khác, gấp rút hoàn thành việc này. Nếu không, cuối cùng sẽ bị họ lợi dụng.” Vua ban đồ ăn cho sứ giả, đồng thời triệu Xu mật sứ Sở Chiêu Phụ soạn chiếu, lệnh di chuyển thuyền chiến để phòng ngừa biến cố khác. Sứ giả dùng bữa xong liền lên đường. Tào Bân và những người khác nhận mệnh, tự mình giám sát dân phu đào hào, và hào được hoàn thành.

Ngày Bính Tuất, quân Giang Nam quả nhiên ban đêm xuất kích 5.000 quân tấn công trại phía bắc, mỗi người cầm một bó đuốc, hò hét tiến lên. Tào Bân và những người khác để họ tiến vào, rồi từ từ tấn công, tiêu diệt toàn bộ, trong đó có hơn mười tướng lĩnh mang ấn tín[23].

[109] Cùng ngày, lệnh cho Hiệu thư lang, Trực sử quán Tống Chuẩn đi chúc mừng Tết chính đán ở Khiết Đan, Điện trực Hình Văn Độ làm phó.

(Về Hình Văn Độ, chưa thấy ghi chép.)

[110] Vương sư bao vây Kim Lăng, từ mùa xuân đến mùa đông, đường đi của dân chúng kiếm củi bị cắt đứt, quân đội lại thất bại nhiều lần, trong thành khí thế suy sụp. Tào Bân cuối cùng muốn hàng phục họ, nên mỗi lần tấn công đều chậm rãi, liên tục cử người báo với Quốc chủ rằng: “Ngày hai mươi bảy tháng này, thành tất sẽ bị phá, nên sớm lo liệu.” Quốc chủ bất đắc dĩ, hẹn trước cho con trai mình là Thanh Nguyên quận công Trọng Ngụ vào triều, nhưng lâu sau vẫn không xuất hiện.

Vài ngày trước đó, Tào Bân ngày ngày cử người thúc giục, và nói rằng: “Lang quân chẳng cần đi xa[24], nếu đến trại, sẽ lập tức ngừng tấn công bốn phía.” Quốc chủ cuối cùng nghe theo lời tả hữu, cho rằng thành kiên cố như vậy, làm sao có thể bị phá vào ngày ấn định, chỉ trả lời rằng: “Trọng Ngụ chưa sửa soạn xong hành trang, trong cung yến tiễn chưa xong, ngày hai mươi bảy mới có thể ra đi.”

Tào Bân lại cử người báo rằng: “Nếu ngày hai mươi sáu mà không ra đi, cũng sẽ không kịp nữa.” Quốc chủ không nghe theo.

[111] Trước đó, nhà Vua nhiều lần nhờ sứ giả truyền dụ Tào Bân rằng không được làm hại người trong thành, nếu còn kháng cự, thì môn họ Lý Dục tuyệt đối không được gia hại.

(Lã Tổ Khiêm trong ‘Tống triều đại sự ký’ viết: “Từ xưa các bậc chúa lấy lại bình loạn, xem các vương hàng không khác gì kẻ thù, nhưng Thái Tổ nhà ta đối đãi họ với ân lễ tột cùng. Lưu Sưởng, rót rượu uống để giải nghi ngờ; Lý Dục, một môn họ không được gia hại. Nên các bậc hào kiệt ngụy triều đều được bảo toàn, chết già dưới mái nhà. Từ xưa các bậc chúa đi chinh phạt, xem dân chúng như cỏ rác, nhưng Thái Tổ nhà ta đối đãi họ với sự nuôi dưỡng chu đáo. Khi hưng binh ở Giang Nam, không giết một người, bình định Thục lắm kẻ chết, thường lấy làm hối hận. Nên dân chúng mới tập hợp, không khác gì con đỏ ngưỡng vọng cha mẹ. Lòng nhân, tiếng nhân, từ thời Tam Đại trở xuống, chưa từng nghe vậy.”)

Vì thế, Tào Bân bỗng cáo bệnh không làm việc, các tướng đều đến hỏi thăm, Bân nói: “Bệnh của ta không phải thuốc thang chữa được, cần các ông cùng thề, ngày phá thành không giết bừa một người, thì bệnh của ta sẽ khỏi.” Các tướng đồng ý, rồi cùng nhau đốt hương thề ước. Xong việc, Bân liền nói khỏe. Ngày Ất Mùi, thành bị hạ.

Trước đây, Trần Kiều, Trương Kỵ cùng đưa ra ý kiến không đầu hàng, khi tình thế nguy cấp, lại bàn với nhau cùng chết vì xã tắc. Nhưng Kỵ thực tình không có ý chết, nên đem vợ con và tài sản vào cung, dẫn Kiều cùng gặp Quốc chủ. Kiều nói: “Thần có tội với Bệ hạ, xin xử trảm. Nếu triều đình trung nguyên có hỏi tội, xin lấy thần làm lý do.” Quốc chủ nói: “Vận số đã hết, khanh chết vô ích.” Kiều nói: “Dù Bệ hạ không giết thần, thần còn mặt mũi nào để nhìn người nước?”[25] Rồi tự thắt cổ. Kỵ bèn thưa với Quốc chủ rằng[26]: “Thần cùng Kiều cùng quản việc cơ mật[27], nay nước mất nên cùng chết. Nhưng nghĩ Bệ hạ sang triều đình, ai sẽ cùng Bệ hạ biện minh việc này, nên không chết, là để đợi thời cơ.”

(Theo ‘Quốc sử Trương Kỵ truyền’, nói Kỵ hẹn Trần Kiều cùng lên gác, Kiều tự vẫn, Kỵ đợi Kiều tắt thở rồi mới xuống. Nhưng ‘Đàm Uyển’ chép rằng Kiều tự vẫn ở sảnh làm việc, Kỵ vẫn không biết. ‘Quốc sử’ có lẽ theo ‘Cửu quốc chí Trần Kiều truyền’, e rằng ‘Cửu quốc chí’ chưa đáng tin. Kỵ đã bội ước không chết, còn đợi Kiều tắt thở rồi mới xuống gác làm gì? ‘Đàm Uyển’ lại nói Quốc chủ tìm Kiều không thấy, có người báo Kỵ cho rằng Kiều đã đầu hàng phương Bắc, năm sau mới tìm thấy xác Kiều. Theo đó, thì việc cùng lên gác là sai lầm lắm. Nay tham khảo tu chỉnh, để tránh mâu thuẫn. Đại để khi thành bị phá, Kỵ cùng Kiều vẫn cùng gặp Quốc chủ[28], xin như lời hẹn trước, Kiều liền chết, còn Kỵ không chết. Kỵ thực lòng không thể chết[29], cùng gặp Quốc chủ vì đoán chắc Quốc chủ không cho mình chết.)

[112] Tào Bân chỉnh đốn quân đội, sắp thành hàng ngũ, tiến vào thành cung. Quốc chủ bèn dâng biểu xin hàng, cùng quần thần ra cửa đón và bái lạy. Bân liền chọn một ngàn quân tinh nhuệ đóng giữ ngoài cửa, ra lệnh rằng: “Kẻ nào muốn vào, nhất loạt ngăn cấm.”

Trước đó, Quốc chủ đã ra lệnh chất củi trong cung, tự nói rằng nếu xã tắc thất thủ thì sẽ cùng cả nhà tự thiêu mà chết. Đến khi gặp Bân, Bân an ủi ông, lại bảo rằng: “Bổng lộc triều đình ban có hạn, chi phí lại rất lớn, nên chuẩn bị hành trang đầy đủ, một khi đã bị quan phụ trách ghi chép vào sổ thì không thể lấy lại được nữa.” Bèn lại sai Quốc chủ vào cung, cho lấy theo ý muốn.

Hành dinh Hữu sương Chiến trạc đô giám Lương Huýnh cùng Điền Khâm Tộ đều can rằng: “Nếu xảy ra chuyện bất ngờ, ai sẽ chịu trách nhiệm?” Bân chỉ cười mà không đáp. Huýnh và các người khác hết lời tranh luận, Bân nói: “Quốc chủ vốn không quyết đoán, nay đã đầu hàng, tất không thể tự quyết định được, không cần lo nghĩ.” Lại sai năm trăm người chở hành lý. Quốc chủ đang buồn bã than thở về việc mất nước, không có ý tích trữ của cải, nên mang theo rất ít đồ, lại đem vàng chia cho các cận thần.

Duy có Hữu nội sử, học sĩ Trương Tất không nhận, đến gặp Bân tự trình bày, mong được tâu việc lên. Bân cho rằng Tất cầu danh, không cho phép, chỉ lấy vàng nộp quan.

Bân vào Kim Lăng, ban hành lệnh nghiêm cấm bạo lực. Sĩ phu nhờ Bân mà được bảo toàn, mỗi người đều được yên ổn [30]. Những người thân bị lính cướp bóc đều được lập tức trả về. Lại ra lệnh lục soát trong quân, cấm không được giấu vợ con của người khác. Kho tàng và phủ khố, giao cho Chuyển vận sứ Hứa Trọng Tuyên căn cứ vào sổ sách kiểm tra, Bân không can thiệp. (Kỷ sự bản mạt: Cứu tế người cùng khốn, thương xót kẻ góa bụa, lòng nhân từ không chỗ nào không đến. Người Ngô đều vui mừng.) Quân rút về, trên thuyền chỉ có sách vở và chăn áo mà thôi.

[113] Chùa Tân Long Hưng xây xong, tổng cộng năm trăm sáu mươi hai gian. Ngày Bính Thân, Vua đến xem.

[114] Tháng chạp, ngày Kỷ Hợi, mùng một, tin thắng trận từ Giang Nam truyền về, tổng cộng chiếm được mười chín châu, ba quân, một trăm lẻ tám huyện, với sáu trăm năm mươi lăm nghìn sáu mươi lăm hộ. Các quan đều chúc mừng. Vua khóc, bảo tả hữu rằng: “Thiên hạ chia cắt, dân chịu khổ, ta mong truyền bá giáo hóa để cứu vớt họ. Khi đánh thành, ắt có người vô tội bị chém, thật đáng thương.” Liền xuống chiếu cấp mười vạn thạch gạo để cứu đói cho dân trong thành.

[115] Lý Kế Long giỏi việc truyền dịch, mỗi ngày đi được bốn, năm trăm dặm. Từ khi chiến sự Giang Nam nổ ra, ông thường xuyên đi lại.

Có lần dẫn giải ngụy tướng đến kinh, đến huyện Hạng, gặp lúc kẻ đó bệnh, ông chém đầu dâng lên. Vua khen ngợi. Lại theo Lý Phụ đốc thúc việc vận tải Kinh Hồ, giao chiến với quân Giang Nam, bị tên bắn trúng trán, nhờ mũ giáp dày[31]nên không bị thương. Vua thấy tài năng của ông, lại nghĩ đến cha ông, nên muốn trọng dụng, bảo rằng: “Khi Thăng Châu bình định, ngươi hãy mang tin thắng trận về, ta sẽ trọng thưởng.”

Lúc ấy, trong quân có mười mấy sứ thần và nội thị, đều chờ thành hãm để dâng tin thắng, nhưng gặp việc cơ mật phải vào tâu, họ đều không muốn đi, chỉ có Kế Long xin về kinh. Vua thấy ông về, biết thành chưa hạ, rất kinh ngạc. Kế Long đoán Kim Lăng sẽ phá trong sớm tối, nên nói: “Trên đường gặp gió lớn, trời đất u ám, đây là điềm thành vỡ, tin thắng chắc ngày mai sẽ tới.” Vua gọi Kế Long vào bảo: “Đúng như ngươi dự đoán.”

[116] Ngày Canh Tý, Vua đến sông Huệ Dân[32]xem quân lính đắp đập.

[117] Ngày Tân Sửu, tha tội cho các châu huyện thuộc quản hạt Giang Nam mà thường xuyên không được đặc xá[33], các quan lại văn vũ ngụy triều đang giữ chức việc, đều được giữ nguyên như cũ. Những nơi từng bị binh đao, dân chúng được miễn thuế hai năm, những nơi không bị binh đao, được miễn thuế một năm. Những người thuộc các tầng lớp và tăng đạo bị bắt đi lính, được cấp giấy tờ cho tự do về quê. Lệnh cho các châu phân tích chính sách cũ, những khoản thuế má nặng nề đều được bãi bỏ. Quân lính bắt được tù binh, từ bảy tuổi trở lên, quan phủ cấp năm tấm lụa để chuộc về cho gia đình, dưới bảy tuổi thì trả về ngay.

Lại ra chiếu không được xâm phạm mồ mả tổ tiên của Lý Dục, sai Thái tử tẩy mã Lã Quy Tường người Hà Đông đến Kim Lăng, biên chép sách vở do Lý Dục cất giữ đưa về kinh đô.

[118] Ngày Đinh Mùi, lấy Dương Khắc Nhượng quyền coi việc ở Thăng Châu, sau kiêm cả việc kế độ chuyển vận đường thủy bộ.

(Tháng hai năm sau mới kiêm việc tào vận[34], nay ghi chung cả vào.)

[119] Ngày Mậu Thân, nước Tam Phật Tề sai sứ đến cống nộp sản vật địa phương.

[120] Ngày Kỷ Dậu, ngự giá đến chùa Long Hưng.

[121] Ngày Tân Hợi, ban cho dân các huyện thuộc Kinh Kỳ được miễn ba phần mười thuế mùa thu năm nay.

[122] Ngày Kỷ Mùi, lấy Ân Xá hầu Lưu Sưởng làm Tả Giám môn Vệ Thượng tướng quân, phong làm Bành Thành quận công, bỏ tước hiệu Ân Xá hầu.

[123] Hộ bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo Vương Hỗ phán Môn hạ tỉnh, cùng Phán Lại bộ Lưu nội tuyên Hầu Trắc không hòa hợp. Hầu Trắc chú định chỗ nào, Vương Hỗ đều bác bỏ sửa lại. Hầu Trắc tố cáo với Lư Đa Tốn. Lư Đa Tốn vốn là học sĩ, ngầm hãm hại Tể tướng Triệu Phổ, nhiều lần ngầm kêu gọi Vương Hỗ giúp mình, Vương Hỗ không nghe, bảo Lư Đa Tốn rằng: “Xưa Đường Vũ Văn Dung cùng Trương Thuyết có hiềm khích. Trương Thuyết bị Vũ Văn Dung gièm pha mà bị bãi chức, sau Trương Thuyết lại được phục chức, còn Vũ Văn Dung thì đại bại. “ Liền lấy truyện đó để khuyên Lư Đa Tốn nên bỏ qua, Lư Đa Tốn không vui.

Ngày Quý Hợi, Vương Hỗ vì việc của Hầu Trắc mà bị giáng làm Trấn quốc Hành quân Tư mã.

(Tư mã nhật ký chép rằng: Vương Hỗ vì dùng trăm lời mà bảo đảm Đại danh Tiết độ sứ Phù Ngạn Khanh [35] không có ý phản nghịch, nghịch ý Vua, nên bị giáng. Đó là nhầm vậy. Năm Khai Bảo thứ 2, Phù Ngạn Khanh đã dời đến Phượng Tường, mà khi Vương Hỗ bị giáng, Phù Ngạn Khanh đã chết rồi.)

[124] Ngày Giáp Tý, Khiết Đan sai Hữu vệ Đại tướng quân Gia Luật Ô Chính, Lễ tân sứ Tiêu Hộ Lí Quốc, Thông sự Tả Thiên ngưu vệ Tướng quân Trần Diên Chính sang mừng lễ Chính đán năm sau.

[125] Trước đó, Vua từng triệu Tiến tấu sứ Ngô Việt là Nhiệm Tri Quả, bảo truyền ý chỉ cho chúa của ông là Tiền Thúc rằng: “Nguyên soái dẹp Bì Lăng có đại công, đợi bình định Giang Nam xong, có thể tạm đến gặp Trẫm, để làm khuây nỗi nhớ nhung, xong sẽ về ngay, không lưu lại lâu. Trẫm ba lần cầm khuê tế lễ Thượng đế, lẽ nào lại thất tín sao!” Thôi Nhân Ký cũng bảo Tiền Thúc rằng: “Chủ thượng anh dũng, đánh đâu thắng đó. Nay tình hình thiên hạ đã rõ, giữ gìn toàn tộc là kế sách cao nhất.” Tiền Thúc nghe lời đó.

Ngày Đinh Mão, Tiền Thúc xin đến chầu lễ Trường Xuân tiết, chiếu cho phép.

[126] Năm đó, chiếu tư các cống sĩ không đỗ kỳ thi, đặc miễn không phải thỉnh thi lại, cho phép trực tiếp đến bộ Cống.

[127] Lệnh các châu phàm bắt tội nhân, phải báo cho quan chức cấp trên, cơ quan có thẩm quyền không được trực tiếp sai bắt.

[128] Chiếu các quan thuộc phải xem xét kỹ lưỡng và định lại mẫu biểu trạng, ban hành khắp thiên hạ, gồm ba mươi ba điều. Ngự sử đài, Khai Phong phủ, các lộ chuyển vận ty hoặc quan viên được mệnh xử án, ngay lập tức sao chép một bản trao cho họ. Các trưởng quan châu, phủ, quân, giám cùng châu viện, Tư khấu viện phải khắc chữ lớn lên bảng, dán lên tường nơi xử việc.

(Bản kỷ ghi hai việc này đều xảy ra vào tháng tám, nay gộp lại vào cuối năm.)

[129] Người Nhung ở Tần châu thuộc tộc Đại Thạch và Tiểu Thạch đến cướp phá Thổ Môn, bắt dân lành. Tri châu Trương Bính đánh đuổi được chúng.

(Trương Bính, không thấy ghi rõ.)

[130] Trong niên hiệu Chu Quảng Thuận, tuyển hộ nộp thuế ở Tần châu sung vào quân Bảo Nghị, dạy võ nghệ. Nếu bỏ trốn hoặc chết thì lấy người canh tác đất đai thay thế. Khi có chiến dịch, quan cấp lương thực, có ngựa thì cấp cỏ khô và đậu.

Năm này, huy động dân hai huyện Bình Lương và Phan Nguyên thuộc Vị châu đào hào thành[36]. Xong việc, lập họ thành quân Bảo Nghị cung tiễn thủ, chia nhau trấn giữ các trại. Ai tự sắm được ngựa thì được miễn dịch, nếu bỏ trốn hoặc chết thì lấy thân thuộc thay thế. Đây là theo chế độ thời Quảng Thuận.

(Việc này căn cứ theo “Lưỡng triều binh chế”.)


  1. 'Nhuận' nguyên bản là 'Thuận', theo các bản và ‘Đại điển’ quyển 12307 sửa
  2. chữ 'triếp' nguyên là 'xuyết', căn cứ theo sách trên mà sửa
  3. chữ 'hành' vốn bị thiếu, căn cứ theo các bản khác và quyển 12307 Đại Điển, bản sách này quyển 15 ngày Đinh Dậu tháng 10 mà bổ sung
  4. Các bản đều ghi là 'ban ra đề thi thơ phú', riêng sách 'Biên niên cương mục' quyển 2 chép là 'ban ra đề thi thơ phú để phúc thí'. Theo văn trên đã nói 'Vua ngự điện Giảng Vũ, phúc thí các cử nhân hợp cách Vương Thức', thì ở đây nên là 'phúc thí' sẽ hợp lý hơn, có lẽ chữ 'phúc' bị thiếu.
  5. 'sự thời' nguyên bản chép là 'thời sự', theo bản Tống và các bản khác, cùng với 'Đại điển' quyển 12307 sửa lại
  6. chữ 'nhị' nguyên bản là 'nhất', theo bản Tống, Tống toát yếu, các bản khác và Đại điển quyển 12307 sửa lại.
  7. Chữ 'đến' trong câu 'khi từ biệt về nước' có chèn thêm chữ 'giải', dựa theo bản chép tay và Đại điển quyển 12307 để xóa.
  8. Số bạc dư thừa hàng chục cân, chữ 'dư' ban đầu viết là 'mĩ', theo bản trong các sách và Đại điển quyển 12307, Tống sử quyển 3 Thái Tổ kỷ, quyển 270 Đổng Xu truyền sửa lại
  9. Bị đánh trượng và lưu đày ra hải đảo, chữ 'lưu' ban đầu bị thiếu, theo các sách nói trên bổ sung vào
  10. Nguyên bản 'miễn thuế năm nay', căn cứ vào bản các và 'Đại điển' quyển 12307, bỏ chữ 'năm nay', đổi 'thuế' thành 'nợ'. Xem 'Tống sử' quyển 3, 'Thái Tổ bản kỷ': tháng 5, 'ngày Ất Dậu, ban chiếu miễn thuế nợ cho dân mười huyện Vũ Cương, Trường Sa bị giặc cướp lược, đồng thời miễn dịch một năm.' Câu dưới đây cũng nói 'miễn dịch một năm', có thể tham khảo chứng cứ.
  11. Nguyên bản 'Tiến Vũ', căn cứ vào 'Tống sử' quyển 187, 'Binh chí - Cấm quân thượng' chép: năm Càn Đức thứ 3, 'Vua ngự ở điện Giảng Vũ, duyệt binh các đạo, lấy kỵ binh làm Kiêu Hùng, bộ binh làm Hùng Vũ'; quyển 257, 'Lý Kế Long truyện': 'khi đánh Giang Nam, dẫn ba trăm quân Hùng Vũ trấn thủ châu Thiệu.' Sự việc phù hợp với bản này, vì thế sửa lại.
  12. Bản gốc thừa chữ 'châu', căn cứ 'Đại điển' quyển 12307. Xem 'Tống sử' quyển 257, 'Lý Kế Long truyện': 'Giặc Man mấy ngàn người dàn trận ở phía nam Trường Sa, chặn đường.' Có thể chứng minh.
  13. Nguyên bản 'Khánh Vân', căn cứ vào bản các và 'Đại điển' quyển 12307, 'Long bình tập' quyển 9 và 'Đông đô sự lược' quyển 20, 'Lý Xử Vân truyện' sửa lại.
  14. 'Mệnh' nguyên tác là 'Thuận', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 'Đại điển' quyển 12307, 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 3 sửa lại.
  15. 'Trại', bản Tống, bản Tống toát yếu và 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 3, 'Tống sử toàn văn' quyển 2 hạ đều chép là 'sách'.
  16. Chữ 'hạ' trong 'vi bộ hạ sở tụng' nguyên bản thiếu, được bổ sung theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và Đại điển quyển 12307, cùng truyện Hầu Trắc trong Tống sử quyển 270.
  17. Chữ 'hòa' trong 'dĩ công bá vi hoà châu thứ sử' nguyên bản ghi là 'tri', sửa theo các bản và Đại điển quyển 12307.
  18. Trước thiếu chữ 'Môn', theo 'Tống hội yếu' phần Phiên di nhất chi nhị và 'Liêu sử' quyển 47, phần Bách quan chí, bổ sung.
  19. Yêu ngôn hại nước 'hại nước', bản Tống và Đại điển quyển 12307 đều chép 'thiết hại', bản Tống toát yếu chép 'Hoặc chúng'.
  20. Trong 'Ngũ đại sử' và 'Đàm uyển', chữ 'cố' bị thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 'Đại điển' quyển 12307 bổ sung.
  21. 'Dò xét' nguyên văn là 'Hãnh', căn cứ vào bản Tống, bản tóm tắt Tống và Đại điển quyển 12307, Tục Thông giám quyển 8 sửa lại
  22. Tào Bân và những người khác lập ba trại tấn công thành, chữ 'công thành' bị thiếu trong nguyên bản, căn cứ theo sách cùng tên và 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 3, 'Trị tích thống loại' quyển 1 bổ sung.
  23. 'Hơn mười người', nguyên bản viết 'mấy chục người', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 'Đại điển' quyển 12307, 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 3, 'Trị tích thống loại' quyển 1 sửa lại.
  24. Nguyên bản chữ 'độn' được sửa thành 'thích' theo sách trên.
  25. 'Thần còn mặt mũi nào để nhìn người nước?' Chữ ‘quốc’ nguyên bản thiếu, theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 'Đại điển' quyển 12307 bổ sung.
  26. Kỵ bèn thưa với Quốc chủ rằng 'bèn' dưới nguyên bản thừa chữ ‘dĩ’, chữ ‘quốc’ nguyên bản thiếu, theo các sách trên bỏ bớt và bổ sung.
  27. 'Thần cùng Kiều cùng quản việc cơ mật' Chữ ‘cơ’ nguyên bản là ‘quốc’, theo các sách trên sửa.
  28. Kỵ cùng Kiều vẫn cùng gặp Quốc chủ Chữ ‘vẫn’ nguyên bản thiếu, theo các sách trên bổ sung.
  29. Kỵ thực lòng không thể chết Chữ ‘thực’ nguyên bản là ‘cố’, theo các sách trên sửa.
  30. Chữ 'sở' trong 'mỗi người đều được yên ổn' nguyên bản bị thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản cùng Đại điển quyển 12307, Trưởng biên kỷ sự bản mạt quyển 3, Tống sử toàn văn quyển 2 hạ bổ sung.
  31. 'Mũ giáp' nguyên bản viết là 'mão', căn cứ vào bản khác và Đại điển quyển 12308, Tống sử quyển 257 truyện Lý Kế Long sửa.
  32. 'Sông' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản khác và Đại điển quyển 12308, Tống sử quyển 3 bản kỷ Thái Tổ bổ.
  33. tha cho các châu huyện thuộc quản hạt Giang Nam mà thường xuyên không được đặc xá, chữ 'quản' nguyên bản viết là 'doanh', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và Đại điển quyển 12308, Sách dài biên kỷ sự bản mạt quyển 3 sửa lại.
  34. mới kiêm việc tào vận, chữ 'kiêm' nguyên bản viết là 'kiến', theo bản Các và Đại điển quyển 12308 sửa lại.
  35. 'Đại danh' ban đầu làm 'Đại minh', theo bản Tống, bản Tóm tắt triều Tống và liệt truyện Phù Ngạn Khanh quyển 251, liệt truyện Vương Hỗ quyển 269 trong ‘Tống sử’ mà sửa
  36. 'Bình Lương' nguyên bản viết 'Bình Nguyên'. Theo sách 'Hoàn Vũ ký' quyển 151 và 'Tống sử' quyển 87, địa lý chí, Vị châu có huyện Bình Lương, 'Tống sử' quyển 190, binh chí chép việc này cũng ghi 'Vị châu Bình Lương'. Chữ 'Bình Nguyên' sai, nay sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.