II. TỐNG THÁI TÔNG
QUYỂN 19: NĂM THÁI BÌNH HƯNG QUỐC THỨ 3 (MẬU DẦN, 978)
Từ tháng giêng năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 đời Thái Tông đến tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, Bắc Hán chủ phái con trai là Tục làm con tin sang Khiết Đan, dâng nhiều của cải để cầu viện trợ.
[2] Ngày Canh Dần, châu Vận tâu rằng điện trực Hoắc Quỳnh tự xưng nhận chiếu chỉ đến bộ mình để mộ quân, rồi cùng với những người mộ được cướp tài sản của dân bộ là Lưu Ngưng. Vua ra lệnh bắt giam đưa về kinh, xét ra sự thật, tất cả đều bị chém ngang lưng tại chợ thành.
[3] Ngày Giáp Ngọ, thủ lĩnh người Man vùng Dã Xuyên, núi Tây, châu Nhã là Mã Lệnh Mạc cùng 14 người đến triều cống.
[4] Lệnh cho châu Ráng nạo vét sông Phần.
[5] Kinh Tây Chuyển vận sứ Trình Năng dâng tấu, xin từ Nam Dương, Hạ Hướng Khẩu đắp đập, dẫn nước sông Bạch vào Thạch Đường, Sa Hà, hợp với sông Thái, chảy về kinh sư, để thông việc vận chuyển ở Tương, Đàm[1]. Vua khen ngợi ý kiến và nghe theo.
Ngày Mậu Tuất, xuống chiếu huy động dân phu ở các châu Đường, Đặng, Nhữ, Dĩnh, Hứa, Thái, Trần, Trịnh cùng binh lính các châu, tổng cộng mấy vạn người, do Cung tiễn khố sứ Dương Vũ Vương Văn Bảo, Lục trạch sứ Lý Kế Long, Nội tác phường phó sứ Lý Thần Hữu, Lưu Thừa Khuê đốc thúc công việc. Đào núi lấp khe, qua Bác Vọng, La Cừ, Tiểu Hữu Sơn, dài hơn trăm dặm. Hơn một tháng, đến Phương Thành, đất cao, nước không chảy tới[2], lại tăng thêm người để dẫn nước, nhưng cuối cùng không thể thông được việc vận chuyển. Gặp lúc nước lũ dâng cao, đập đá bị vỡ, sông không thể hoàn thành, cuối cùng bỏ dở. Thừa Khuê là người Sơn Dương.
[6] Ngày Kỷ Hợi, Tây Kinh Hữu quân Tuần sứ, Quang lộc tự thừa Lý Chi Tài bị tước danh tịch, vĩnh viễn không được liệt vào quan chức. Vì tội cùng thường dân Lý Thừa Thụy mang rượu vào trong cung điện uống, bị Tuần kiểm tố cáo, tra xét thấy đúng sự thật.
[7] Ngày Canh Tý, ban chiếu bãi bỏ các khóa sắt đặt ở phía bắc thành Trần Châu trên sông Thái Hà. Trước đây, các phiên trấn thường tự ý bổ nhiệm lại dịch, thiết lập khóa sắt để tính thuế từ thuyền dân, thuyền chở được trên trăm thạch bị thu một trăm đồng tiền, nếu có chở hàng hóa thì thu gấp đôi, khiến thương nhân rất khổ sự. Đến nay, Trần Châu tâu bày việc ấy, [triều đình] lập tức ban chiếu bãi bỏ. Sau đó, các châu dọc sông lại thiết lập khóa sắt như cũ.
[8] Ngày Tân Sửu, huy động dân phu các huyện lân cận để nạo vét các sông Quảng Tế, Huệ Dân và sông Thái Hà, phân phái sứ giả đến đốc thúc. Lại phái thêm 17 sứ giả sửa chữa đê sông Hoàng Hà để phòng ngừa lũ lụt.
[9] Ngày Đinh Mùi, lại huy động thêm một nghìn binh lính để nạo vét cửa sông Biện.
[10] Ngày Kỷ Dậu, sai Hàn lâm học sĩ Lý Phưởng cùng người khác biên soạn ‘Thái Tổ Thực Lục’, Trực học sĩ viện Thang Duyệt cùng người khác biên soạn ‘Giang Biểu Sự Tích’.
(Theo nguyên bản ghi Lý Phưởng cùng người sửa ‘Giang Biểu Sự Tích’. Căn cứ vào ‘Tống Sử’, Lý Phưởng biên soạn ‘Thái Tổ Thực Lục’, Thang Duyệt biên soạn ‘Giang Biểu Sự Tích’. Nay sửa lại cho đúng.)
[11] Ngày Canh Tuất, Thứ sử Triệu Châu là Vi Thao bị giáng làm Hữu Thiên Ngưu Vệ Tướng quân, do tội tuần biên không cẩn thận.
(Vi Thao tuần biên không cẩn thận, cần xem xét lại.)
[12] Ngày Tân Hợi, sai các cận thần cầu mưa tại các chùa, đạo quán và đền miếu trong kinh thành. Hai ngày sau mưa đủ, lại phái sứ giả đến các nơi tạ ơn.
[13] Người Nhung thuộc ba tộc nội thuộc ở Tần Châu nhiều lần quấy nhiễu biên giới, ngày Quý Sửu, ban chiếu tha hết tội cho họ, từ nay nếu dám xâm lược nữa, quan lại sẽ bắt trị tội theo pháp luật, không cần tâu báo.
[14] Ra lệnh rằng các châu ở vùng Xuyên, Hiệp, những người phạm tội có thể chuộc tội, mỗi cân đồng phải nộp 480 đồng tiền sắt.
[15] Năm Kiến Long đầu tiên, sách vở do ba quán lưu trữ chỉ khoảng hơn 12 nghìn quyển. Đến khi bình định các nước, thu hết đồ thư, đặc biệt ở Thục và Giang Nam là nhiều nhất, tổng cộng thu được 13 nghìn quyển sách từ Thục và hơn 20 nghìn quyển từ Giang Nam. Lại ban chiếu mở đường hiến sách, từ đó, sách vở trong thiên hạ lại tập trung về ba quán, sách vở dần được bổ sung đủ.
Từ khi nhà Lương dời đô về Biện, vào niên hiệu Trinh Minh, bắt đầu lấy mấy chục căn nhà nhỏ phía đông bắc cửa Trường Khánh bên phải làm Tam Quán. Nơi đây chật hẹp, chỉ đủ che mưa chắn gió, đường nhỏ quanh co, lại có vệ sĩ và lính hầu qua lại ồn ào suốt ngày. Mỗi khi các Nho thần nhận chiếu soạn thảo văn bản, đều phải dời đến nơi khác mới có thể hoàn thành.
Khi Vua mới lên ngôi, nhân dịp đi thăm, nhìn quanh rồi bảo tả hữu: “Nơi này tồi tàn như vậy, làm sao có thể lưu giữ sách vở thiên hạ, chiêu mộ hiền tài bốn phương?” Lập tức xuống chiếu cho quan chức chọn khu đất cũ Viện Xa Lộ phía đông bắc cửa Thăng Long, xây dựng riêng Tam Quán mới, sai trung sứ đốc thúc thợ thuyền làm việc ngày đêm. Quy mô kiến trúc đều do chính Vua vạch ra. Từ khi khởi công đến lúc hoàn thành, Vua đích thân đến thăm hai lần. Tòa nhà nguy nga tráng lệ, đẹp nhất trong nội đình.
Tháng hai, ngày mùng 1 (Bính Thìn), Vua xuống chiếu đặt tên là Sùng Văn Viện. Phía tây xây thêm cửa phụ để Vua tiện đi lại. Toàn bộ sách cũ từ Tam Quán được dời đến lưu trữ tại đây. Dãy phía đông là sách của Chiêu Văn Quán, dãy phía nam là sách của Tập Hiền Quán, dãy phía tây có bốn kho, phân chia theo bốn bộ Kinh, Sử, Tử, Tập, là sách của Sử Quán. Sáu kho sách gồm bản chính và bản phụ tổng cộng tám mươi ngàn quyển, văn hóa trong phủ nhờ thế mà rực rỡ thay đổi.
[16] Vua đến phủ xứ của Trịnh Quốc Công chúa, ban cho Phò mã đô úy Vương Thừa Diễn mười ngàn lạng bạc, năm ngàn tấm gấm hoa, lại ban cho con trai ông là Thế Long một trăm lạng bạc, một trăm tấm lụa.
[17] Ngày Đinh Tỵ, Vua xuống chiếu: “Quan chức các châu huyện khi phê duyệt sổ sách do Nam Tào cấp, nếu dám bỏ sót một việc thì giáng một bậc, ba việc thì giáng một cấp. Dù trong khu vực quản hạt không có việc ấy, nhưng theo lệ phải ghi chép thì cũng phải ghi rõ là không có, để tiện kiểm tra.” Lời tâu của Phán sử bộ Nam Tào Đổng Thuần được chấp thuận.
(Thuần, được phụ chép trong ‘Văn uyển truyện’, không rõ quê quán.)
[18] Ngày Quý Hợi, châu Tần báo có giặc Nhung xâm phạm biên giới, Trại sứ ba dương là Trần Khâm Thọ đem quân đồn trú đánh lui chúng.
[19] Các quan tâu: “Châu Xương hàng năm thu muối vượt mức quy định[3]một vạn tám nghìn năm trăm cân, vốn là do tri châu Lý Bội thời Khai Bảo tùy ý bóc lột, nhằm đạt thành tích cao, bãi bỏ tiền củi của các giếng muối, ngoài hạn mức hàng năm lại bắt dân trong khu vực nấu muối. Dân không quen việc này, rất khổ cực, dù phá sản cũng không thể trả nổi, nhiều người di cư sang quận khác, số hộ ngày càng giảm. Chuyển vận sứ báo lên. Nhưng khoản thu đã tích lũy nhiều năm không thể bãi bỏ ngay nên muốn chia đều cho các châu, tính vào tiền và gạo thuế hai lần nộp cho quan.” Vua nói: “Nếu thế, vẫn là một mối họa.” Ngày Giáp Tý, hạ chiếu bãi bỏ hết, riêng hai giếng cũ với hạn mức hai vạn bảy nghìn bảy trăm sáu mươi cân, vẫn bắt dân nấu muối.
[20] Ngày Bính Dần, Lục sự tham quân châu Từ là Từ Bích bị xử chém nơi chợ, do quản kho thóc của châu, nhận hối lộ của dân rồi miễn thuế đóng góp, cấp hư khoán cho họ. Việc phát giác, Bích và Nha hiệu Cao Quý đều bị xử tội, bè đảng đều bị đánh trượng và lưu đày đến nơi xấu ác.
[21] Ngày Tân Mùi, Vua đến Tây Lăng Cẩm viện, sai các quan cận thần xem máy dệt trong xưởng. Trở về, đến Sùng Văn viện xem sách, cho các Thân vương, Tể tướng tự do tra cứu, hỏi đáp. Lại triệu Lưu Sưởng, Lý Dục đến xem, Vua bảo Dục: “Nghe nói khanh ở Giang Nam rất ham đọc sách, trong này nhiều sách cũ là của khanh, gần đây còn đọc sách không?” Dục lạy tạ, được ban rượu ở trung đường, say rồi mới thôi.
[22] Ngày Quý Dậu, vì Ngô Việt vương Tiền Thục sắp đến, sai Tứ phương quán sứ Lương Hồi đến Hoài Tây đón và ủy lạo.
[23] Ngày Kỷ Mão, châu Tần báo dân Nhung cướp phá trại Quảng Hòa Nhương. Giám quân Nhiệm Đức Minh dẫn quân đánh lui, chém đầu vài chục tên Nhung đem bêu.
[24] Ngày Giáp Thân, hạ chiếu: “Người Nhung thuộc nội ở biên giới Tây Bắc thường mang hàng hóa, vải vóc đến châu Tần, Giai đổi lấy tiền đồng, mang ra ngoài biên giới nấu chảy đúc khí cụ. Từ nay nghiêm cấm việc này. Lại dân nào dám đưa lậu tiền đồng ra trăm quan trở lên, tùy mức mà xét tội.”
[25] Vào đầu năm Thái Bình Hưng Quốc, Vua ban chiếu sai ba vạn năm nghìn quân lính đào hồ, dẫn nước sông Kim Thủy đổ vào. Sau đó, Vua ngự đến nơi, ban thưởng cho mỗi người lính một ngàn tiền và một tấm vải, rồi đặt tên hồ là Kim Minh.
(Sách ‘Bản kỷ’ nói rằng tháng này bắt đầu đào hồ là sai, thực ra chỉ là bắt đầu ban tên mà thôi.)
[26] Tháng ba, ngày Kỷ Sửu, vì Ngô Việt vương Tiền Hoành sắp đến, Vua sai con trai ông là Trấn Hải, Trấn Đông tiết độ sứ Tiền Duy Tuấn đến châu Tống để đón.
[27] Khi mới bình định Giang Nam, Thái Tổ phong Chu Duy Giản làm Quốc tử bác sĩ.
Trước đây, Duy Giản từng có ý nguyện ẩn cư ở Chung Nam, nhưng vì không được toại nguyện, nên dâng biểu trình bày lại chí hướng cũ, xin từ chức, được cải làm Ngu bộ lang trung rồi về hưu. Duy Giản thực lòng không muốn như vậy, lại không có lộc nuôi thân, nên khi Vua lên ngôi, ông từ vùng đông nam đến triều đình xin vào yết kiến. Các quan cho rằng quan đã về hưu mà không có chiếu triệu thì không được phép xin gặp, nên Duy Giản đánh trống Đăng Văn, dâng biểu xin được ra làm quan.
Ngày Nhâm Thìn, Vua cho Duy Giản giữ lại chức cũ, nhưng giới sĩ phu khinh bỉ ông.
[28] Trung thư lệnh sử Tập Nguyên Cát ăn trộm ấn, giả mạo phát thư của cận thần, lấy 170 tấm lụa từ trạm dịch ở Lưỡng Chiết. Ngày Bính Thân, ông bị đánh chết bằng gậy.
[29] Châu Ninh báo rằng bộ tộc phiên đánh cướp biên giới, Tuần kiểm sứ Cảnh Nhân Tư đánh đuổi chúng.
[30] Điện trực Vũ Dụ cầm quân trấn thủ Hải Môn, nhưng tại nhiệm sở lại tham ô, nhũng lạm. Vua sai châu Dung điều tra sự việc, rồi Lĩnh Nam chuyển vận sứ Chu Vị đánh chết ông bằng gậy.
[31] Ngày Nhâm Dần, châu Tần báo rằng người Nhung đánh cướp trại Bát Lang, giết hại quan lại và dân chúng. Tuần kiểm sứ Lưu Sùng Nhượng dẫn quân trấn thủ đánh đuổi chúng, bắt sống thủ lĩnh Vương Ninh Châu, chém đầu để răn đe.
[32] Ngày Quý Mão, Điện tiền đô ngu hậu, Thái Ninh quân tiết độ sứ, được tặng chức Thị trung Lý Trọng Huân qua đời. Trọng Huân từng cùng Thái Tổ phụng sự Chu Thái Tổ, ông cẩn trọng, trung hậu, không kiểu cách, nên Thái Tổ rất coi trọng, trao quyền binh và không hề thay đổi suốt cuộc đời ông.
[33] Ngô Việt vương Tiền Thục lại trước đó sai Bình Giang tiết độ sứ Tôn Thừa Hữu vào kinh tâu việc, Vua đối đãi rất hậu.
Ngày Ất Tỵ, liền sai Thừa Hữu đốc suất các ty chuẩn bị lều trại đón tiếp Tiền Thục ở ngoại ô, lại sai Tề vương Triệu Đình Mỹ mở tiệc khoản đãi Tiền Thục ở vườn Nghênh Xuân.
Ngày Kỷ Dậu, Tiền Thục vào chầu ở điện Sùng Đức, được ban thưởng rất hậu, ngay hôm đó Vua lại mở tiệc ở điện Trường Xuân, các thuộc hạ của Tiền Thục như Thôi Nhân Ký, Hoàng Di Giản đều được dự tiệc.
[34] Châu Khánh tâu rằng Tri châu Mộ Dung Đức Phong đánh bại người Nhung thuộc tộc Hạt Dụ Lặc, bắt sống và thu được rất nhiều. Đức Phong là con của Diên Chiêu, ở châu Khánh tổng cộng chín năm, trị dân bằng sự nghiêm cẩn và yên tĩnh, dân biên giới được yên ổn.
[35] Châu Tần đô tuần kiểm sứ Điền Nhân Lãng tập kích giết hơn nghìn người bộ tộc Phiên, đốt hơn hai nghìn lều trại, thu được hơn năm trăm mười con ngựa, ba nghìn con trâu dê.
(Theo bản khác của sách ‘Thực lục’, việc này xảy ra ngày 23 tháng 3, đến cuối tháng 4 mới tấu về kinh, nên được chép vào cuối tháng 3. ‘Bản kỷ’ chép vào cuối tháng 6, nay không theo.)
[36] Ngày Mậu Thân, phong Nhàn cứu sứ, Cáp môn chi hậu Trần Tòng Tín làm Tả vệ tướng quân, sung chức Xu mật viện thừa chỉ; Hàn lâm sứ Trình Đức Huyền làm Đông thượng cáp môn sứ kiêm Hàn lâm ty công sự; Ngự trù phó sứ Vương Diên Đức làm Ngự trù sứ, Cung phụng quan Kiều Bân (Bân, không rõ lai lịch) làm phó; Quân khí khố phó sứ Trần Tán làm Tây lăng cẩm sứ, Cung phụng quan Trương Dịch (Dịch, không rõ lai lịch), Phụ thành Vương Kế Thăng cùng làm Quân khí khố phó sứ; Triệu Tuấn (Tuấn, không rõ lai lịch) làm An bí khố phó sứ; Huệ Diên Chân (Diên Chân, không rõ lai lịch) làm Cung tiễn khố phó sứ; người Đại danh Sài Vũ Tích làm Hàn lâm phó sứ; người Thanh Trì Nhị Đức Siêu làm Tửu phường phó sứ.
Từ Trần Tòng Tín trở xuống đều từng phục vụ ở phủ đệ các phiên vương, nhờ ân cũ mà được thăng chức.
[37] Tháng tư mùa hạ, ngày mùng một Ất Mão, Vua triệu vị đạo sĩ Hoa Sơn Đinh Thiếu Vi ở đất Chân Nguyên đến triều đình. Thiếu Vi giỏi phép dưỡng khí, tuổi đã hơn trăm, ẩn cư tại Hoa Đồng cốc, cùng Trần Đoàn nổi tiếng ngang nhau. Đoàn cũng là người Chân Nguyên, nhưng Thiếu Vi chí hướng thanh cao, chuyên tâm theo đạo nghiệp, còn Đoàn thích rượu chè phóng túng, tuy ở gần nhau nhưng chưa từng qua lại. Thiếu Vi dâng kim đan, cự thắng, nam chi, huyền chi…, Vua lưu lại mấy tháng rồi cho về.
(Việc Thiếu Vi dâng kim đan, cự thắng… xảy ra vào tháng chín năm thứ tư khi ông lại vào triều, nay ghi chung vào đây.)
[38] Ngày Bính Thìn, ra lệnh từ tháng hai đến tháng chín dân chúng không được bắt cá, chim, ai vi phạm sẽ bị xử phạt nặng.
(Giống với chiếu thư tháng hai năm Kiến Long thứ hai, nhưng khác ở chỗ xử phạt.)
[39] Ngày Mậu Ngọ, Tuần kiểm Tần, Lũng Châu Chu Thừa Tấn tâu rằng, tám trăm kỵ binh rợ đột kích trại Cung Môn, ông dẫn quân đánh đuổi, và chém chín tên quân không tuân lệnh ngay tại biên giới.
[40] Ngày Nhâm Tuất, lại mở yến tiệc đãi Ngô Việt Vương ở điện Sùng Đức.
[41] Ngày Canh Ngọ, Vua đến Tây Nhiễm viện, ban y phục, tiền bạch cho thợ thuyền.
[42] Ngày Giáp Tuất, ra chiếu chia Ty chuyển vận Kinh Tây thành hai, các châu Mạnh, Hoạt, Vệ, Trần, Dĩnh, Hứa, Thái, Nhữ do Chuyển vận sứ Trình Năng quản lý; các châu Tương, Quân, Phòng, Phục, Dĩnh, Kim, Tùy, An, Đặng, Đường cùng quân Tín Dương do Phó sứ Triệu Tải quản lý.
[43] Ngày Ất Hợi, bắt đầu đặt chức Chuyển vận phán quan ở các đạo.
[44] Ngày Bính Tý, đổi châu Giám Lĩnh Nam thành châu Kiêm, sau đó bãi bỏ.
[45] Ngày Kỷ Mão, tiết độ sứ Bình Hải là Trần Hồng Tiến dùng kế của mạc liêu là Lưu Xương Ngôn người Nam An, dâng biểu hiến hai châu Chương, Tuyền dưới quyền quản lý, được 14 huyện, 151.978 hộ, 18.727 binh[4].
(Ngày 25 tháng 4 năm Kỷ Mão dùng kế mạc liêu, chép theo ‘Đại Định lục’, chi tiết chưa rõ.)
[46] Ngày Canh Thìn, châu Hoài báo sông vỡ ở huyện Hoạch Gia.
[47] Vua đến phía nam kinh thành xem gặt lúa mì.
[48] Ngày Tân Tỵ, chém thị ngự sử Triệu Thừa Tự, vì khi giám sát việc thu thuế ở châu Trịnh, đã thông đồng với lại viên tham ô tiền công khổng lồ. Có người tố cáo, Vua sai tra xét, xác minh sự thật, các quan cho rằng theo luật nên xử giảo, nhưng Vua đặc cách ra lệnh chém đầu, cùng 7 lại viên đều bị xử tử ở chợ. Lại xuống chiếu cho các đạo chuyển vận sứ ban bố khắp châu huyện để răn đe các quan lại, treo ở tường nơi làm việc.
[49] Ngày Quý Mùi, cho Trần Hồng Tiến làm tiết độ sứ Vũ Ninh, đồng bình chương sự, con trai của Hồng Tiến là Trần Văn Hạo, trước làm thứ sử châu Chương, được bổ làm thứ sử châu Phòng; Trần Văn Húc, trước làm thứ sử châu Thuận, được bổ làm thứ sử châu Đăng. Sau đó lại cho phó tiết độ sứ Bình Hải là Trần Văn Hiển làm đoàn luyện sứ châu Thông, vẫn coi việc ở châu Tuyền; đô chỉ huy sứ nha nội châu Tuyền là Trần Văn Nghĩ được bổ làm thứ sử châu Trừ[5], vẫn coi việc ở châu Chương.
(Việc bổ nhiệm Văn Hiển, Văn Nghĩ vào ngày Mậu Tý, nay hợp lại chép.)
[50] Ngày mùng 1 tháng 5, năm Ất Dậu, Vua ngự tại điện Càn Nguyên nhận triều. Ban ân xá cho hai châu Chương, Tuyền, miễn thuế 1 năm.
[51] Ban đầu, Ngô Việt vương Tiền Thục chuẩn bị vào triều, đem hết của cải trong phủ chở theo, chia làm năm mươi lần tiến cống, gồm tê giác, ngà voi, gấm vóc, vàng bạc, châu báu, trà, bông và các vật dụng vương quyền, trị giá hơn mấy vạn. Thục ngầm muốn phục quốc, nên tăng cống phẩm để làm vừa lòng triều đình. Thừa tướng Lư Đa Tốn khuyên nhà Vua giữ Thục lại, không cho về.
Suốt hơn ba mươi lần tiến cống, vẫn không được chỉ dụ. Đến khi Trần Hồng Tiến dâng đất, Thục sợ hãi, bèn đăng ký binh khí quốc gia dâng lên. Hôm ấy, Thục lại dâng biểu xin bãi bỏ tước vị Ngô Việt quốc, từ chức chức Đại nguyên súy thiên hạ binh mã, bỏ lệnh chiếu thư không xưng tên, và xin về quê, nhưng Vua không đồng ý. Thục không biết phải làm sao, Thôi Nhân Ký nói: “Ý triều đình đã rõ, nếu Đại vương không nhanh chóng dâng đất, họa ắt sẽ đến.” Tả hữu của Thục đều nói không nên, Nhân Ký lớn tiếng nói: “Nay chúng ta đã nằm trong tay người, cách quốc gia nghìn dặm, chỉ có cánh mới bay được.” Thục một mình cùng Nhân Ký quyết định, rồi dâng biểu xin hiến mười ba châu và một quân dưới quyền.
Vua ngự tại điện Càn Nguyên[6] để tiếp nhận triều kiến, theo nghi lễ mùa đông. Thục lui triều, tướng sĩ và thuộc hạ mới biết, hơn nghìn người đều khóc lóc nói: “Vua chúng ta không về nữa rồi.” Tổng cộng thu được tám mươi sáu huyện, năm mươi lăm vạn sáu mươi tám hộ, mười một vạn năm nghìn ba mươi sáu binh lính.
[52] Ngày Bính Tuất, ban chiếu cách chức Kinh Hồ Nam lộ chuyển vận sứ Thôi Hiến, tước ba chức, phó sứ Hứa Kỳ bị xóa sổ, trục xuất về làm dân, tịch thu năm mươi vạn tiền đã ban trước đó. Nguyên nhân là do họ yếu kém, đối diện việc còn do dự không quyết đoán, tra xét thực tế nên có lệnh này. Hiến người Tương Châu.
[53] Ban lệnh cho Khảo công lang trung Phạm Mân tạm quyền xử lý các việc ở các châu thuộc lưỡng Chiết; Tả Tán thiện đại phu Hầu Đào, Trứ tác tá lang Thôi Kế Tông kiểm duyệt số tiền và lụa ở các châu lưỡng Chiết; Hình bộ lang trung Dương Khắc Nhượng được bổ nhiệm làm Chuyển vận sứ lộ Tây Nam lưỡng Chiết, Tông chính thừa Triệu Tề làm phó; Từ bộ lang trung Lưu Bảo Huân người Hà Nam được bổ nhiệm làm Chuyển vận sứ lộ Đông Bắc lưỡng Chiết, Hữu Thập di Trịnh Tương[7] làm phó; Hữu Vệ tướng quân Hầu Uân người Thái Nguyên đi kiểm tra kho lương và cỏ khô dự trữ ở các châu lưỡng Chiết; Tả Tán thiện đại phu Mạnh Di Tôn làm Thông phán xử lý các việc ở lưỡng Chiết.
Lúc đầu, Mân từ Hoài Nam trở về triều, Vua nói: “Giữa Giang, Hoài, việc vận chuyển liên tục, làm đầy kho lẫm của ta, đó là công của khanh.” Mân đáp: “Vào thời Trinh Nguyên nhà Đường, Hoài Nam mỗi năm chỉ nộp mười vạn thạch gạo, nay mỗi năm vận chuyển gấp đôi thời Trinh Nguyên.” Vua nói: “Ta biết khanh có công lao.” Định dùng Mân làm Hàn Lâm học sĩ, nhưng Lư Đa Tốn nói Hàng Châu vừa thu phục, không có Mân thì không thể trị được. Vua bèn bảo Mân: “Khanh hãy đi thay ta, rồi ta sẽ triệu khanh về.”
Họ Tiền chiếm cứ Lưỡng Chiết hơn tám mươi năm, bên ngoài cống nạp nhiều, bên trong sống xa xỉ, đất hẹp dân đông, thuế má nặng nề, từ gà cá đến rau cỏ, thứ gì cũng thu, người thiếu một đấu gạo cũng bị đánh bằng roi. Mỗi lần phạt một người, các quan lại cầm sổ sách đứng ở sân[8], đọc từng sổ, căn cứ số thiếu mà định số roi, đánh xong lại đọc sổ khác để đánh tiếp, đến khi hết sổ mới thôi. Người ít thì bị vài chục roi, người nhiều đến hơn năm trăm roi. Đến khi nước bị diệt, dân chúng khổ vì chính sách đó. Mân đến nơi, liền dâng sớ xin bãi bỏ, Vua chuẩn y.
[54] Ngày Đinh Hợi, dời phong Tiền Thục làm Hoài Hải quốc vương, phong con trai ông là Trấn Hải Trấn Đông Tiết độ sứ Duy Tuấn làm Hoài Nam Tiết độ sứ, Phụng Quốc Tiết độ sứ Duy Trị làm Trấn Quốc Tiết độ sứ, Bình Giang Tiết độ sứ Tôn Thừa Hữu làm Thái Ninh Tiết độ sứ, Uy Vũ Tiết độ sứ Thẩm Thừa Lễ làm An Hoá Tiết độ sứ, Chiết Giang Tây đạo Diêm thiết phó sứ Thôi Nhân Ký làm Hoài Nam Tiết độ phó sứ.
(Lệnh bổ nhiệm Nhân Ký vào ngày Mậu Thân, nay ghi chung tại đây.)
[55] Ngày Mậu Tý, ban lệnh ân xá cho các châu trong khu vực Lưỡng Chiết, miễn thuế một năm.
[56] Ngày Quý Tỵ, cử Tả Bổ Khuyết Lý Cát đi sứ Khiết Đan, Thông Sự Xá Nhân Tiết Văn Bảo làm phó.
(Theo truyện Vương Văn Bảo, e rằng đây không phải là Tiết, nhưng Vương cũng không làm Thông Sự Xá Nhân, cần tra cứu thêm.)
[57] Ngày Ất Mùi, nước Chiêm Thành sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương.
[58] Ngày Nhâm Dần, Hạ Châu báo việc Tiết độ sứ Định Nan Lý Khắc Duệ mất, con ông là Nha nội Chỉ huy sứ Lý Kế Quân tạm quyền xử lý châu sự. Đến ngày Ất Tỵ, phong Lý Kế Quân làm Lưu hậu Định Nan.
[59] Điện tiền Đô chỉ huy sứ, Trấn Ninh Tiết độ sứ Dương Tín mới nắm binh quyền thì đột nhiên bị mất tiếng, không nói được. Đến khi ốm nặng, bỗng nhiên giọng nói trở lại. Vua vội đến tận phủ thăm hỏi. Dương Tức kể lại việc gặp gỡ, nước mắt tuôn tràn, lại cúi đầu xin nhà Vua củng cố phòng bị biên giới. Vua an ủi ông và ban thưởng rất hậu. Hôm sau, Dương Tín qua đời, được ban chiếu ưu đãi truy tặng chức Thị trung.
[60] Trước kia, Phán quan Tiết độ sứ Tần Châu Lý Nhược Ngu có con trai tên Lý Phi Hùng, tính tình hung hiểm, không có đức hạnh, bị gia đình ruồng bỏ, thường ngao du ở kinh thành, Ngụy, Bác, cùng với lũ du đãng xấu xa rượu chè cờ bạc. Vì cha làm quan ở Tần Châu, Lý Phi Hùng biết rõ tình hình kho tàng, quân lương, địa hình hiểm yếu và số lượng binh lính ở đó. Có người tên là Trương Quý Anh, làm chức Uý ở huyện Chu Chất, Phượng Tường, là cha vợ của Lý Phi Hùng.
Từ kinh thành, Lý Phi Hùng đến thăm Trương Quý Anh, lén cưỡi ngựa của ông ta, giả làm sứ giả, đêm đến chuồng ngựa, gọi lính gác đòi ngựa. Người lính cầm đuốc ra xem, Lý Phi Hùng lại đưa ra chiếc tua ngựa mua riêng để thị oai, người lính không phân biệt được nên liền trao ngựa. Lý Phi Hùng bảo một tên lính đi hướng dẫn, rồi giả mệnh Vua lấy danh nghĩa tuần tra biên giới, bắt giữ Điện trực tuần dịch Diêu Thừa Toại, đến Lũng Châu bắt giám quân Cung phụng quan Vương Thủ Định, đến huyện Ngô Sơn bắt Huyện uý Lư Tán, đều bắt họ đi theo.
Lúc bấy giờ, người Nhung ở Tần Châu nổi loạn, quấy nhiễu. Đô Tuần kiểm sứ Chu Thừa Tấn cùng với Điền Nhân Lãng (Nhân Lãng cũng là Đô Tuần kiểm sứ Tần Châu, việc này xem cuối tháng ba.), Lưu Văn Dụ (Văn Dụ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ hai, với chức Phó sứ Nội Cung Tiễn Khố, ra làm Tuần kiểm Tần, Lũng.), Vương Sân (Sân trước đây làm Đông Đầu Cung phụng quan, thăng chức Cáp môn chi hậu, hiện không rõ chức vụ.), Lương Sùng Tán (Sùng Tán, không thấy ghi chép.), Vi Thao, Mã Tri Tiết (Tri Tiết trước đây làm Tây Đầu Cung phụng quan.) đều nhận chiếu chỉ đóng quân ở huyện Thanh Thủy. Vào ngày Canh Thìn tháng tư, Phi Hùng đến Thanh Thủy, giả mạo chiếu chỉ bắt trói tất cả. Thừa Tấn và những người khác thấy Diêu Thừa Toại cùng vài người đi tới, không hay biết là kế giả, chỉ có Nhân Lãng khóc lóc xin xem chiếu chỉ. Phi Hùng nổi giận quát: “Ta nhận mật chỉ, vì các ngươi do dự không tuân lệnh, lệnh tru diệt hết bọn ngươi. Há chẳng nghe chuyện Phong Châu giết Lý Hạc sao, chiếu chỉ làm sao có thể xem được?”
Trước đó, khi Vua lên ngôi, sai người thân tín đến các đạo xem xét quan lại tốt xấu, bí mật tâu lên. Sứ giả Lĩnh Nam tâu rằng Tri Phong Châu Lý Hạc không tuân phép, vu cáo quân lại mưu phản, Vua ra lệnh giết mà không tra hỏi, nên Phi Hùng mới lấy việc đó làm lời đe dọa. Định đưa Thừa Tấn và những người khác đến Tần Châu xử tử, nhân đó mưu cướp binh lính canh giữ, chiếm thành làm loạn.
Phi Hùng vốn là kẻ giả danh xưng chế, tự nhận là cận thần từ thời Thượng ở Nam phủ, gặp Lưu Văn Dụ kêu khóc bảo Phi Hùng rằng: “Tôi cũng từng phụng sự ở phủ Tấn, sứ giả nỡ lòng nào không cứu giúp tôi sao?”
Phi Hùng bèn đuổi tả hữu, bảo Văn Dụ: “Ngươi có thể cùng ta hưởng phú quý không?” Văn Dụ biết hắn gian trá, giả vờ đồng ý, Phi Hùng liền cởi trói cho ông. Văn Dụ thúc ngựa tiến lên, nói thầm vào tai Điền Nhân Lãng, Nhân Lãng liền giả vờ ngã ngựa như ngất xỉu. Phi Hùng cùng bọn tùy tùng đến xem, lại cởi trói cho ông. Nhân Lãng bất ngờ vùng dậy đánh Phi Hùng, cùng với Văn Dụ và mọi người bắt giữ hắn. Phi Hùng vẫn kêu lên: “Điền Nhân Lãng mưu phản, giết sứ giả!” Sau đó, hắn bị giam vào ngục Tần châu, bị tra hỏi và khai ra hết sự tình.
Có chiếu tru di tam tộc, bắt luôn những kẻ từng thân thiện với Phi Hùng như Hà Đại Cử và mấy người khác, đều xử tử, cùng với Diêu Thừa Toại đều bị chém ngang lưng ở chợ Tần châu. Những người trước đã giao ngựa và phòng ngựa cho Phi Hùng cũng bị tru di tộc. Văn Dụ là người Bảo Tắc.
(Chuyện Mã Tri Tiết chép rằng: Tri Tiết trước đã nhận ra sự gian trá của Phi Hùng, bèn nói với Văn Dụ, khác với chuyện Văn Dụ, cần xem xét lại.)
[61] Tháng đó, ngày Mậu Thân, lấy việc Phi Hùng ra bố cáo thiên hạ, lệnh rằng: “Từ nay các con em trong gia đình quan lại trong ngoài, ai có lòng dữ tợn, hành vi không giữ phép tắc, dù đã nhiều lần khuyên răn mà vẫn không chịu sửa đổi, thì cho phép tôn trưởng báo lên châu huyện, giải giao về triều đình, sẽ phối lưu đến nơi xa xôi hiểm nghèo. Ai bao che không báo, sẽ liên đới bị tội từ bậc ‘Công’ trở lên.”
[62] Tháng sáu, ngày Mậu Thìn, ra chiếu: “Từ nay, những người đi công vụ bằng ngựa trạm đều được cấp bài bạc”. Trước đây, từ thời Ngũ đại, mọi việc còn sơ sài, những người đi sứ ngoài chỉ do Xu mật viện cấp giấy tờ. Đến đây, vì việc Phi Hùng, mới khôi phục lại chế độ cũ.
[63] Vua chú trọng trị nước từ gốc, nghiêm trị tham quan. Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu rằng từ ngày Ất Mão tháng 10 năm Thái Bình Hưng Quốc thứ nhất về sau, các quan Kinh triều[9], Mạc chức, Châu huyện nếu phạm tội tham nhũng bị cách chức và lưu đày đến các châu, dù gặp ân xá cũng không được tha về, nếu đã tha về thì các cơ quan không được bổ nhiệm lại.
[64] Ngày Nhâm Thân, châu Thiều tâu rằng theo chiếu tìm hiểu sự tích của tể tướng nhà Đường là Trương Cửu Linh, đã tìm được bức họa chân dung và 9 quyển văn tập, dâng lên triều đình.
[65] Ngày Ất Hợi, châu Tống tâu rằng sông Biện vỡ đê ở huyện Ninh Lăng, Vua liền hạ lệnh huy động 4.500 dân đinh từ các châu Tống, Bạc đến đắp đê, sai Tây thượng các môn sứ Quách Thủ Văn trông coi việc này. Lại huy động 3.200 dân đinh trong vùng kinh đô để đắp chỗ sông Biện bị vỡ, giao cho Phán tứ phương quán sự Lương Hoảng đốc thúc.
[66] Ngày Bính Tý, sai tăng lữ ngoại quốc là Man Thù Thất Lợi về nước. Theo pháp tục Thiên Trúc, khi Vua chết, thái tử kế vị, các con khác đều xuất gia làm tăng, không ở trong nước. Man Thù Thất Lợi vốn là con trai của Vua Trung Ấn Độ.
Thời Khai Bảo, ông đến Trung Quốc, Thái Tổ sai cho ở tại chùa Tướng Quốc. Ông giữ giới luật nghiêm cẩn, người kinh đô quy hướng, cúng dường tiền của đầy nhà. Các tăng chúng đố kỵ, nhân ông không biết tiếng Hoa, bèn giả mạo tờ tấu xin cho ông về nước. Khi được chấp thuận, ông mới kinh ngạc và hối hận, các tăng đem ý chỉ của Vua khuyên giải, ông đành phải ở lại thêm vài tháng rồi đi. Ông tự nói sẽ đến Nam Hải, đi theo thương thuyền, nhưng cuối cùng không rõ kết cục ra sao.
(Thực lục chép rằng ông không biết tiếng Đường, đây là theo lời văn cũ của sử sách trước. Vua Tống thống trị thiên hạ, sao còn liên quan đến Đường? Nay đổi thành “tiếng Hoa”).
[67] Vua hạ lệnh rằng các huyện ở Quảng Nam có dưới 500 hộ chỉ đặt một chức Chủ bạ, kiêm nhiệm chức Lệnh và Úy.
[68] Tháng 7 mùa thu, ngày Ất Dậu, đầu tháng, phong Trấn Vũ Tiết Độ Sứ, Điện Tiền Đô Ngu Hậu Bạch Tiến Siêu làm Điện Tiền Phó Đô Chỉ Huy Sứ. Tiến Siêu quê ở Mã Ấp, ban đầu không có chiến công nổi bật, chỉ nhờ cẩn thận, kín đáo, biết chăm lo cho quân sĩ nên được làm đến chức tướng suý.
[69] Ban tặng Vũ Ninh Tiết độ sứ Trần Hồng Tiến một vạn lạng bạc, cho mua nhà.
[70] Chiếu rằng: “Lễ Thất tịch là ngày lành, đã ghi trong điển lệ. Nay tập tục phần nhiều dùng ngày mùng 6, không phải theo chế độ cũ. Nên khôi phục lại ngày mùng 7.”
[71] Ngày Nhâm Thìn, tặng chức Thái sư, Ngô vương Lý Dục mất, Vua cho nghỉ triều ba ngày.
Trước đây, con của Trịnh Ngạn Hoa là Văn Bảo, làm Hiệu thư lang dưới triều Lý Dục, khi quy triều, không được bổ nhiệm lại chức cũ. Lý Dục lúc đó bị giam giữ, Văn Bảo muốn gặp một lần, sợ người canh ngăn trở, bèn khoác áo tơi đội nón giả làm ngư phủ, được vào rồi, nhân đó khuyên Lý Dục nên cẩn trọng, vâng theo ý Vua khoan hồng, đừng lo ngại chuyện khác. Người bàn luận đều khen lòng trung của ông.
[72] Trước đó, Lý Phi Hùng thất bại, bắt giữ thân đảng họ Lý. Hữu Tán Thiện đại phu Lý Nhược Chuyết, vì cùng họ với cha của Phi Hùng là Nhược Ngu, lại cùng tên, nên Vua nghi là anh em, khi tra hỏi, mới biết là người thân quen của Nhược Ngu, không phải thân thích, lại không biết mưu kế, nên được tha tội chết. Ngày Đinh Dậu, bị tước bỏ quan tịch, lưu đày đến đảo Sa Môn. Nhược Chuyết là người Vạn Niên.
[73] Nhân dịp Trung nguyên tiết, Vua sai quan đốc đặt núi đèn trước phủ đệ của Hoài Hải vương Ti Thích, bày nhạc múa để tỏ lòng sủng ái.
(Giang Hưu Phục trong sách ‘Lam chí’ chép việc dâng tiền mua đèn, tức là việc này. Hưu Phục nhầm cho là hội thượng nguyên, đã ghi vào năm Càn Đức thứ 5.)
[74] Ngày Đinh Mùi, lấy châu Lư Châu làm quân Vô Vi.
[75] Ngày Canh Tuất, đổi tên cửa Minh Đức thành Đan Phượng môn.
[76] Trung thư lệnh sử Lý Tri Cổ nhận hối lộ, tự ý sửa luật của hình bộ, tha tội nhân, bị tố cáo, khi tra xét đúng sự thật, ngày Nhâm Tý, bị đánh bằng gậy đến chết. Lại phòng hình Tôn Phủ bị cách chức.
[77] Ngày mùng 1 tháng 8, Quý Sửu, Vua hạ chiếu làm lễ tế ở Nam giao vào ngày Đông chí.
[78] Ngày Bính Thìn, Vua hạ chiếu các ty chuyển vận ở các đạo chỉ huy các châu phụ thuộc, từ ngày mùng 1 tháng 8 trở đi, quan dân phạm tội đều xử theo pháp luật, không nằm trong phạm vi ân xá.
[79] Vua hạ chiếu cho hai châu Chiết phát thân thích từ hàng Ti ma trở lên của Hoài Hải vương Ti Thích và quan lại trong khu vực đều về kinh đô, tất cả 1044 thuyền, trên đường đi đều có quân hộ tống.
[80] Ngày Đinh Mão, Trứ tác tá lang Lư Bội bị xử tử tại chợ. Bội giám sát việc nấu rượu ở châu Thăng, Chuyển vận sứ Phàn Nhược Băng tố cáo hắn tham ô gian lận, Vua hạ chiếu tra xét, hắn đã nhận tội, tổng số tiền tham nhũng là 190 quan[10], nên bị xử theo pháp luật.
[81] Ngày Tân Mùi, bộ tộc man ở châu Di là Nhiệm Lãng Chính cùng người khác đến cống nạp sản vật địa phương.
[82] Trước đó, Hoài Hải vương Tiền Thục vào triều, Vua sai con trai ông là Trấn quốc Tiết độ sứ Tiền Duy Trị tạm quản lý việc nước Ngô Việt. Một đêm, xảy ra cháy ở chuồng ngựa, Duy Trị đem quân lên cao quan sát, sai mười mấy người thân tín cầm gươm ra lệnh: “Ai dám ngoái lại sẽ bị chém”, chẳng bao lâu lửa tắt. Có người trong họ vợ, vốn là thuộc hạ trong quân, ỷ thế thân quen mà phạm pháp, Duy Trị ra lệnh đánh roi vào lưng ở cổng phủ.
Sau đó, Duy Trị đem toàn bộ sổ sách quân dân, chìa khóa kho tàng trao cho Tri châu Hàng Châu Phạm Mân, rồi cùng các em là Duy Diễn, Duy Hạo lên kinh đô. Vua sai nội thị chuẩn bị lễ đón rước ở ngoại ô. Ngày Nhâm Thân, họ được vào chầu ở điện Trường Xuân, được ban thưởng y phục, ngựa, đồ dùng và lụa.
(Việc Duy Trị từ chức Phụng quốc chuyển sang Trấn quốc là sự việc tháng năm, lúc này chưa vào triều. Bản truyện chép là sau khi vào triều, sai lầm, nay không theo.)
[83] Ngày Quý Dậu, Chiêm sự phủ thừa Từ Thiên bị đánh chết bằng roi, vì ông ta khi đốc thúc việc vận chuyển lương thực ở châu Bộc đã nhận hối lộ vi phạm pháp luật, bị lại dịch tố cáo, tra xét thấy đúng nên bị xử.
[84] Ngày Giáp Tuất, quần thần dâng biểu xin ban tôn hiệu là “Ứng vận thống thiên thánh minh văn vũ”, dâng ba lần, Vua mới chấp nhận.
[85] Trước đó, Vua đã hạ chiếu tạm dừng việc thi cử, nhưng lại lo có người còn vướng lại trong trường thi, nên hạ chiếu cho các châu: những người đã đỗ ở kỳ thi năm ngoái, ngoại trừ các môn Tam Lễ, Tam Truyền, Học Cứu, còn lại đều phải đến bộ Lễ vào mùa thu.
[86] Tháng 9, ngày Giáp Thân (mùng 1), Vua ngự tại điện Giảng Vũ, tổ chức kỳ thi phúc hạch cho những người đỗ kỳ thi trước. Tiến sĩ được thêm một bài luận, từ đó thường lấy ba đề làm chuẩn. Lấy đỗ 74 người, đứng đầu là Hồ Đản người Bột Hải. Ngày Ất Dậu, lấy đỗ 70 người ở các khoa khác, đều được ban đỗ đệ tử, bắt đầu tổ chức yến tiệc tại vườn Nghênh Xuân, bổ nhiệm quan chức theo chế độ năm thứ hai. Theo lệ cũ, bộ Lễ chỉ công bố kết quả vào mùa xuân, nay thi vào mùa thu, là điều chưa từng có.
[87] Xuống chiếu từ nay, tại Quảng Văn Quán và các châu phủ, kỳ thi Tiến sĩ về luật phú đều phải dùng vần theo quy tắc bình trắc.
[88] Ngày Kỷ Hợi, đổi tên quân Y Cẩm ở Hàng Châu thành quân Thuận Hóa.
[89] Ngày Nhâm Tý, bổ nhiệm Trương Độn (theo ‘Tống sử’, quyển 431, phụ truyện của Tân Văn Duyệt ghi là “Trương Độn”, còn quyển 4, bản kỷ Thái Tông ghi là “Trương Độn”) làm Chủ bạ huyện Tương Ấp, phủ Khai Phong, và Trương Văn Đán làm Chủ bạ huyện Bộc Dương, châu Thiền. Khi Vua còn hàn vi, từng cùng những người này học tập tại trường làng. Đến nay, họ tự mình đến kinh xin việc, nên được bổ nhiệm.
[90] Tháng 10 mùa đông, ngày Quý Sửu (mùng 1), Khiết Đan cử Thái bộc khanh Gia Luật Hài Lý và Phó sứ kho trà rượu Vương Sâm đến chúc mừng ngày lễ Can Minh.
[91] Ngày Giáp Dần, Vua Cao Ly là Vương Trụ cử sứ đến cống phương vật và vũ khí.
[92] Ngày Canh Thân, Vua đến phủ của Vũ Công quận vương Đức Chiêu, rồi ghé thăm phủ của Tề Vương Đình Mỹ. Ban cho Đình Mỹ một vạn lạng bạc và một vạn tấm lụa. Đức Chiêu và Hưng Nguyên doãn Đức Phương cũng được ban thưởng có phân biệt. Khi trở về, Vua triệu tập các cận thần và sứ Khiết Đan dự yến trong vườn.
[93] Ty nông tự thừa Khổng Nghi, sau khi về từ huyện Tinh Tử, dâng lên các bài văn của mình. Vua triệu kiến, hỏi về hậu duệ họ Khổng, rồi thăng ông làm Hữu tán thiện đại phu, tập phong tước Văn Tuyên Công.
Ngày Tân Dậu, xuống chiếu miễn thuế cho gia đình tập phong Văn Tuyên Công. Trước đây, các triều đại đều cho rằng hậu duệ của Thánh nhân không phải đóng thuế, nhưng đến thời Hiển Đức nhà Chu, sai sứ điều chỉnh ruộng đất, nên họ bị xếp vào hàng biên hộ. Nay họ Khổng kiện lên châu, châu tâu lên, Vua đặc cách miễn thuế cho họ.
(Việc Khổng Nghi tập phong được ghi trong ‘Hội yếu’ vào tháng 10 năm thứ 3, trước khi miễn thuế, nay ghi chép kèm.)
[94] Ngày Kỷ Tỵ, châu Hoạt tâu rằng sông ở huyện Linh Hà vỡ đê, vừa mới đắp lại bị vỡ tiếp. Vua sai Tây thượng các môn sứ Quách Thủ Văn cùng những người khác dẫn quân đắp đê.
(Việc Thủ Văn giám sát công trình này diễn ra vào tháng chạp, nay gộp lại chép vào đây. Thủ Văn cùng Vương Sân, Thạch Chấn giám sát, nay chỉ chép tên người đứng đầu.)
[95] Ngày Canh Ngọ, Vua đi săn ở vùng ngoại ô.
[96] Dân châu Lễ có người tố cáo bị cướp đoạt tài sản nhưng không đúng sự thật, Thứ sử Triệu Ngạn Thao bèn giết chết người ấy, mổ lấy tim gan. Gia đình nạn nhân đến triều đình khiếu kiện. Ngày Quý Dậu, Ngạn Thao bị xử đánh bằng gậy, lưu đày ra Hoài Tây và bị giam cầm.
[97] Sứ giả nước Khiết Đan là Gia Luật Hài Lý từ biệt về nước, Vua sai Cung phụng quan, Các môn chi hậu Vương Sân đưa đến biên giới. Đây là lần đầu tiên có sứ giả đưa tiễn.
[98] Ngày Ất Hợi, ba tên lính Kiêu Tiệp là Từ Tố bị chém vì tội vu cáo chỉ huy sứ Nhung Hi Ngạc âm mưu học tập thiên văn và những điềm gở không đúng sự thật. Vua ban cho Hi Ngạc áo tía, đai bạc, vàng lụa để an ủi.
[99] Hàng Châu đưa 81 người nhạc công cho Tiền Thục, Vua sai giao cho Giáo phường tập luyện, sau đó trả lại 36 người về Hàng Châu, còn 45 người ban cho Tiền Thục.
(Sách ‘Thực lục’ ghi rằng ngày Tân Tỵ, Vua sai hai châu Chiết đưa hơn 100 người nhạc công của Hoài Hải quốc vương là Mã An Quốc đến giao cho Giáo phường tập luyện, khác với bản truyện của Tiền Thục, nay theo bản truyện của Tiền Thục, nếu như ‘Thực lục’ ghi thì không đáng chép.)
[100] Nhà Vua mới lên ngôi, ngự giá đến kho Tả tàng, xem xét kho tàng tích trữ, nói với Thừa tướng rằng: “Vàng bạc chất đống như núi, dùng sao cho hết được? Tiên đế luôn lo lắng, bận tâm về việc chi tiêu, sao quá mức như vậy!” Tiết Cư Chính và các quan nghe lời nhà Vua đều vui mừng. Bèn chia kho Bắc tàng thuộc Tả tàng thành kho Nội tàng, và lấy kho Phong trang ở sau điện Giảng vũ thuộc vào đó, đổi tên kho Phong trang thành kho Cảnh phúc nội tàng.
(Việc lập kho Nội tàng, sách “Thực lục” không ghi chép. Xét: Sách “Chức quan chí”, “Thực hóa chí” và “Hội yếu” đều ghi là vào tháng 10 năm đó, nhân tiện ghi lại sự việc này.)
Ban đầu, Thái Tổ lập riêng kho Phong trang, từng bí mật nói với các cận thần rằng: “Họ Thạch nhà Tấn vì lợi ích riêng, đã cắt đất U, Kế để dâng cho Khiết Đan, khiến dân một vùng phải sống ngoài biên giới, Trẫm rất thương xót. Muốn đợi khi kho này tích lũy được 30 đến 50 vạn, sẽ sai sứ đến Khiết Đan thương nghị, nếu họ trả lại đất đai và dân chúng cho ta[11], thì ta sẽ dùng hết vàng bạc này để trả giá chuộc. Nếu họ không đồng ý, Trẫm sẽ dùng của cải tích trữ, chiêu mộ dũng sĩ, mưu việc đánh chiếm lại.” Nhưng chưa kịp thực hiện thì nhà Vua băng hà.
(Theo bút ký của Vương Tằng: Kho Bắc tàng thuộc Tả tàng chính là kho Phong trang, Thái Tông đổi tên thành kho Bắc tàng, sau lại đổi thành kho Nội tàng. Xét ra, kho Nội tàng thực chất là chia từ kho Bắc tàng thuộc Tả tàng, không phải là kho Phong trang, mà kho Phong trang được đổi tên thành kho Cảnh phúc nội tàng, thuộc vào kho Nội tàng, nghi là Vương Tằng nhầm lẫn. Kho Phong trang chỉ tích trữ số dư ngân sách hàng năm, làm sao trong mười mấy năm mà vàng bạc chất đống như núi được? Vàng bạc chất đống như núi, hẳn là ở kho Bắc tàng thuộc Tả tàng, vì của cải tích trữ từ các thế lực tiếm ngụy đều nhập vào Tả tàng, nên kho Bắc tàng chất đống vàng bạc là hợp lý. Vương Tằng nói của cải tích trữ từ các thế lực tiếm ngụy đều nhập vào kho Phong trang, chính do nhầm lẫn xem kho Bắc tàng chính là kho Phong trang vậy.
Lại xét sách “Đông Kinh ký” của Tống Mẫn Cầu nói: Đầu triều đại, lập kho Cảnh phúc nội tàng, đến năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 đổi tên thành kho Nội tàng, đối diện có kho Phong trang, năm Cảnh Đức thứ 4, ban tên là kho Tây tàng thuộc Nội tàng, còn có kho Cảnh phúc điện phụ thuộc. Mẫn Cầu cho rằng kho Nội tàng chính là kho Cảnh phúc, khác với ghi chép trong quốc sử, có thể Mẫn Cầu nhầm lẫn. Kho Phong trang được nói đến là kho được lập riêng từ kho Tân y thời Chân Tông, không phải kho Phong trang thời Thái Tổ như Vương Tằng ghi chép. Kho Cảnh phúc điện cũng thuộc Tả tàng, đã nói là riêng biệt, e rằng không phải là kho Cảnh phúc nội tàng mà Thái Tông đã đổi tên. Tuy nhiên, sách “Chức quan chí” ghi rằng kho Nội tàng nằm ngoài cửa Ngân Đài, còn có kho Tây tàng, kho Cảnh phúc điện phụ thuộc, tương đồng với ghi chép của Mẫn Cầu. Nay chỉ căn cứ theo sách “Thực hóa chí”, cần xem xét thêm.)
[101] Tháng 11, ngày Đinh Hợi, sai Cung phụng quan Cáp môn Chi hậu Ngô Nguyên Tải và Thái thường tự Thái chúc Vô Tân Cổ làm sứ sang chúc mừng Tết Khiết Đan. Nguyên Tải là con của Diên Tộ.
(Vô Tân Cổ chính là người từng khuyên Vương Khâm Nhược miễn trừ nợ cũ, cần xem xét thêm về quê quán của ông.)
[102] Ngày Ất Mùi, Vua thân hành tế lễ tại Thái miếu.
[103] Ngày Bính Thân, hợp tế Trời Đất ở Nam Giao. Vua ngự tại lầu Đan Phụng, ban đại xá. Lại nhận sách phong tôn hiệu tại điện Càn Nguyên. Từ khi khai quốc đến nay, các lễ tế Nam Giao bốn lần cùng lễ tế Cảm Sinh Đế, Hoàng Địa Kỳ và Thần Châu, tổng cộng bảy lễ, đều luân phiên dùng bốn vị tổ tiên phối hưởng. Khi Vua lên ngôi, chỉ dùng Tuyên Tổ và Thái Tổ thay nhau phối hưởng. Nay hợp tế Trời Đất, bắt đầu đưa Thái Tổ lên phối hưởng.
Điện trực Vương Thao dâng bài ca ngợi Nam Giao, Vua vui lòng, triệu đến hỏi: “Ngươi ở Giang Nam cùng ai ngang hàng?” Thao đáp: “Cùng Trương Kỵ.” Vua hỏi: “Kỵ nay làm chức gì?” Tả hữu tâu: “Thái tử Trung doãn.” Ngày Kỷ Dậu, liền phong Thao làm Thái tử Trung doãn.
[104] Lệnh cho Khai Phong phủ tìm những người sống nghĩa tình, có hành hiếu hạnh, tuổi từ tám mươi trở lên, để Vua thân gặp mặt.
[105] Trước đó, Cáp môn Chi hậu Vương Sân đi sứ Linh Châu và Thông Viễn quân trở về, tâu rằng quân của chủ soái phần nhiều hung hãn khó kiểm soát, e rằng về lâu sẽ sinh biến, xin thay thế toàn bộ. Vua bèn sai Sân điều động binh lính từ các quận trong nước đến thay. Binh lính ở biên giới nghe tin bị thay, nhiều người muốn ở lại, Sân phát hiện có kẻ chống đối, liền chém đầu răn đe, quân lính đều sợ hãi, sau đó đưa về.
(Sự việc này không thấy ghi trong ‘Thực lục’ và ‘Bản kỷ’, chỉ trong ‘Truyện của Sân’ có chép rằng ông đưa sứ Khiết Đan đến biên giới rồi về, tức là thực hiện việc này. Nay xét ‘Thực lục’, Sân đưa sứ Khiết Đan đến biên giới vào ngày Ất Hợi tháng 10 năm này, đến ngày Mậu Dần tháng 12 lại được lệnh cùng Quách Thủ Văn coi sóc việc đắp đê Linh Hà, vậy việc Sân đi về phía Tây có lẽ xảy ra vào khoảng tháng 11, nay phụ chép ở đây. ‘Truyện’ lại nói Sân trong một năm qua lại phía Tây nhiều lần, dâng nhiều kế sách, phần lớn được nghe theo. Việc “một năm” này có lẽ bao gồm cả thời gian Sân ở Thanh Thủy.)
[106] Ba ty Diêm thiết, Hộ bộ, Độ chi phụ trách tổng cộng 24 án [12], có hơn một nghìn lại viên. Vua lo rằng các chức Sứ, Phó, Phán quan không thể giám sát hết được, mà bốn án Thương thuế, Trụ, Khúc, Mạt diêm lại khó khăn và gấp gáp nhất [13].
Tháng 12, ngày Bính Thìn, đặt chức Thôi quan cho mỗi án, sai Tả tán thiện đại phu Trương Trọng Dung cùng ba người khác phụ trách. Sau đó, các án đều đặt Thôi quan hoặc Tuần quan, đều dùng quan lại triều đình đảm nhiệm.
[107] Trong niên hiệu Càn Đức, Tả bổ khuyết người Kế là Tống Kỳ [14] làm Thôi quan phủ Khai Phong. Khi ấy, Vua làm doãn kinh thành, ban đầu rất ưu đãi ông. Kỳ thân với Tể tướng Triệu Phổ, Xu mật sứ Lý Sùng Củ, thường lui tới nhà họ, Vua không vui, tâu lên Thái Tổ và đưa ông ra làm Tri châu Lũng, rồi dời đến Lãng Châu. Khi Vua lên ngôi, từ chức Phán quan tiết độ sứ Hộ Quốc, ông được triệu về kinh. Lúc đó, Trình Vũ và Giả Diễm từ phủ đệ của Vua leo lên đến chức vụ hiển hách, còn Kỳ bị chèn ép, lâu ngày không được điều động.
Ngày Đinh Tị, Vua triệu kiến và trách mắng, Kỳ lạy tạ, xin được sửa lỗi làm lại, bèn được bổ làm Thái tử tẩy mã.
[108] Ngày Ất Sửu, Vua đến đài Giảng Vũ xem quân Phi Sơn bắn máy bắn đá và nỏ liên châu. Vua chuẩn bị đánh Bắc Hán, nên tập luyện việc võ trước.
[109] Ngày Canh Ngọ, tháng chạp, các quan xin chuẩn bị lễ đi săn mùa đông, Vua nghe theo, nhân đó nói với tả hữu rằng: “Lão Tử nói ‘Chạy nhảy săn bắn khiến lòng người phát cuồng’, sách Hạ viết ‘Bên ngoài làm việc săn bắn quá độ’, người trên không thể không cảnh giác. Xem xét các đời trước, nhiều người mê muội vì việc này mà dẫn đến suy bại. Trẫm nay thuận thời đi săn, vì dân trừ hại, chứ không dám lấy đó làm vui.”
[110] Ngày Giáp Tuất, đổi quân Vĩnh Hưng thành quân Hưng Quốc.
[111] Ngày Mậu Dần, Khiết Đan sai sứ Tiêu Bồ Cốt Chỉ đến chúc mừng năm mới.
[112] Mùa đông năm đó, các châu tập trung người ứng cử, nhưng vì sắp thân chinh Hà Đông nên bãi bỏ. Từ đó, cứ cách một hoặc hai năm mới tổ chức thi cử.
[113] Trước đó, Trần Hồng Tiến dâng đất, Vua liền lệnh con ông là Văn Hiển làm Tri châu Tuyền Châu, bàn chọn người tài giỏi quản lý việc châu.
Điện trung thừa Nam Đốn Kiều Duy Nhạc đang để tang cha, được chiếu khởi dụng làm Thông phán. Duy Nhạc vừa đến, gặp giặc cỏ ở Tiên Du, Phủ Điền, Bách Trượng nhân cơ hội tụ tập hơn mười vạn người đến đánh thành, trong thành chỉ có ba nghìn quân, tình thế rất nguy cấp. Giám quân Hà Thừa Củ, Vương Văn Bảo muốn tàn sát cả thành, đốt kho tàng rồi bỏ chạy.
Duy Nhạc phản đối, cho rằng triều đình giao trọng trách an dân, nay ân huệ chưa thấm khắp, giặc cướp nổi lên, lại muốn tàn sát đốt phá, há phải ý chiếu chỉ sao! Thừa Củ bèn quyết tâm cố thủ. Lúc đó, Chuyển vận sứ Lưỡng Chiết Tây Nam Lộ Dương Khắc Nhượng đang ở Phúc Châu, liền dẫn quân đến cứu viện, vây thành được giải. Giám quân Quân khí khố phó sứ Vương Kế Thăng[15] dẫn hai trăm kỵ binh tinh nhuệ, đêm ra truy kích, bắt hết thủ lĩnh, giải về kinh, giặc cỏ hoàn toàn dẹp yên.
Thừa Củ là con của Kế Quân.
(Việc này không rõ xảy ra lúc nào, nay phụ lục cuối năm.)
[114] Năm đó, lần đầu đặt Văn Tư viện.
(Bản chí ghi năm thứ sáu, nay theo Hội yếu. Lý (đức, chữ “tâm” đổi thành “thổ”) Thập triều cương yếu năm đó thi hành biên sắc Thái Bình Hưng Quốc.)
- Ý là thông việc vận chuyển ở Tương, Đàm ('Tương Đàm', các bản và 'Tục Thông giám' quyển 9 đều giống nhau. 'Tống hội yếu' phần Phương vực 17.1, 'Tống sử' quyển 94 phần Hà cừ chí và 'Độc sử phương dư kỷ yếu' (sau đây gọi là 'Phương dư kỷ yếu') quyển 79 phần Bạch Hà đều ghi là 'Tương Đàm'. 'Thập triều cương yếu' quyển 2, 'Biên niên cương mục' quyển 3 lại ghi là 'Tương Hán'. Xét theo các sách, kế hoạch đắp đập, dẫn nước của Trình Năng nhằm thông việc vận chuyển từ kinh sư đến Tương Hán, rồi thuận dòng Hán Giang xuống Tương Đàm. Bản gốc ghi 'Tương, Đàm', là nói gộp cả hai ↵
- 'Chí' nguyên bản ghi 'Trí', nhầm do liên quan đến chữ dưới, căn cứ 'Tống hội yếu' phần Phương vực 17.1, 'Tống sử' quyển 94 phần Hà cừ chí và 'Tục Thông giám' quyển 9 mà sửa ↵
- Châu Xương thu muối vượt mức, chữ 'ngạch' nguyên là chữ 'đầu', sửa theo bản trong các khố và 'Tống hội yếu' phần 'Thực hóa' 23 chương 21, cùng 'Tục thông giám' quyển 9 ↵
- '18.727 binh', nguyên bản ghi '18.827 binh', căn cứ theo sách trên và 'Tống sử toàn văn' quyển 3 thượng, 'Tống sử' quyển 4 'Thái Tông kỷ' sửa lại. ↵
- 'Châu Trừ', nguyên bản ghi 'châu Từ', căn cứ theo bản Tống, 'Tống toát yếu', bản các đời và 'Thập quốc xuân thu' quyển 93 'Trần Văn Nghĩ truyện' sửa lại. ↵
- Nguyên văn là 'Sùng Nguyên điện', theo bản đời Tống và Tống toát yếu sửa lại. Cứ Tống hội yếu, quyển phương vực nhất chi ba, Tống sử quyển tám mươi lăm địa lý chí ghi, Sùng Nguyên điện là tên cũ thời Lương, năm Càn Đức thứ tư tu sửa, đổi thành Càn Nguyên. ↵
- Trịnh Tương nguyên bản chép là 'Trịnh Nhượng', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản sửa lại. Xem Tống sử có hai người tên Trịnh Tương: Một người tự là Sĩ Long, người Hà Nam, được chép ở quyển 301; một người tự là Tiềm Ông, người Ngọc Sơn, Tín Châu, được chép ở quyển 448, niên đại và sự tích đều khác nhau. Ở đây chắc là một Trịnh Tương khác. ↵
- Sửa 'Án' thành 'Án' theo bản Tống Toát Yếu, Trường Biên Kỉ Sự Bản Mạt quyển 4, Trị Tích Thống Loại quyển 2. ↵
- Kinh triều, các bản đều giống nhau. Bản Tống, bản Tống Toát Yếu và 'Tống Sử Toàn Văn' quyển 3 thượng đều chép là 'Kinh quan'. ↵
- số tiền tham nhũng là 190 quan, chữ 'tham' nguyên văn là 'thuế', căn cứ vào bản hiệu đính mà sửa ↵
- Cẩu năng quy ngã thổ địa dân thứ 'Cẩu năng' nguyên bản ghi 'Khả năng', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Các bản sửa lại. ↵
- Ba ty Diêm thiết, Hộ bộ, Độ chi phụ trách tổng cộng 24 án. Chữ 'Độ chi' nguyên bản viết là 'Chưởng chi', căn cứ theo bản Tống, bản 'Tống toát yếu', các bản khác và 'Quần thư khảo sách' quyển 8, điều về chức Thượng thư Hộ bộ mà sửa lại. ↵
- Bốn án Thương thuế, Trụ, Khúc, Mạt diêm khó khăn và gấp gáp nhất. Chữ 'Trụ' nguyên bản viết là 'Tửu', căn cứ theo bản Tống, bản 'Tống toát yếu' và 'Tống sử' quyển 162, điều về chức Tam ty sứ mà sửa lại. ↵
- Tả bổ khuyết người Kế là Tống Kỳ. Chữ 'Kế' nguyên bản viết là 'Tô', căn cứ theo bản Tống, bản 'Tống toát yếu', các bản khác và 'Tống sử' quyển 264, bản truyện Tống Kỳ mà sửa lại. ↵
- Chữ 'khố' vốn thiếu, theo bản Tống, Tống toát yếu và Tống sử quyển 276 bổ sung. ↵