"

II. TỐNG THÁI TÔNG

QUYỂN 26: NĂM UNG HI THỨ 2 (ẤT DẬU, 985)

Từ tháng giêng năm Ung Hi thứ 2 đời Thái Tông đến tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý Hợi, Hàn lâm học sĩ Giả Hoàng Trung cùng chín người khác được ủy quyền phụ trách khoa cử. Vua nói với Thừa tướng: “Việc thiết lập khoa cử để chọn nhân tài là con đường nhanh chóng và quan trọng nhất. Tuy nhiên, những năm gần đây, số người dự thi lên đến hơn vạn, há chẳng phải là có kẻ lạm tiến sao?”

Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu rằng: “Từ nay, các khoa thi đều phải ấn định số lượng người, dẫn dắt nhau đi thi, phân khoa ngồi cách biệt, cử quan tuần tra giám sát cửa thi, cẩn thận xem xét việc ra vào. Nếu có kẻ dùng văn tự để qua lại với lại viên làm việc gian trá, thì trị tội theo pháp luật; nếu có kẻ dạy nhau kinh nghĩa riêng tư, thì đuổi khỏi trường thi; nếu ngũ bảo biết trước mà không tố giác, cũng bị liên đới trách nhiệm. Tiến sĩ phải được xét duyệt kỹ hơn, người đi thi không được vì đã từng qua kỳ thi do Vua chủ trì mà không khảo hạch mà tiến cử.” Bắt đầu cho phép thân thích của quan chấm thi thi riêng, tổng cộng 98 người. Lại bỏ phần thi luật của tiến sĩ, khôi phục phần thiếp kinh.

[2] Vua xem các tấu chương của các chức Chuyển vận phó sứ, Tri châu, Thông phán ở các đạo, thấy có những bản không liên danh, liền nói với Thừa tướng: “Làm quan cùng nhau, phải đồng lòng vì lợi ích lâu dài. Hơn nữa, khi trình bày lợi hại, thường hay thay đổi, nay không liên danh, ắt là do tự quyết định riêng, điều này chưa đúng đắn.” Tháng 2, ngày Mậu Dần, hạ chiếu răn dạy việc này.

[3] Ngày Bính Tuất, Vua nói với Thừa tướng: “Trẫm xem sử sách, thấy Tấn Cao Tổ cầu viện Khiết Đan, bèn hành lễ thờ cha, lại cắt đất dâng lên, khiến hàng triệu dân chúng lâm vào tay Khiết Đan. Phùng Đạo, Triệu Oánh, giữ chức Thừa tướng, đều được sai đi mang lễ vật, nhục nhã quá mức. Kẻ địch tham lam, có thể dùng lợi mà dụ, nhưng cắt đất không phải là sách lược khôn ngoan. Trẫm mỗi lần nghĩ đến, không khỏi thở dài.”

Tống Kỳ tâu rằng: “Tấn Cao Tổ sai Phùng Đạo đi sứ, mở tiệc tiễn đưa, tự tay nâng chén rơi lệ nói: ‘Truyền đạt mệnh lệnh hai Vua, kết thân tình hai nước, làm phiền trọng thần của ta, đến nơi biên ải xa xôi, dân chúng được yên ổn, kế tục hoà hảo, nên hiểu rõ tấm lòng này, đừng nản lòng.’ Khi Phùng Đạo trở về, có làm thơ rằng: ‘Trên điện, chén rượu Vua rơi lệ; trước cổng, đôi tiết người dân than thở.’ Ngày nay, biên giới yên ổn, sinh linh an lành, đều nhờ biết cách chế ngự. Khôi phục cương thổ cũ, cũng sẽ có lúc.” Vua đồng ý.

[4] Tháng 3, Kỷ Mùi, Vua ngự điện Sùng Chính, tổ chức thi lại cho các cử nhân thi Lễ bộ, lấy được tiến sĩ người Tư Thành là Lương Hạo cùng 179 người khác. Ngày Canh Thân, lấy được 318 người đỗ các khoa khác, đều xướng tên ban cập đệ. Việc xướng tên bắt đầu từ đây (theo ‘Đăng khoa ký’). Con của Thừa tướng Lý Phưởng là Tông Ngạc, em họ của Tham tri chính sự Lữ Mông Chính là Mông Hanh, con của Diêm thiết sứ Vương Minh là Phù, con của Độ chi sứ Hứa Trọng Tuyên là Đãi Vấn, đều tham gia thi tiến sĩ và đỗ. Vua nói: “Đây đều là con nhà quyền thế, cạnh tranh với kẻ cô hàn, dẫu đỗ bằng tài năng, người đời cũng sẽ cho rằng Trẫm thiên vị!” Bèn bỏ họ.

[5] Người Thanh Châu là Vương Tòng Thiện dự thi khoa Ngũ kinh, tuổi vừa hơn hai mươi, tự nhận có thể thông thuộc văn chú của Ngũ kinh. Vua bèn lần lượt yêu cầu đọc thử từng bản kinh, Vương Tòng Thiện đều đọc trôi chảy, nên đặc cách ban cho đỗ Cửu kinh, đồng thời ban mặt áo lục, đai bạc và hai vạn tiền. Lúc ấy, tả hữu dâng lời rằng vẫn còn nhân tài bị bỏ sót.

Ngày Nhâm Tuất, mở lại kỳ thi, chọn thêm bảy mươi sáu Tiến sĩ, trong đó có Hồng Trạm người Thượng Nguyên.

Ngày Quý Hợi, chọn được ba trăm lẻ hai người đỗ các khoa khác, đều được ban đỗ.

[6] Mùa hạ, tháng tư, ngày Bính Tý, khôi phục khoa Minh pháp. Chia kinh ‘Chu Dịch’ và ‘Thượng Thư’ thành từng khoa riêng, kèm theo ba tiểu kinh là ‘Luận Ngữ’, ‘Hiếu Kinh’ và ‘Nhĩ Nhã’. Kinh ‘Mao Thi’ lập thành một khoa riêng. Khoa Minh pháp cũng kèm theo ba tiểu kinh. Các khoa Tiến sĩ, Cửu kinh trở xuống không phải học sách pháp luật nữa. Lại vì ở kỳ thi Toả sảnh, số người dự thi thường nhiều sai sót, nên bắt đầu từ nay, lệnh cho các đạo, châu, phủ chọn những người tài học xuất chúng và làm quan không có lỗi mới được cử đi thi, đồng thời phải tấu trước để chờ phê chuẩn.

[7] Hôm ấy, Vua triệu tập các chức Tể tướng, Tham tri chính sự, Xu mật, Tam ty sứ, Hàn lâm, Xu mật trực học sĩ, Thượng thư tỉnh hàm tứ phẩm, Lưỡng tỉnh hàm ngũ phẩm trở lên, cùng Tam quán học sĩ, mở yến tiệc ở Hậu uyển, thưởng hoa, câu cá, bày nhạc, ban rượu, sai quần thần làm thơ, tập bắn cung. Từ đó về sau, hằng năm đều như vậy. Lễ thưởng hoa, câu cá trong yến tiệc khúc nhạc bắt đầu từ đây.

(Theo ‘Hội Yếu’, việc thưởng hoa làm thơ đã thấy vào tháng ba năm Ung Hi thứ nhất.)

[8] Tháng 5, ngày Canh Ngọ, Trung thư môn hạ tấu trình, những quan viên bị giáng chức ở ngoài mà đã từng được nhiều lần xá miễn, muốn cho họ trở về triều đình, bắt họ phải lập công chuộc tội. Vua không đồng ý, nói với tể tướng rằng: “Triều đình trị nước nên dùng người hiền lương, người quân tử và kẻ tiểu nhân cần phải phân biệt rõ. Tựu chung, bậc quân chủ trước hết nên tự chính thân mình, cũng giống như việc trị gia, thân không chính thì gia đình sẽ loạn. Nếu nghe lời nịnh hót xằng bậy, thì người thân ruột thịt cũng sẽ trở nên xa cách, làm sao có thể đạt được đạo lý hòa thuận! Việc lớn nhỏ tuy khác nhau, nhưng nguyên lý thì giống nhau. Nay ở những nơi xa xôi gian ác như đảo Hải Nam, Quỳnh Châu, Nhai Châu, có rất nhiều quan viên bị đày ải, từ lễ Giao nhân đến nay, ta há chẳng nghĩ đến chăng! Nhưng những kẻ này vốn cứng đầu ngang ngược, nếu được chút đắc chí, tất sẽ kết bè kết đảng, tự do khen chê, như con ngựa hại đàn, há nên bàn luận một cách dễ dàng sao?”

(Sách ‘Tuyển cử chí’ nói rằng chiếu theo lời thỉnh cầu, thực ra là sai lầm.)

[9] Tháng 6, ngày Kỷ Mão, xuống chiếu cho các nhà sâu cung phụng ở hai khu phố đến nội điện lập đạo trường. Vua nói với tể tướng: “Năm nay lúa mùa hạ được mùa. Nghe nói năm được mùa thì dân chúng thường hay mắc bệnh dịch, Trẫm sợ dân chúng có thể gặp tai họa, nên sai lập đạo trường này, chưa chắc đã được bảo hộ, nhưng cũng là để tỏ rõ ý cầu nguyện chí thành của Trẫm.”

[10] Ngày Bính Tuất, sai Hữu gián nghị đại phu Lưu Bảo Huân, Binh bộ lang trung Dương Huy Chi, Đồn điền lang trung Khổng Thừa Cung cùng Phán Lại bộ Lưu nội tuyển Vương Hỗ, cùng đến Thượng thư tỉnh để căn cứ vào thứ hạng của các tân tiến sĩ và các khoa thi, phân bổ chức vụ phù hợp với việc xa gần của quê hương. Từ đó trở thành quy định.

[11] Tháng 7 mùa thu, Vua nói với Thừa tướng rằng: “Quốc gia lấy dân làm gốc, dân lấy lương thực làm mệnh, nên biết tích trữ là việc cấp bách nhất. Trước đây, Giang Nam bị hạn hán nặng, [đã lập tức sai sứ đến cứu trợ], quả nhiên không xảy ra nạn lưu vong hay trộm cướp. Nếu không có tích trữ, thì lấy gì mà cứu giúp?”

Ngày Canh Thân, ra chiếu rằng: “Các lộ Chuyển vận sứ và các châu Trưởng lại phải khẩn trương đốc thúc các quan lại coi kho kiểm tra lương thực trong kho [theo thời gian quy định], không để hư hỏng. Ngoài việc tính toán chi tiêu, nếu có thể biến đổi hoặc bán, cho dân vay, hoặc chuyển về kinh đô, nếu không kiểm tra mà làm hư hỏng lương thực của quan, dù đã thôi chức vẫn sẽ bị xử theo pháp luật.”

[12] Đỉnh Châu báo cáo nước sông dâng cao, gây hại cho mùa màng.

[13] Tháng 8, ngày Canh Thìn, Vua nói với Thừa tướng rằng: “Trẫm lo lắng về việc xử án, ngày đêm lo nghĩ, mới chia sai sứ thần đi tuần tra các đạo, vì lo có án oan bị đình trệ. Do đó, nghĩ tới các tân Tiến sĩ được bổ làm Tư lý tham quân, họ chưa tinh thông luật pháp, nên lệnh cho các châu Trưởng lại xét những người không đủ năng lực, đổi vị trí giữa các chức Phán ty và Bạ úy.”

[14] Ngày Quý Tỵ, Vua nói với tể tướng rằng: “Từ thời cận đại đến nay, chính sự đổ nát hỗn loạn, không đâu bằng hai triều Tấn và Hán. Bên ngoài thì chư hầu và bá tước không tuân pháp luật, tự ý bóc lột; bên trong thì kẻ quyền thế lạm dụng công việc, hối lộ công khai. Dân chúng chưa kịp nộp thuế cho triều đình, đã phải chịu đựng sự thu thuế trước. Quan lại trong huyện hàng năm đều có những yêu cầu thường lệ; tướng lĩnh và nhân viên trong trấn thường xuyên tạo ra tình trạng đòi hỏi; các viên chức làng xã thay nhau đến, khiến dân chúng khốn khổ, không biết kêu cứu vào đâu. Mong mỏi thiên đạo thuận hòa, làm sao có được! Những năm gần đây, đã phần nào sửa đổi được tệ nạn này, bề tôi tuân thủ pháp luật, trăm họ yên ổn, tuy chưa thể trở về thời thuần phác, nhưng cũng có thể gọi là tiểu khang vậy. Mỗi khi nghĩ đến dân chúng phải cày cấy trong giá rét và nóng bức, lo toan cơm áo, nếu quốc gia không phải nuôi dưỡng quân đội, thì thuế đôi ta cũng không nỡ thúc ép, huống chi là bóc lột phi lý?”

Tống Kỳ và các quan đáp rằng: “Bệ hạ thương dân tìm lẽ phải, lấy làm gương từ Tấn và Hán, thực là phúc lớn cho thiên hạ.”

(Trong ‘Hội yếu’ tháng mười một có ghi việc cấm các quan lại đòi hỏi tiền bạc, vật phẩm, cùng các lễ vật thường niên như rượu thịt, gạo, v.v., lệnh giao cho chuyển vận sứ và các trưởng lại điều tra tâu lên, phụ lục vào cuối tháng mười một.)

[15] Tháng chín. Lúc đầu, Phù vương Đình Mỹ đã phạm tội, Sở Vương Nguyên Tá một mình cầu xin tha tội cho ông, nhưng Vua không nghe. Sau khi Đình Mỹ chết, Nguyên Tá bị bệnh tâm thần, có khi cả mấy tháng không vào triều chầu.

(Sách ‘Long Xuyên biệt chí’ chép rằng Thái Tông định lập Nguyên Tá làm người kế vị, nhưng Nguyên Tá kiên quyết từ chối, muốn lập con của Thái Tổ, do đó mà bị phế, nên đương thời cho rằng ông bị điên. Căn cứ vào sự kiện: hai con trai của Thái Tổ, Đức Chiêu chết vào tháng tám năm Thái Bình Hưng Quốc thứ tư, Đức Phương chết vào tháng ba năm thứ sáu, còn Nguyên Tá thì đến tháng bảy năm thứ bảy mới ra khỏi cung, lúc đó con Thái Tổ không còn ai sống sót. Nguyên Tá tuy được phong làm Vệ Vương, nhưng chưa từng có ý định lập làm thái tử. Đến tháng giêng năm thứ chín, khi Đình Mỹ chết, Nguyên Tá mới phát điên, nên việc ông từ chối ngôi vị không phải là nguyên nhân. Sách ‘Biệt chí’ đã sai lầm. Sách ‘Nhật ký’ của Tư Mã Quang chép lời Tống Mẫn Cầu rằng, khi Đình Mỹ bị giáng chức, Nguyên Tá xin chịu tội thay, vì thế mà mất lòng yêu mến của Vua. ‘Nhật ký’ có lẽ đã ghi đúng sự thật.)

Nguyên Tá thường hành động tàn bạo, không tuân thủ phép tắc, tả hữu chỉ cần phạm lỗi nhỏ là bị ông tự tay giết chết, tôi tớ đi qua sân đều bị ông dùng cung bắn hạ. Vua nhiều lần nghiêm khắc răn dạy, nhưng ông vẫn không chịu sửa đổi. Năm ấy vào mùa hè và mùa thu, bệnh của ông trở nặng, Vua rất lo lắng. Đến tháng này, bệnh tình có dấu hiệu thuyên giảm, Vua mừng rỡ, liền ban chiếu thư ân xá.

Ngày Canh Tuất, tiết Trùng Dương, Vua triệu tập các vương hầu đến vườn ngự uyển dự yến tiệc và bắn cung, nhưng Nguyên Tá vì mới khỏi bệnh nên không tham dự. Đến chiều tối, Trần vương Nguyên Hựu cùng các vương khác đến thăm, Nguyên Tá nói: “Các ngươi cùng với Bệ hạ vui chơi bắn cung, mà ta không được tham dự, thật là bị cha bỏ rơi.” Do đó, Nguyên Tá nổi giận, nửa đêm đóng cửa cung, nhốt các thiếp và đốt cung điện.

Sáng hôm sau, lửa vẫn cháy lớn. Vua nghi ngay việc này là do Nguyên Tá gây ra, bèn sai người đưa Nguyên Tá đến Trung thư, cử Ngự sử điều tra. Đặt hình cụ lớn trước mặt, Nguyên Tá sợ hãi, khai hết sự thật. Vua sai Nội đô tri Vương Nhân Duệ đến bảo: “Ngươi là thân vương, giàu sang quyền quý đã cực điểm, sao lại ngang ngược đến thế! Pháp luật quốc gia, ta không thể tư tình, tình phụ tử từ nay đoạn tuyệt.” Nguyên Tá không đáp được.

Trần vương Nguyên Hựu cùng các tể tướng, cận thần đều khóc lóc xin tha, Vua rơi nước mắt nói: “Trẫm mỗi lần đọc sử, thấy con cháu các đế vương thời trước không nghe lời dạy, chưa từng không bức xúc, căm giận. Không ngờ nhà ta cũng có việc như vậy! Trẫm vì xã tắc, nhất định không thể tha thứ.” Bèn hạ chiếu phế Nguyên Tá làm thứ dân, đưa đến Quân châu an trí. Quay lại bảo các tể tướng: “Gần đây trong ngoài yên ổn, vừa nghĩ đến việc thư thả, thì Nguyên Tá lại đốt cung, thật khiến lòng Trẫm xáo trộn.”

Tống Kỳ tâu: “Vua Nghiêu, Vua Thuấn cũng có đứa con bất tài là Đan Chu, Thương Quân, việc này không làm tổn hại đức lớn của Bệ hạ. Nguyên Tá nếu không phải mắc bệnh tâm thần, chắc không đến nỗi thế, xin Bệ hạ khoan dung.”

Ngày Đinh Tị, Tống Kỳ dẫn trăm quan quỳ trước điện dâng biểu xin để Nguyên Tá ở lại kinh đô. Vua không cho, ba lần dâng biểu, mới chấp thuận. Nguyên Tá đi đến Hoàng Sơn thì được triệu về, bị giam ở Nam cung, có người giám sát, không được liên lạc với bên ngoài. Tư nghị Triệu Tề Vương Duật và Dực thiện Đái Huyền ở phủ Sở vương vì không làm tròn trách nhiệm phụ đạo, đều xin chịu tội. Vua bảo: “Trẫm dạy dỗ còn không nghe, huống chi các ngươi sao có thể khuyên bảo được!” Đều tha không trị tội.

(Khấu Chuẩn khi làm Thông phán ở Vận Châu, được vào triều yết kiến. Thái Tông bảo: “Trẫm biết khanh có mưu kế sâu xa, hãy giúp Trẫm quyết một việc để trong ngoài không xôn xao. Việc này Trẫm đã bàn với các đại thần rồi.” Chuẩn hỏi việc gì, Thái Tông nói: “Thái tử làm những việc phi pháp, ngày sau tất sẽ theo gương Kiệt, Trụ. Muốn phế đi, nhưng Thái tử cũng có quân đội riêng, sợ gây ra loạn lạc.”

Chuẩn tâu: “Xin vào ngày tháng đó, lệnh cho Thái tử đến nơi ấy thay mặt thi hành lễ nghi, tất cả tùy tùng đều đi theo. Bệ hạ sai người lục soát cung Thái tử, nếu quả có việc phi pháp, đợi Thái tử về thì trình bày, cách ly tả hữu không cho vào rồi phế truất, chỉ cần một hoạn quan là đủ.” Thái Tông nghe theo.

Khi Thái tử đi, bèn lục soát cung, tìm ra những khí cụ dùng để hành hình dâm bạo như dao móc mắt, nhổ gân, cắt lưỡi, đưa chứng cứ ra, Thái tử nhận tội, liền bị phế, lập Chương Thánh làm Thái tử. Từ đó, Thái Tông càng trọng đãi Khấu Chuẩn.

Đây là chuyện được chép trong ‘Khấu Chuẩn truyện’ trong sách ‘Nhân Tông Chính Yếu’ của Trương Đường Anh, nhưng truyền thuyết sai lầm đến thế, thực ra là do việc phế Nguyên Tá mà ra. Tháng 10 năm Thuần Hóa thứ 3, bãi lễ sách phong Thái tử Cung Hiếu Nguyên Hi chính là vì Thái tử bị sủng thiếp họ Trương mê hoặc, ban đầu không có việc dâm hình. Sách của Đường Anh hiện còn nhiều, không chỉ sai lầm ở chỗ này, không thể không xét lại.)

[16] Ngu bộ lang trung, chức Tri chế cáo, người Trịnh là Hàn Phi có tài văn chương và đức hạnh, triều đình tôn xưng ông là bậc trưởng giả. Tuy nhiên, khi soạn thảo chiếu thư, Hàn Phi thường chậm trễ. Một đêm, cần gấp chiếu thư [1], Hàn Phi đã dừng bút lâu, hỏi xin bản thảo cũ, nhưng thư lại đã khóa cửa đi ngủ, không thể tìm được. Hàn Phi buộc phải phá khóa lấy, chỉnh sửa rồi dâng lên. Tể tướng Tống Kỳ tính tình nóng nảy, thường trách mắng, đôi khi còn dùng lời đùa cợt, khiến Hàn Phi không bằng lòng. Trung thư xá nhân Vương Hỗ vì là tiền bối nên kiêu ngạo, thường xúc phạm và bẽ mặt ông. Hàn Phi bèn dâng biểu xin đi nhậm chức ngoài. Ngày Giáp Tuất tháng nhuận Chín, Hàn Phi bị bãi chức Tri châu Quắc.

[17] Vua xem sách ‘Ung Quản Tạp Ký’, cảm thán về phong tục dị biệt nơi đó. Ngày Ất Mùi, ra chiếu rằng các châu ở Lĩnh Nam về việc cưới hỏi, tang lễ, y phục, giao cho quan địa phương từ từ răn dạy, bắt tuân theo quy chế; những việc giết người tế quỷ, bệnh không tìm thầy thuốc, tăng nhân lấy vợ, nên hết sức giáo hóa, khiến họ thay đổi. Đừng dùng pháp luật hà khắc, gây thêm phiền nhiễu.

[18] Ngày Kỷ Hợi, Phường châu dâng lên một con thú một sừng, Vua triệu tập các quan cận thần đến xem, tất cả đều tấu rằng: “Theo ‘Thụy Ứng Đồ’, con đực gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân. Trước đây, Lam châu tiến dâng, đó là Lân. Đây chính là Kỳ[2]. Xin Vua tuyên cáo ra khắp trong ngoài.” Vua không đồng ý, chỉ lệnh nuôi trong vườn thượng uyển để thuận theo tính ăn uống tự nhiên của nó, và bảo Thừa tướng rằng: “Thời tiết hòa thuận, mùa màng bội thu, trăm họ an lành, đó mới là điềm lành lớn. Chuyện chim thú cỏ cây, có gì đáng nói?”

[19] Tháng mười mùa đông, ngày Tân Sửu mùng một, Vua xét lại tù nhân bị giam giữ ở các cơ quan trong kinh thành, phần lớn đều được tha giảm, việc xử án kéo dài đến tối. Có quan cận thần can gián rằng Vua quá lao lực. Vua nói: “Không sao. Nếu có thể ban ân huệ đến những người không nơi nương tựa, khiến việc kiện tụng được công bằng, không bị oan khuất, Trẫm cảm thấy rất vui, có gì là mệt mỏi!” Nhân đó, Vua nói với Thừa tướng: “Nếu các quan trong triều ngoài quận đều chú tâm vào chính sự, thì thiên hạ há có gì không trị được? Người xưa trị một ấp, coi một quận, khiến châu chấu tránh cảnh, hổ dữ qua sông. Huống chi bậc quân chủ biết nuôi dưỡng dân chúng, giải quyết oan khuất, há không cảm động đến khí hòa sao! Trẫm luôn tự mình siêng năng không ngừng, chí này nhất định không thay đổi. Có người nói rằng việc nhỏ của các cơ quan[3], đế vương không nên tự quyết, nhưng ý Trẫm thì khác. Nếu chỉ biết tự cao, thì tình hình dưới sao có thể thông đạt lên trên được!”

[20] Tháng mười một, ngày Tân Mão, ban chiếu rằng từ nay về sau, các quan kinh thành, mạc phủ, châu huyện, nếu có cha mẹ mất, đều được phép rời nhiệm sở, còn các quan thường triều phải tấu trình chờ chỉ dụ. Tuy nhiên, về sau cũng có nhiều trường hợp đặc biệt bị triệu hồi.

[21] Tháng 12, Vua bảo Lý Phưởng và các quan rằng: “Trung thư, Khu mật là nơi phát xuất chính sự của triều đình, là căn bản của việc trị loạn. Thiên hạ rộng lớn, các khanh cùng Trẫm chung lo việc nước, nên hết lòng trung thành để xứng đáng với chức vụ. Ai cũng có tình thân cố, nhưng nếu tài năng không xứng, chi bằng ban cho của cải. Trẫm cũng có người cũ, nếu thật sự không có tài, chưa từng ban cho chức vụ. Các khanh nên cẩn thận về điều đó.”

[22] Năm Khai Bảo, giặc đánh Châu Tú, Tri châu Nhiêu Dương là Vương Thứ tử trận. Con của Thứ là Tế cũng đi theo, tướng giặc muốn giết cả. Tế ôm xác cha khóc lóc, nói với giặc: “Cha ta đã chết, ta còn sống làm gì! Chỉ hận sức yếu không giết được ngươi để báo thù cho cha.” Giặc cảm động bởi lời nói của Tế, tha cho. Tế nhặt xương cha, giấu trong núi.

Khi quân triều tập hợp đông đảo, Tế đến yết kiến tướng quân là Chu Ất, trình bày kế hoạch đánh giặc. Ất khen ngợi sự thành khẩn của Tế, ban cho lụa, và tâu xin cho Tế về quê. Trước đó, mẹ của Tế mất tại Nhạc Dương, tạm gửi tại chùa, Tế đưa cả hai linh cữu về Nhiêu Dương. Quan châu tâu lên, Thái Tổ triệu Tế vào, thấy còn trẻ, bèn cho theo học.

Đến nay, Tế dâng sớ tự xưng là kẻ mồ côi vì việc nước, được thử việc tại Viện Học sĩ, bổ làm Chủ bạ Long Khê. Lúc đó, điều động Phúc Kiến nộp lông hạc làm cánh tên, nhưng hạc không phải là vật thường có, quan lại thúc giục rất gấp, giá một cánh lông lên tới vài trăm tiền, dân chúng khổ sở. Tế khuyên dân lấy lông ngỗng thay thế để nộp, rồi tâu lên việc này. Nhà Vua sau đó ra chiếu cho các quận lân cận làm theo lời tâu của Tế.


  1. 'cần' nguyên văn là 'ban', dựa theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại
  2. Chữ 'Đây' nguyên văn là 'Thị', căn cứ vào Tống bản, Tống Toát Yếu bản và Các bản mà sửa.
  3. Chữ 'trăm' nguyên văn là 'có', căn cứ vào Tống bản, Tống Toát Yếu bản mà sửa.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.