I. TỐNG THÁI TỔ
QUYỂN 3: NĂM KIẾN LONG THỨ 3 (NHÂM TUẤT, 962)
Từ tháng giêng năm Kiến Long thứ 3 đời Thái Tổ đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Tỵ, Vua hạ lệnh cho quan lại đạo Hoài Nam mở kho lương để cứu đói dân chúng. Trước đó, Hộ bộ lang trung là Thẩm Nghĩa Luân đi sứ Ngô Việt trở về, tâu rằng: “Dân chúng ở Dương, Tứ chết đói rất nhiều. Trong quận còn hơn một trăm vạn hộc lương quân dự trữ có thể cho vay, đến mùa thu sẽ thu hoạch lúa mới.” Có quan viên ngăn cản Nghĩa Luân, nói: “Nếu năm nào cũng đói kém, sẽ không có gì để thu hồi, ai sẽ chịu trách nhiệm?” Vua hỏi lại Nghĩa Luân, ông đáp: “Quốc gia đang thi hành nhân chính, tự nhiên sẽ cảm ứng được khí hòa, đạt được mùa màng bội thu, cần gì lo lắng về hạn hán hay lũ lụt?” Vua vui lòng, nên có lệnh này.
(Truyện của Nghĩa Luân không ghi rõ năm, có sách chép là năm thứ nhất, sách ‘Bảo Huấn’ chép là năm thứ hai, cũng không biết chính xác ngày nào. Xét rằng Nghĩa Luân vào tháng 2 năm thứ hai, ngày Nhâm Tuất, mới được bổ nhiệm làm Hộ bộ lang trung, đến tháng 4, ngày Ất Mão, nhận chiếu chỉ phân công đốc thúc các kho lương ở kinh đô, nên việc đi sứ Ngô Việt chắc chắn phải sau khi đốc thúc kho lương, sao có thể còn nói đến lúa mùa thu? Việc chép là năm thứ nhất là sai, chép là năm thứ hai cũng không có bằng chứng. Nhưng tháng giêng năm này có lệnh này, nghi rằng Thái Tổ đã nghe theo lời Nghĩa Luân, nên chép ở đây. Nghĩa Luân vào tháng 11 năm này, ngày Bính Dần, được thăng từ Hộ bộ lang trung lên chức Cấp sự trung.)
[2] Ngày Canh Ngọ, Vua ngự đến vườn Nghênh Xuân để yến tiệc và bắn cung.
[3] Ngày Giáp Tuất, huy động dân chúng Khai Phong và Tuấn Nghi xây dựng góc đông bắc của hoàng thành. Điện tiền đô chỉ huy sứ, Tiết độ sứ Nghĩa Thành là Hàn Trọng Uân (người Vũ An) đốc thúc công việc.
[4] Chiếu cho các châu trưởng lại khuyến khích việc nông tang. Từ đó về sau, mỗi khi đến đầu năm, đều ban chiếu này.
(Sách ‘Đông Đô Sự Lược’ của Vương Xưng chép: Chiếu rằng: Dân sinh nhờ vào sự chăm chỉ, của báu chỉ có lúa gạo, đó là lời dạy minh triết của tiên vương. Trẫm cai trị Trung Hạ, làm người chăn dắt, thương xót muôn dân, mong đạt đến sự giàu có. Huống chi nghề nông tang là nguồn gốc của cơm áo, nay mùa xuân đang đến, đất đai tươi tốt, đúng lúc bắt đầu gieo trồng, lo rằng kẻ lười biếng còn nhiều, nếu không chăm chỉ làm việc, thì thu hoạch mùa thu sẽ ra sao? Các trưởng lại châu mục, nhiệm vụ là khuyến khích dân chúng, nên dẫn dắt lê dân, khích lệ việc nông, để mọi nhà đều chăm chỉ cày cấy, ba mùa vụ không bị lỡ dở, ra sức làm ruộng, mong có được mùa màng bội thu, công lao sẽ được ban thưởng, quốc pháp đã định rõ.)
[5] Ngày Bính Tý, phong Tào Nguyên Trung kiêm chức Trung thư lệnh, con trai ông là Diên Kính (theo ‘Tống sử’, Diên Kính còn gọi là Diên Kế) làm Phòng ngự sứ Châu Qua, ban tên là Diên Cung.
[6] Cấm các châu sử dụng tiền sắt kẽm và tiền “Đường quốc thông bảo” do Giang Nam đúc. Dân gian ai có tiền này phải nộp lên quan, nơi nào cũng phải đặt hàng rào gai để thu nhận, nếu ai dám giấu giếm, cho phép người khác tố cáo, sẽ bị xử phạt nặng.
[7] Ngày Canh Thìn, nước Nữ Chân sai sứ Chỉ Cốt đến triều cống.
[8] Chiếu cho các châu huyện không được bắt dân lữ hành và người tạm cư làm phu dịch.
[9] Ngày Quý Mùi, Vua ngự giá đến Quốc tử giám.
[10] Ngày Đinh Hợi, bổ nhiệm Giám sát ngự sử Lưu Trạm làm Thiện bộ lang trung. Trạm vâng chiếu quản lý việc buôn bán trà ở Kỳ Xuân, thu nhập hàng năm tăng gấp đôi. Việc thăng chức vượt cấp này không theo lệ cũ.
(Trạm, không rõ lai lịch.)
[11] Tháng này, tu sửa con đường cổ ở Tây Kinh, những chỗ hiểm trở đều được san bằng.
[12] Tháng hai, ngày Canh Dần, lệnh cho các Hàn lâm học sĩ và quan văn từng giữ chức mạc phủ, châu huyện, mỗi người tiến cử một người có thể làm tân tá, lệnh lục, nếu là người thân cận cũng được phép tiến cử. Nếu sau này người được tiến cử tham nhũng, hèn nhát, bỏ bê công việc, người tiến cử sẽ bị liên đới chịu tội.[1]
[13] Ngày Quý Tỵ, ra lệnh cho các đạo, châu, phủ xử án theo pháp luật, không được trốn tránh việc mà tùy tiện tấu trình xin chỉ thị, kẻ vi phạm sẽ bị xét tội và phạt đình chỉ.
(Việc xét tội và phạt đình chỉ là chiếu chỉ ngày Đinh Mùi tháng giêng năm Càn Đức thứ hai, nay ghi chép lại ở đây, không lặp lại ở phần sau.)
[14] Ngày Giáp Ngọ, ban chiếu: “Từ nay, cứ năm ngày một lần, các quan vào nội điện chầu hỏi, lần lượt đối đáp, phải chỉ ra được những điều được mất trong chính sự hiện tại, những việc cấp bách của triều đình, hoặc những oan khuất trong ngục tù, nỗi khổ của trăm họ, đều phải điều tra rồi tâu lên, đồng thời phải ghi chép sự việc một cách trung thực[2], không được dẫn dắt lan man. Những việc cấp bách, cho phép tâu trình lên triều đình bất kỳ lúc nào, không cần đợi đến lượt đối đáp.”
[15] Ngày Ất Mùi, Tiết độ sứ Hoạt Châu là Trương Kiến Phong bị cách chức, phải đi đày ở Đường Châu, vì tội để xảy ra hỏa hoạn ở kho quân nhu và vũ khí.
[16] Ngày Kỷ Hợi, ban chiếu: Kẻ trộm cắp mà tang vật đủ năm nghìn đồng tiền đủ mệnh giá thì xử tử.
[17] Thục chủ lập Tần vương Huyền Triết làm Hoàng thái tử, ra lệnh cho những người dẫn đường trước mặt đều phải xưng là “Điện hạ”, không được gọi trực tiếp là “Hoàng thái tử”. Tể tướng Thành Đô là Lý Hạo dâng sớ nói việc này không nên, nên mới dừng lại.
(Huyền Triết, xem năm Càn Hữu thứ ba. Lý Hạo, xem năm Đồng Quang thứ hai.)
[18] Ngày Nhâm Dần, Vua nói với các cận thần: “Nay muốn bắt tất cả võ thần đều phải đọc sách, để hiểu rõ đạo trị quốc.” Các cận thần đều không ai trả lời.
(Việc ban rượu và trái cây cho Thôi Tụng được ghi trong thực lục vào tháng sáu năm này, truyện của Thôi Tụng cũng nói rằng mùa hè năm thứ ba mới bắt đầu tập hợp học trò. Nhưng ‘Bảo huấn’ lại ghi việc võ thần đọc sách là do ban thưởng cho Thôi Tụng, đó là sai, nay không theo. Sử thần Lý Hãng nói: Xưa Quang Vũ trung hưng, không bắt các công thần phải lo việc quan, đến khi thiên hạ đã định, thường dẫn các công khanh, lang tướng bàn luận kinh nghĩa, đến khuya mới thôi. Bởi việc dựng nghiệp và trị quốc vốn có thứ tự. Nay Thái Tổ muốn bắt võ thần đọc sách, có thể nói là có ý hướng về trị quốc. Các cận thần không thể dẫn chứng để đối đáp, người hiểu biết chê trách.)
[19] Ngày Đinh Mùi, ra chiếu: “Từ nay, các Tể tướng, Xu mật sứ kiêm Bình chương sự, Thị trung, Trung thư lệnh, Tiết độ sứ[3], theo lệ trước nộp tiền lễ, Tể tướng, Xu mật sứ 300 nghìn, Phiên trấn 500 nghìn, sung vào công dụng của Trung thư môn hạ. Lại khắc đá ở Trung thư ghi rõ năm tháng nhận chức. Những người đã nộp, sau này dù thăng chuyển cũng không phải nộp lại. Người làm Tể tướng cũ trở lại nhậm chức, nộp đúng số tiền đó.” Lúc ấy, Trung thư môn hạ trình rằng theo chế độ nhà Đường, những người làm việc ở Trung thư đều nộp tiền lễ 3000 quan, gần đây đã bị bỏ phế, xin khôi phục lại.
[20] Ngày Giáp Dần, quân Bắc Hán xâm phạm hai châu Lộ, Tấn, tướng giữ thành đánh đuổi chúng.
[21] Ngày Bính Thìn, Vua đến Quốc tử giám, rồi đến Nghênh Xuân uyển, mở tiệc cho các quan tùy tùng.
[22] Tháng 3, ngày Mậu Ngọ, Khống hạc hữu sương đô chỉ huy sứ Doãn Huân bị tước hết quan tước, đày làm Giáo luyện sứ ở châu Hứa.
Trước đó, Huân đốc thúc dân phu nạo vét sông Ngũ Trượng, dân phu Trần Lưu ban đêm bỏ trốn, Huân tự ý chém hơn mười đội trưởng, bắt được hơn bảy mươi người chạy trốn, đều cắt tai trái của họ. Có người đến cửa khuyết kêu oan, Binh bộ thượng thư Lý Đào đang ốm nằm ở nhà, biết việc này, gắng gượng viết tấu xin chém Huân để tạ lỗi với dân. Người nhà Lý Đào nói: “Ông đau lâu ngày, nên tự giữ gìn sức khỏe. Việc triều đình, hãy tạm bỏ qua.” Lý Đào giận dữ nói: “Chết là lẽ thường của con người, ta sao tránh khỏi. Nhưng ta làm Binh bộ thượng thư, biết việc quân hiệu vô tội giết người, há có thể không bàn đến?” Vua xem tấu, khen ngợi; nhưng nghĩ Huân vốn trung dũng, chỉ nhẹ tay trách phạt mà thôi.
Huân người Tuấn Nghi.
[23] Ngày Nhâm Tuất, nước Tam Phật Tề phái sứ sang triều cống.
[24] Ngày Quý Hợi, sai các quan cận thần đến các đền miếu trong kinh thành cầu mưa.
[25] Ngày Giáp Tý, ban chiếu rằng vì dân chúng ở Châu Nghệ đói kém, nên cấp cho hạt giống và lương thực.
[26] Ngày Đinh Mão, Vua đến Thái Thanh Quan, sau đó đến vườn sau của Khai Phong Doãn để dự tiệc và bắn cung.
[27] Thượng bảo các tể thần rằng: “Các chư hầu thời Ngũ Đại ngạo mạn càn rỡ, thường xuyên xử phạm pháp, giết người, triều đình bỏ qua không xét hỏi, chức năng của Bộ Hình gần như bị bỏ phế. Mạng người vốn quý giá, việc khoan dung với phiên trấn có đúng như thế chăng!” Bèn ra lệnh cho các châu từ nay sau khi xử xong án tử hình[4], phải ghi lại hồ sơ và tấu trình, ủy thác Bộ Hình xem xét lại.
[28] Lư Văn Dực, Phán quan phủ Hà Nam, bị cách chức; Tang Thực, Tham quân Pháp Tào, bị tước hai chức quan. Có một ni cô tên Pháp Thiên, tư lợi dùng tài sản của sư phụ, theo luật không đáng chết, nhưng Văn Dực xử tội trộm cắp, khiến bị xử tử, nên bị trách phạt.
[29] Ngày Kỷ Tỵ, mưa lớn, miễn buổi chầu cho bách quan.
[30] Ngày Ất Hợi, sai sứ đến Giang Nam, ban tặng vật phẩm quốc tín nhân dịp sinh thần của Đường chủ.
[31] Ban chiếu: “Hàn lâm học sĩ nên xếp hàng dưới các thị lang của các bộ. (Theo ‘Cửu Triều Thông Lược’ của Hùng Khắc: chiếu cho học sĩ xếp trên thị lang.) Những ai đã lên đến chức thừa lang, thì xếp trên thường thị. Khi lên đến chức thượng thư, theo vị trí cũ.” Theo lệ cũ, Hàn lâm học sĩ là thân tín của Vua, không tham gia ngoại triều, mỗi năm ngũ nhật khởi cư, xếp hàng sau tể tướng, trong yến tiệc ngồi trước nhất phẩm, khi hợp ban thì trên cả thượng thư. Lúc này, Đào Cốc làm Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Học Sĩ Thừa Chỉ, trong khi các đồng liêu như Lý Phưởng chỉ làm Lang trung các bộ, nên Cốc nhân việc tâu xin, khiến ban chiếu này, thực chất là tự lập dị, hạ thấp Phường và những người khác.
[32] Ngày Bính Tý, Quyền tri cống cử Vương Trứ tâu rằng có mười lăm người tiến sĩ như Mã Thích đỗ đạt.
[33] Ngày Đinh Sửu, Nữ Chân sai sứ đến triều cống.
[34] Ngày Mậu Dần, ban chiếu cho Tam Ty cấp quần áo mùa xuân và đông cho lính thú, đồng thời quan cấp xe cộ, không được điều động dân đinh.
[35] Ngày Kỷ Mão, Tô Doãn Nguyên, huyện lệnh huyện Phong Khâu, bị cách chức vì tâu việc mưa giáng không đúng sự thật.
[36] Ngày Nhâm Ngọ, các quan dâng lên bản định lại nghi thức xếp hàng trong triều, thăng Thị lang Lục tào lên trên Cấp sự trung và Xá nhân, Lang trung lên trên Bổ khuyết, Viên ngoại lang lên trên Thập di, Tiết độ sứ lên trên Thị lang Lục tào nhưng dưới Trung thư thị lang.
Theo lệ cũ, quan Bắc tỉnh thuộc hàng Thị tòng, quan ngũ phẩm đứng trên quan tứ phẩm Nam tỉnh, quan bát phẩm đứng trên quan ngũ phẩm Nam tỉnh[5], Tiết độ sứ đứng dưới các ty tam phẩm[6], từ đó sửa đổi lại.
[37] Ngày Đinh Hợi, di dân hàng của Bắc Hán đến Hình châu, Minh châu, cấp lương thảo theo đầu người.
[38] Phùng Mật nhà Đường dâng biểu xin lại nhà cũ và ruộng đất ở Thư châu, Vua ban chiếu chuẩn y.
[39] Cấm dân chúng hỏa táng.
(Theo ‘Đông Đô sự lược’ của Vương Xưng: Chiếu viết: “Bậc Vương giả đặt ra quy chế về quan tài và việc chôn cất, nhằm làm dày nhân luân và thống nhất phong hóa. Gần đây, nhiều người thường hỏa táng, rất trái với điển lễ[7], từ nay nên cấm chỉ.”)
[40] Tháng này, ban chiếu tăng mức xử phạt đối với việc buôn lậu muối công lên đến 30 cân, nấu muối kiềm đến 10 cân thì xử tử. Muối dùng cho tằm đưa vào thành thị trên 100 cân phải tâu lên xin xét. Lại tu sửa lệnh cấm rượu và men. Phàm ai tư chế, định tội theo mức: trong thành 20 cân, ngoài làng 30 cân thì xử tử. Dân nào dám mang rượu tư vào trong phạm vi 50 dặm quanh kinh thành, 20 dặm quanh Tây Kinh và các châu thành, từ 5 đấu trở lên thì xử tử. Ngoài phạm vi quy định, nếu có nơi bán rượu công mà rượu tư vào địa phận đó 1 thạch thì xử tử.
(Theo ‘Bản chí’.)
[41] Ban đầu, Lưu Tòng Hiệu đã đến xưng thần, nghe tin Đường chủ dời về phương nam, nghi ngờ sẽ bị tập kích, nên rất lo sợ, bèn sai con là Thiệu Cơ mang lễ vật hậu hĩnh đến tạ lỗi, lại ngầm cử sứ giả mượn đường Ngô Việt để vào triều cống. Thiệu Cơ đến Dự Chương, thì tang lễ của Nguyên Tông đã được đưa về phía đông. (Nguyên Tông là Lý Cảnh. Nay theo phép của sách ‘Tư trị thông giám’, các nước ngụy quyền đều dùng hiệu gốc của họ.) Thiệu Cơ nhân đó đến Kim Lăng, Đường chủ giữ lại.
Thượng cũng sai sứ ban thưởng hậu hĩnh cho Tòng Hiệu, nhưng chưa đến nơi thì Tòng Hiệu đã chết vì bệnh ung thư lưng. Con út là Thiệu Tư nắm quyền lưu thủ, chẳng bao lâu, Ngô Việt cử sứ giả đến thăm Tuyền Châu, Thiệu Tư đêm triệu sứ giả đến nói chuyện, Thống quân sứ Trần Hồng Tiến vu cáo Thiệu Tư mưu phản, định đem đất đai dâng cho Ngô Việt, bèn bắt Thiệu Tư giao cho Đường, suy tôn Thống quân phó sứ Trương Hán Tư làm Lưu hậu, còn mình làm Phó sứ[8].
(Trần Hồng Tiến, người Lâm Hoài, xuất hiện lần đầu vào năm Khai Vận nguyên niên. Trương Hán Tư, cũng xuất hiện năm Khai Vận nguyên niên, không rõ quê quán. ‘Lưu Tòng Hiệu truyền’ chép rằng Tòng Hiệu lâm bệnh, bị Nha hiệu Trương Hán Tư và Trần Hồng Tiến ép buộc, Hán Tư tự xưng Lưu hậu, Hồng Tiến làm Phó. Nhưng ‘Trần Hồng Tiến truyền’ lại chép rằng Tòng Hiệu chết, Thiệu Tư nắm quyền lưu thủ hơn một tháng, Hồng Tiến bắt Thiệu Tư, suy tôn Hán Tư. Hai truyện mâu thuẫn nhau. Tham khảo các sách khác, thì ‘Trần Hồng Tiến truyền’ chép đúng, còn ‘Lưu Tòng Hiệu truyền’ sai. Bệnh của Tòng Hiệu hẳn là vào mùa đông năm thứ hai, còn chết vào mùa xuân năm nay. ‘Đại định lục’ chép vào tháng 3 việc Tòng Hiệu chết. Nhưng không rõ ngày nào? ‘Thập quốc ký niên’ cũng không chép ngày.)
[42] Mùa hạ, tháng 4, ngày Ất Mùi, chiếu rằng những người phụng mệnh đi sứ Giang Nam không được mang tiền của nước ấy qua sông phía bắc.
[43] Ngự sử trung thừa Lưu Ôn Tẩu người Lạc Dương dâng sớ tâu rằng: “Thần thấy các cơ quan ở hai kinh đô dần thiếu người cũ, nhiều việc xưa bị bỏ phế, tuy việc kiểm tra vẫn còn ghi trong sổ sách, nhưng thực hiện phải do các cơ quan chủ quản. Vì theo quy định, người được bổ nhiệm do đủ năm hạn, khi trở về cơ quan thường được giảm bớt việc tuyển chọn, đến mùa đông tập trung điều động, người được bổ nhiệm lại sớm rời kinh. Lại có người vừa mãn nhiệm sơ quan, không trở về cơ quan cũ, chỉ xưng là có kinh nghiệm trước, để mong được miễn dịch. Lại có người từng bị đình chức, muốn trở về cơ quan, nhưng nguyên sắc chỉ không đề cập, không có cách nào phục chức. Khiến người tại chức mất đi sự rèn luyện, người đã qua nhiệm khó mà trở lại. Thần mong từ nay các cơ quan chủ quản, người được bổ nhiệm và trở về cơ quan, nếu sau khi giảm bớt mà còn thiếu dưới ba lần tuyển chọn, vẫn phải ở lại cơ quan thực hiện công việc, đủ ba mươi tháng mới được phép tập trung. Nếu sau khi giảm bớt mà còn thiếu trên ba lần tuyển chọn, hoặc tại chức không đủ tư cách khảo hạch, thì theo nguyên sắc chỉ xử lý. Nếu tại nhiệm bị đình chức hoặc tại cơ quan bị đình chức, sau khi được ân xá, do hình bộ cấp giấy xóa án, lại bắt trở về cơ quan, nếu không có chỗ trống, thì lệnh giữ chỗ trống, còn lại theo sắc chỉ và quy định xử lý.” Vua nghe theo.
(Lưu Ôn Tẩu, lần đầu xuất hiện vào tháng 6 năm Khai Vận thứ nhất, là con của Lưu Nhạc.)
[44] Ngày Bính Thân, lấy Tiền Trung chính tiết độ sứ Triệu Tán làm Chương Vũ tiết độ sứ. Triệu Tán nhận mật chỉ riêng, được phép tùy nghi hành sự. Khi sắp đến Diên Châu, ông chia quân bộ và kỵ binh đặt trước sau, khiến liên tục không dứt. Trong rừng rậm, từ xa đã thấy cờ xí, bộ tộc Khương, Hồn đến đón, không thể đoán được số lượng, nhìn nhau mất hết khí thế, không ai không kính sợ. Triệu Tán là con của Triệu Diên Thọ.
(Triệu Tán, lần đầu xuất hiện vào năm Thiên Phúc thứ 12 đời Hán.)
[45] Ngày Mậu Tuất, Vua đến Thái Thanh Quan.
[46] Ngày Canh Tý, người Hồi Cốt ở Tây Châu là A Đốc dâng vật phẩm địa phương.
[47] Ngày Nhâm Dần, châu Hình tâu rằng bốn trăm bảy mươi dân Bắc Hán đến đầu hàng.
[48] Ngày Ất Tỵ, Hoàng huynh Quang Tế được truy tặng chức Trung thư lệnh, truy phong là Ung vương. Hoàng đệ thứ năm được truy tặng chức Thị trung, truy phong là Quỳ vương, ban tên là Quang Tán. Cố phu nhân quận Hội Kê họ Hạ được truy tôn làm Hoàng hậu. Hoàng muội thứ ba được truy phong là Trần quốc Trưởng Công chúa. Phu nhân họ Hạ là người Khai Phong. Công chúa là con gái út của Tuyên Tổ, cùng mẹ với Vua, chưa tròn tuổi đã qua đời.
[49] Ngày Mậu Thân, thiết lập trại Bách Tỉnh thuộc Trấn châu.
[50] Bắc Hán xâm phạm Lân châu, Phòng ngự sứ Dương Trọng Huân đánh đuổi họ.
[51] Định Nam Tiết độ sứ Lý Di Hưng sai sứ dâng cống 300 con ngựa. Vua đang sai thợ ngọc chế tạo đai, thân đến xem xét, gọi sứ giả hỏi xem bụng của Di Hưng to thế nào, sứ giả tâu rằng Di Hưng có bụng to. Vua nói: “Chủ tướng của ngươi thực là người có phúc.” Bèn sai sứ mang đai ban cho ông, Di Hưng cảm phục.
[52] Trước đây, gia quyến của các tướng sĩ nhà Đường đầu hàng vẫn còn ở Giang Nam. Ngày mùng 1 tháng 5 (Đinh Tỵ), ra chiếu cho Đường chủ tìm kiếm và gửi về.
[53] Ngày Giáp Tý, Vua đến chùa Tướng Quốc cầu mưa, rồi đến vườn Nghênh Xuân tổ chức yến tiệc bắn cung.
[54] Ngày Ất Hợi, huy động dân chúng Lộ châu mở đường Thái Hành thông suốt việc vận chuyển lương thực.
[55] Ngày Bính Tý, thăng huyện Bắc Hải thuộc Thanh châu thành quân Bắc Hải, vẫn lấy Nội điện trực đô Chỉ huy sứ Dương Quang Mỹ làm Quân sứ[9]. Quang Mỹ cai trị giản dị, dân chúng rất yêu mến. Ba năm sau, được triệu về, hàng trăm dân Bắc Hải đứng trước cửa cầu xin ông ở lại, Vua ra chiếu dụ, họ không chịu rời, đánh người đứng đầu, họ mới chịu giải tán. Quang Mỹ là người Văn Thủy.
[56] Các châu Hà Bắc bị hạn hán, sai trung sứ đến xem xét, lại lệnh cho Tư huân Lang trung Hà Ấu Xung cùng sáu người khác đi kiểm tra tình hình mùa màng khô hạn.
(Ấu Xung, chưa thấy tiểu sử.)
[57] Ngày Giáp Thân, Vua đến Thái Thanh Quán, rồi đến chùa Tướng Quốc cầu mưa.
[58] Ngày Ất Dậu, ra chiếu bãi bỏ yến nhạc, Thái quan dâng cơm chay.
[59] Chiếu ban xuống yêu cầu các quan Huyện lệnh phải kiểm tra, giám sát việc phân bổ sai dịch[10], phải đảm bảo công bằng. Nếu có việc không đúng cho phép dân tự tố giác, kiện tụng. Các cơ quan trong kinh bổ nhiệm lại viên thì phải không cản trở việc sai dịch mới được nghe theo.
[60] Tháng này, bắt đầu đại quy hoạch cung điện, bắt chước theo quy chế của Tây Kinh, sai Hàn Trọng Uân đứng ra trông coi việc này.
[61] Tháng 6, ngày Tân Mão, ban chiếu ở Châu Túc phát lương cứu tế dân đói kém.
[62] Trấn Tịch Dương thuộc Châu Tần, là đất huyện Phục Khương xưa, tiếp giáp phía tây bắc với vùng đầm lầy rộng lớn, nơi sản xuất gỗ tốt, người Nhung từ lâu đã độc chiếm nguồn lợi này. Khi Thượng thư Tả thừa Cao Phòng nhận chức Tri Châu Tần, bèn đề nghị lập Ty Thái tạo, khai phá đất đai hàng trăm dặm, xây dựng đồn lũy ở những nơi hiểm yếu, đóng 300 quân đồn trú. Phía bắc sông Vĩ thì thuộc về người Nhung, phía nam sông Vĩ thì thuộc về Trung Hoa, mỗi năm thu được hàng vạn cây gỗ lớn để cung cấp cho kinh đô.
Bấy giờ, tù trưởng người Nhung là Thượng Ba Vu dẫn quân đến tranh chấp, gây thương vong cho quân đồn trú. Cao Phòng xuất quân giao chiến, bắt giữ hơn 40 người thuộc bộ đảng của họ rồi tâu lên triều đình.
Vua không muốn gây chuyện ở biên giới, ngày Quý Tỵ, cử Xu mật sứ Ngô Đình Tộ làm Hùng Vũ Tiết độ sứ đến thay Cao Phòng. Một ngày trước đó, Vua nói với Ngô Đình Tộ: “Khanh đã nắm giữ việc Xu mật lâu năm, tuổi tác dần cao, nay cho Khanh đến Châu Tần để cân bằng việc lao nhàn. Ngày mai chiếu ban ra, sợ Khanh vì rời xa Trẫm mà không khỏi lo lắng, nên Trẫm báo trước cho Khanh.”
[63] Năm thứ hai dưới triều Chu Thế Tông, bắt đầu xây dựng Quốc Tử Giám và thiết lập các học xá. Sau khi lên ngôi, Vua liền ban chiếu cho các quan tăng cường tu sửa đền thờ, tạc tượng và vẽ chân dung các bậc Tiên Thánh, Tiên Hiền, Tiên Nho. Vua tự viết lời tán dương Khổng Tử và Nhan Hồi, lệnh cho các tể thần và quan lại dưới quyền soạn lời tán cho các vị khác. Xa giá của Vua nhiều lần đến thăm. (Theo sách ‘Sơn đường khảo sách’, tháng sáu ngày Tân Mão, Vua lại đến Quốc Tử Giám, nhưng trong sách này không ghi rõ. Xem xét các sách ‘Tống sử’, ‘Tống sử ký’, ‘Tục thông giám’ đều không ghi, xin ghi chú để tham khảo.) Khi đó, Tả gián nghị đại phu người Hà Nam là Thôi Tụng được cử làm việc tại Quốc Tử Giám, bắt đầu tập hợp học sinh giảng sách, Vua nghe tin rồi khen ngợi. Ngày Ất Mùi, Vua sai trung sứ ban rượu và hoa quả cho mọi người. Sau đó lại ban chiếu dùng nghi lễ bậc nhất, đặt 16 cây kích trước cổng miếu thờ Văn Tuyên Vương.
(Dựa theo ‘Thực lục bản kỷ’ và ‘Hội yếu’, Thái Tổ năm Kiến Long thứ hai, tháng mười một, lần đầu đến Quốc Tử Giám, năm thứ ba tháng giêng lại đến. Tuy nhiên, ‘Tổ tông cố sự’ lại nói rằng năm đầu tháng giêng đến lần đầu, tháng hai đến lần thứ hai, nhân đó ban chiếu tu sửa đền thờ, tạc tượng các bậc Thánh Hiền. Niên đại trong sách này khác biệt so với các sách khác, nên không dùng. Còn việc tu sửa đền thờ và tạc tượng Thánh Hiền, ‘Hội yếu’ ghi là việc từ đầu triều, không phải vì Vua đến Quốc Tử Giám rồi mới có hành động này. ‘Cố sự’ có lẽ nhầm lẫn. Thôi Tụng là con của Thôi Hiệp. Xuất hiện lần đầu vào tháng ba năm Quảng Thuận thứ nhất.)
[64] Ngày Đinh Dậu, Vua đến Thái Thanh Quan.
[65] Hữu bổ khuyết là Viên Phượng, vì kiểm tra ruộng không đúng sự thật, bị giáng làm huyện lệnh Khúc Phụ.
(Viên Phượng, không thấy ghi chép.)
[66] Ngày Kỷ Hợi, Vua ban ân xá giảm tội tử hình cho tù nhân ở Kinh kỳ và các châu Hà Bắc, do hạn hán.
[67] Ngày Nhâm Dần, trời mưa.
[68] Ngày Đinh Mùi, Vua sai Ngô Đình Tộ mang chiếu đến Tần Châu, tha tội cho Thượng Ba Vu, thả hết các tù binh bị bắt, ban cho cẩm bào và đai bạc, rồi bãi bỏ việc khai thác gỗ.
[69] Ngày Ất Mão, Vua đến Vườn Nghênh Xuân dự yến tiệc và bắn cung.
[70] Mùa thu, tháng bảy, ngày Kỷ Mùi, cấm các châu đốt đèn trong lễ Trung Nguyên.
[71] Ngày Canh Thân, Đường chủ sai Khách tỉnh sứ Trạch Như Bích đến cống nạp, cám ơn vì lễ vật sinh thần.
(Trạch Như Bích, không thấy ghi chép.)
[72] Binh sĩ đầu hàng từ Giang Nam, những kẻ yếu không thể chiến đấu, ngày Nhâm Tuất, trả về mấy nghìn người cho Đường.
[73] Ngày Ất Sửu, Tri châu Thư Châu, Tả gián nghị đại phu người Lịch Thành là Phùng Toản tâu: “Trong địa giới châu có lợi từ cây cỏ cô, bồ, cá, ba ba, dân chúng thường dựa vào đó để tự cấp. Trước đây, Phòng ngự sứ Tư Siêu tăng thu thành thuế chợ, cướp bóc dân, hà khắc tỉ mỉ, khiến dân chúng mệt mỏi, kêu ca về những điều bất lợi, nên bãi bỏ.” Vua liền nghe theo lời thỉnh cầu của ông.
[74] Xu mật trực học sĩ, Ty môn lang trung người An Bình là Đỗ Vỹ, phong thái đẹp đẽ, giỏi viết thư từ, làm quan dưới triều Chu Thế Tông, giữ chức gần Vua, dâng chương tâu việc, thường chỉ trúng những tệ nạn của thời cuộc, nhưng lại cậy rượu mà không kính cẩn. Khi ấy Vua đang coi quân cấm vệ, thường khoan dung cho ông, đến nay bãi chức ông làm Giá bộ lang trung. Tể tướng định bổ nhiệm ông làm Gián nghị đại phu, nhưng Vua không cho.
[75] Ngày Ất Hợi, chém chết Văn tư sứ là con của Thường Sầm tên Huân ở chợ phía đông. Huân từ nhỏ hư hỏng, từng giả làm quan Cung phụng đến Tứ Châu, bị trưởng quan phát hiện, bắt giải về kinh, nên bị xử tử.
[76] Trước đó, có quân sĩ trong đội Vân Tiệp giả mạo khắc ấn của Ty Thị vệ, bắt được, liền chém. Vua nói: “Các quân gần đây đã được tuyển chọn và luyện tập kỹ càng, mà vẫn còn có kẻ bất trị như vậy sao!” Ngày Canh Thìn, sai lùng bắt hết, đày ra các đảo. Từ đó, bọn gian hoạt mới chấn chỉnh.
[77] Ngày Kỷ Mão, Tróc sinh chỉ huy sứ của Bắc Hán là Lộ Quý cùng mười người khác đến hàng, đều được bổ làm Nội điện trực.
[78] Ngày Tân Tỵ, sai Cấp sự trung Lưu Tải cùng mười người khác đi khảo sát ruộng bị hạn tại các châu ở Hà Bắc.
[79] Ra chiếu cho các quan triều thần đi sứ, khi trở về, phải trình bày những điều mắt thấy tai nghe về lợi ích và tệ nạn của dân gian để tâu lên [11]
[80] Hữu vệ suất phủ suất là Tiết Huân coi kho Thường Doanh, thu tô của dân, đong đo thiếu hụt, bị chiếu bãi chức, đày đi Nghi Châu, lại trong kho bị xử tử.
(Cựu lục cho là việc năm thứ hai, nay theo Tân lục.)
[81] Năm châu là Duyễn, Tế, Đức, Từ, Minh có nạn châu chấu.
[82] Tháng 8, ngày Bính Tuất mùng một, ra dụ cho Đại Lý khanh, người Phạm Dương là Kịch Khả Cửu về hưu với chức Quang lộc khanh. Khả Cửu đã quá bảy mươi tuổi, không có ý xin về hưu, Vua đặc cách ra lệnh cho ông.
(Tân lục nói Khả Cửu khẩn khoản xin nghỉ hưu, Quốc sử cũng chép giống. Nay theo Hội yếu.)
[83] Ngày Canh Dần, lấy Trấn Hải, Trấn Đông tiết độ phó đại sứ Tiền Duy Tuấn làm Kiến Vũ tiết độ sứ. Duy Tuấn là con của Ngô Việt Vương Tiền Thục. Thục xin ban cho con mình cờ tiết vùng Lĩnh Nam, Vua đồng ý.
[84] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu cho Khai Phong phủ bắt giữ cương quan Vương Huấn và ba người khác ở Thái Hà vụ[12], xử tử bêu đầu ở chợ. Vì Huấn và những người kia dùng cám, hạt lép, đất cát trộn vào quân lương, bị Trương Nghi và những người khác tố cáo. Thưởng cho Nghi và những người kia áo gấm, đai bạc.
[85] Cùng ngày, sai Dẫn tiến sứ Quách Thừa Thiên hội quân với Ngô Đình Tộ ở Tần Châu, dẫn binh đến Thượng Thư trại, đuổi quân Phiên về bản bộ.
[86] Ngày Ất Mùi, Tả thập di, Tri chế cáo người Ngu Hương là Cao Tích dâng tấu: “Gần đây, các quan trong triều vâng chiếu cử người tài, có kẻ nhờ hối lộ mà được tiến cử. Xin từ nay cho phép người thân, nô tì, hàng xóm tố cáo, và ban thưởng hậu hĩnh.” Lại xin khi bổ nhiệm quan tư pháp và chức quan, nên hỏi mười điều về luật pháp thay cho việc thi phán. Vua đều chấp thuận.
[87] Tháng này, ở vùng An, Phục có voi phá hoại mùa màng, sai sứ bắt chúng.
[88] Tả lĩnh quân vệ tướng quân Đỗ Thẩm Quỳnh, anh của Chiêu Hiến Thái hậu, cùng các em là Thẩm Triệu, Thẩm Tiến sống ở Thường Sơn, nay đều được triệu về kinh.
[89] Tháng chín, ngày Bính Thìn mùng một, lấy Thẩm Quỳnh làm Tả long vũ đại tướng quân, Thẩm Triệu làm Tả thần vũ đại tướng quân, Thẩm Tiến làm Tả vũ vệ đại tướng quân, đều cho về hưu, ban nhà ở kinh thành. Khi Thái hậu còn sống, Thẩm Quỳnh từng vào yết kiến trước, đặt tiệc ở Vạn Tuế điện, Vua và Hoàng đệ Quang Nghĩa vì là anh em cậu, đều nâng chén chúc thọ.
[90] Xuống chiếu cấm các cử nhân đỗ đạt gọi quan chủ khảo là ân môn, sư môn và tự xưng là môn sinh.
[91] Ngày Mậu Ngọ, Thiên Bình tiết độ sứ, Thị vệ mã bộ quân đô chỉ huy sứ, Đồng bình chương sự Thạch Thủ Tín dâng biểu xin từ chức quân vụ, được chấp thuận, đặc cách gia phong tước ấp.
[92] Ngày Canh Ngọ, Tần Châu báo rằng Thượng Ba Vu dâng đất huyện Phục Khương.
[93] Ngày Nhâm Thân, ban chiếu cho Tả gián nghị đại phu Thôi Tụng cùng Trung sứ Lư Đức Nhạc và những người khác cùng tu sửa miếu Vũ Thành Vương. Lại giao cho Thôi Tụng tra cứu và chọn lựa những mưu thần, danh tướng có công lao nổi bật từ cuối thời Đường trở về đây, rồi trình tên lên.
[94] Ngày Quý Dậu, lấy những tờ chương tấu phụ đệ gửi xuống Thượng thư tỉnh, tập hợp các quan tham khảo bàn luận, nếu có nội dung nào có ích chính trị và có thể thi hành thì tâu lên.
[95] Ngày Bính Tý, nước Chiêm Thành sai sứ đến triều cống.
[96] Cấm dân chặt dâu và táo làm củi. Lại ra chiếu cho hai bờ sông Hoàng và Biện, hàng năm giao cho quan địa phương khuyến khích dân trồng nhiều du và liễu để phòng ngừa sông vỡ.
[97] Ngày Quý Mùi, lập lại khoa thi Thư phán bạt tuệ.
(Theo ‘Quốc sử’, vào ngày Ất Mùi tháng tám đã ghi việc tái lập khoa thi này. Nay theo ‘Thực lục’, vì ngày Ất Mùi mới bắt đầu lệnh cho các quan điều tra và chuẩn bị, còn việc thi hành thực sự là vào ngày Quý Mùi.)
[98] Ngày Giáp Thân, Quan sát phán quan Đồng châu là Từ Quang Thừa vì xử án sai lầm bị cách chức.
[99] Vũ An Tiết độ sứ [13], kiêm Trung thư lệnh Chu Hành Phùng lâm bệnh nặng, triệu tập tướng lại, giao phó con trai là Chu Bảo Quyền và dặn: “Ta từ nơi ruộng đồng dấy binh, cùng lúc mười người, đều bị giết chết, chỉ còn Thứ sử Hoành Châu Trương Văn Biểu (Văn Biểu, người Lãng Châu, xuất hiện lần đầu năm Quảng Thuận thứ 2). Hắn thường bất mãn vì không được làm Hành quân Tư mã. Khi ta chết, Văn Biểu ắt tạo phản[14], nên dùng Dương Sư Phan đánh dẹp. Nếu không thắng, hãy giữ chặt thành trì, không giao chiến, tự quy phục triều đình là được.”
Sư Phan cùng Hành Phùng là người cùng quê, thông gia, từng theo Hành Phùng làm Thân quân Chỉ huy sứ, lập nhiều công, được Hành Phùng tin dùng. Hành Phùng mất, Bảo Quyền thay quyền.
Hành Phùng sùng tín Phật giáo, mở rộng độ tăng ni, trai giới sám hối không ngừng. Mỗi khi gặp tăng nhân, dù già trẻ đều vái lạy, tự tay cầm chậu khăn, nấu nước rửa tội. Ông bảo tả hữu: “Ta giết người nhiều, không nhờ Phật lực thì sao giải được oan nghiệt?”
(Theo Cửu quốc chí, Bảo Quyền kế vị cha vào tháng 9, nhưng Thực lục đến tháng mười, ngày Ất Mùi mới chép việc Hành Phùng mất, có lẽ do ngày tấu trình đến triều đình. Nay theo Cửu quốc chí, ghi phụ vào cuối tháng 9. Thập quốc kỷ niên cũng chép vào tháng 9.)
[100] Mùa đông, tháng 10, ngày Ất Dậu mùng một, bắt đầu ban áo mặc cho các quan văn võ thường tham gia triều chính. Cơ quan hữu ty tâu: “Theo lệ cũ, việc ban áo chỉ dành cho tể tướng, học sĩ cùng các tướng lĩnh lớn.” Vua phán: “Không ban cho trăm quan, thật là vô lý.” Bèn ban cho tất cả.
[101] Ngày Bính Tuất, Vua ngự đến Thái Thanh Quán, rồi đến Ty đóng thuyền, xem tập thủy chiến.
[102] Ngày Mậu Tý, phong Lệ Châu đoàn luyện sứ Hà Kế Quân làm Quan Nam binh mã đô giám.
[103] Ngày Quý Tỵ, cơ quan hữu ty dâng lên bản mới sửa đổi về các quy chế: ‘Tuần tư cách’, ‘Trưởng định cách’, ‘Biên sắc cách’, mỗi loại một quyển. Chiếu chỉ rằng người được tuyển dưới 30 tuổi vẫn không được giữ chức lệnh lục, còn lại đều có thể.
[104] Ngày Kỷ Hợi, Vua ngự đến Nhạc Đài, sai các quân tập luyện cưỡi ngựa bắn cung, rồi đến Ngọc Tân Viên.
[105] Huyện lệnh Quảng Tế là Lý Thủ Trung phạm tội tham nhũng, bị phạt đánh trượng và đày ra đảo Hải Môn.
[106] Ngày Tân Sửu, phong Khu mật phó sứ, Binh bộ thị lang Triệu Phổ làm Kiểm hiệu thái bảo, sung chức Khu mật sứ. (Theo sách ‘Sơn đường khảo sách’ thì ghi là Kiểm hiệu thái úy sung Khu mật sứ.) Khu mật sứ không kiêm chính quan, bắt đầu từ Triệu Phổ. Lại phong Tuyên huy bắc uyển sứ Lý Xử Vân làm Tuyên huy nam viện sứ, kiêm Khu mật phó sứ. Trước đây, Lý Xử Vân được triệu từ Dương Châu về, dân già trẻ chặn đường khóc lóc, mấy ngày không đi được.
[107] Trương Văn Biểu nghe tin Chu Bảo Quyền lên ngôi, tức giận nói: “Ta cùng Hành Phùng đều xuất thân hàn vi, lập công danh, nay sao lại phải quỳ gối thờ một đứa trẻ!” Nhân dịp Chu Bảo Quyền phái quân thay phiên canh giữ Vĩnh Châu, đi qua Hoành Dương, Trương Văn Biểu bèn lợi dụng để làm phản, mặc tang phục giả, như thể sắp đến Vũ Lăng để chịu tang.
Khi qua đất Đàm Châu, lúc đó Hành quân tư mã Liễu Giản đang giữ chức lưu hậu, vốn khinh thường Trương Văn Biểu, không hề phòng bị. Đang lúc yến tiệc, người báo quân của Trương Văn Biểu đến, Liễu Giản không để ý, nói với các khách: “Văn Biểu đến thì bắt được, có gì đáng lo.” Rồi tiếp tục ăn uống. Chốc lát, Trương Văn Biểu dẫn quân xông vào phủ, Liễu Giản say không thể cầm cung tên, chỉ ngồi bệ vệ mắng nhiếc, cùng hơn mười người khách đều bị giết. Trương Văn Biểu lấy ấn tín, tự xưng quyền lưu hậu, dâng biểu tâu lên triều đình.
○ Bảo Quyền liền lệnh cho Dương Sư Phan dẫn toàn quân chống lại Văn Biểu, nhắc lại lời của tiên nhân, cảm động rơi nước mắt. Sư Phan cũng khóc, quay lại nói với quân sĩ: “Các ngươi thấy chủ nhân chưa, tuổi còn nhỏ mà hiền đức như vậy.” Quân sĩ đều phấn chấn, ai nấy đều muốn cống hiến.
Bảo Quyền lại sai sứ cầu viện ở Kinh Nam, và đến xin viện binh[15], Văn Biểu cũng dâng sớ tự biện.
(Theo ‘Bột Hải hành niên ký’, Trương Văn Biểu đánh chiếm Đàm Châu vào tháng 10 năm này, nhưng ‘Quốc sử Chu Bảo Quyền truyền’ lại chép là mùa xuân năm sau, có lẽ là sai. Xét ‘Thực lục’, ngày Giáp Thìn tháng 12 đã sai Triệu Toại mang chiếu dụ Văn Biểu, sao có thể đến mùa xuân năm sau mới phản, có lẽ tháng giêng năm sau, Văn Biểu vẫn còn chiếm giữ Đàm Châu.)
[108] Ngày Tân Hợi, đi săn ở vùng ngoại ô.
[109] Tháng 11, ngày Đinh Tỵ, lệnh cho các huyện thuộc châu đều lập kho sách chiếu. Dùng ý kiến của Tông chính khanh Hà Gian là Triệu Củ.
(Củ, lần đầu xuất hiện vào năm Thiên Phúc thứ 12.)
[110] Ngày Tân Dậu, tổ chức duyệt binh lớn ở phía tây ngoại thành.
[111] Ngày Quý Hợi, ban chiếu cho quần thần đi sứ các đạo, không được tư lợi nhờ vả, kẻ vi phạm sẽ bị xét tội.
(Theo ‘Đông Đô sự lược’ của Vương Xưng: Ngày Quý Hợi, chiếu viết: “Xưa gọi là đi sứ bốn phương, không làm nhục mệnh Vua, có thể gọi là kẻ sĩ. Từ nay đi sứ các đạo, kẻ nào dám nhờ vả tư lợi, sẽ trị tội.”)
[112] Ngày Giáp Tý, lại tổ chức duyệt binh lớn ở phía tây ngoại thành.
[113] Vua nói với quần thần: “Từ thời Tấn, Hán đến nay, quân vệ sĩ không dưới mấy chục vạn, nhưng người dùng được rất ít. Trẫm vừa xét sổ sách, loại bỏ những kẻ yếu kém, lại tự mình kiểm tra tài nghệ đánh, cưỡi ngựa, bắn cung của họ, nay đều là tinh nhuệ, nên thuận thời lệnh mà diễn tập võ nghệ.” Ban chiếu cho các tướng hiệu ở Điện tiền và Thị vệ hai ty, không được chiếm dụng quân số quá mức, hạn định số lượng, ghi vào lệnh.
(Việc này được ghi thêm, không phải vì diễn tập võ nghệ mới ban chiếu.)
[114] Trước đó, theo điều lệ, các quan chức châu, huyện chăm lo dân chúng có phương pháp, khiến số hộ khẩu tăng thêm, thì cứ mỗi thập phần tăng thêm một phần, các chức Thứ sử, Huyện lệnh đều được tiến bậc khảo xét một cấp. Nếu châu không đủ năm ngàn hộ, huyện không đủ năm trăm hộ, đều lấy năm ngàn, năm trăm hộ làm chuẩn để tính phần. Nếu chăm lo không đúng phương pháp, dẫn đến số hộ khẩu giảm sút, cũng theo như phép tăng hộ mà giảm một phần, và hạ bậc khảo xét một cấp. Các chủ ty hành sự theo thói quen, thường không tiến bậc khảo xét, chỉ xem xét những thiếu sót, không phân biệt nặng nhẹ, liền ghi là loại kém.
Đến nay, có quan tâu rằng: “Từ nay xin cứ giảm một phần hộ khẩu, thì định tội liên quan đến việc thiếu hụt một phần trở lên, và hạ bậc khảo xét một cấp. Nếu vì công việc bỏ bê, bị chế phạt, cũng hạ một cấp.”
[115] Lại tâu: “Thời hạn làm việc của quan kinh đô sai khác nhau, có người ba mươi sáu tháng làm đủ, có người ba mươi tháng, có người hai mươi tháng thì dừng nhận tiền lộ phí. Các quan đại thần hàng năm ghi chép sổ sách khảo xét, đều không có chuẩn mực. Từ nay xin các quan trong bộ kiêm nhiệm tiền lộ phí, đều lấy ba mươi tháng làm đủ. Nếu có việc khảo xét, cũng lấy thời hạn này làm mức. Tiền lộ phí vẫn chiếu theo lệ cũ.” Đều được chấp thuận.
[116] Đường chủ sai Thủy bộ lang trung Cố Di sang cống.
(Cố Di, chưa thấy rõ.)
[117] Hình bộ Thượng thư Phạm Dương Biên Quy Đảng ba lần dâng sớ xin về hưu, được phong làm Hộ bộ Thượng thư về hưu.
[118] Tiết độ sứ Kinh Nam Cao Bảo Húc bị bệnh nặng, triệu Nha nội Đô chỉ huy sứ Trường An Lương Diên Tự đến, bảo rằng: “Ta bệnh sẽ không khỏi, anh em ai có thể giao phó việc hậu sự?”
Diên Tự đáp: “Ngài không nhớ Chính Ý Vương sao? Tiên Vương bỏ con mình là Kế Xung, giao quân phủ cho ngài, nay Kế Xung đã trưởng thành rồi.”
Bảo Húc nói: “Lời ngươi nói phải.” Liền giao cho Kế Xung quyền xử lý việc quân mã trong ngoài. Ngày Giáp Tuất, Bảo Húc mất.
(Bảo Húc mất ngày hai mươi tháng mười một, theo niên biểu, quốc sử cũng ghi tương tự, riêng ‘Cửu quốc chí’ ghi là năm sau, nay không theo.)
[119] Ngày Bính Tý, Vua nước Tam Phật Tề là Thích Lợi Gia, Vua nước Cao Ly là Chiêu đều sai sứ sang cống phẩm vật.
[120] Ngày Kỷ Mão, nhà Vua đi săn ở vùng ngoại ô gần kinh thành.
[121] Ngày Nhâm Ngọ, lần đầu ban lịch cho vùng Giang Nam.
[122] Tháng 12, ngày Bính Tuất, Tả tán thiện đại phu Đoàn Chiêu Duệ vì kiểm tra ruộng đất của dân không đúng sự thật, bị giáng chức làm Tư pháp tham quân ở Hải Châu.
[123] Ngày Đinh Hợi, phong Vũ bình tiết độ phó sứ, quyền tri Lãng Châu Chu Bảo Quyền làm Vũ bình tiết độ sứ.
[124] Truy tặng Long tiệp tả sương đô chỉ huy sứ, Giang Châu phòng ngự sứ Mã Toàn Nghĩa làm Trấn quốc tiết độ sứ.
Toàn Nghĩa đang bệnh nặng, Vua hàng ngày sai thầy thuốc đến khám, trung sứ liên tục đến hỏi thăm, và truyền mật chỉ[16] rằng: “Khi nào bệnh thuyên giảm, sẽ ban cho ngươi tiết việt ở Hà Dương.” Lúc đó bệnh Toàn Nghĩa đã rất nặng, ông chỉ gật đầu tạ ơn. Khi ông mất, Vua rơi lệ, đặc cách ban thêm tước vị. Con trai ông mới 7 tuổi, được triệu vào cung, ban tên là Tri Tiết, bổ làm Tây đầu cung phụng quan, và được ưu đãi gia đình.
[125] Theo chế độ cũ, những kẻ cướp lấy của cải trị giá từ 10 tấm vải trở lên sẽ bị xử giảo. Ngày Canh Dần, xuống chiếu đổi thành kẻ nào lấy của trị giá 3000 quan tiền đủ mạch sẽ bị xử tử.
(Đến tháng 8 năm Cảnh Hữu thứ 2 lại đổi.)
[126] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu cho Trung thư môn hạ: “Mỗi huyện đặt thêm một chức Huyện úy, dưới quyền Chủ bạ, bổng lộc ngang với Chủ bạ. Tất cả các vụ trộm cắp, đánh nhau và kiện tụng trước kia giao cho Trấn tướng xử lý, nay giao lại cho Huyện lệnh và Huyện úy phụ trách. Từ huyện có 10.000 hộ đến 1.000 hộ, mỗi nơi đặt số lượng Cung thủ khác nhau.”
[127] Từ đời Ngũ đại trở đi, Tiết độ sứ thường bổ nhiệm người thân tín làm Trấn tướng, ngang quyền với Huyện lệnh, mọi việc công đều báo thẳng lên Châu, khiến quan lại cấp huyện không còn quyền hành. Từ nay, Trấn tướng lại chịu sự quản lý của huyện, chỉ phụ trách trong phạm vi thành quách mà thôi. Đây là theo lời tâu của Xu mật sứ Triệu Phổ.
(Theo hành trạng của Phổ. ‘Bản chí’ và ‘Hội yếu’ chép: Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2, cấm các phiên hầu bổ nhiệm thân tín làm Trấn tướng, từ đó dùng lại châu để đảm nhiệm, cũng có người được bổ nhiệm, việc này liên quan đến văn bản trên, cần xem xét.)
[128] Ngày Mậu Tuất, các châu Bồ, Tấn, Từ, Thấp, Tương, Vệ gặp nạn đói, triều đình ban chiếu lệnh cho các địa phương mở kho phát chẩn cứu tế.
[129] Ngày Canh Tý, các quan dâng lên điều lệ bắt giặc, triều đình ban chiếu thực hành: “Quy định ba thời hạn, mỗi hạn hai mươi ngày. Trong hạn thứ nhất mà bắt được giặc, Lệnh và Uý đều được giảm một bậc thăng chọn; bắt được hơn một nửa, giảm hai bậc. Trong hạn thứ hai mà bắt được giặc, đều được thăng một bậc lương; bắt được hơn một nửa, thăng hai bậc. Trong hạn thứ ba mà bắt được giặc, Lệnh và Uý đều được thăng một bậc chức; bắt được hơn một nửa, thăng hai bậc. Quá ba hạn mà không bắt được giặc, Uý bị phạt một tháng bổng lộc, Lệnh bị phạt một nửa. Uý ba lần bị phạt, Lệnh bốn lần bị phạt, đều bị giáng một bậc thăng chọn; ba lần bị giáng, bị cách chức. Lệnh và Uý cùng giao chiến với giặc mà bắt được hết, đều được ban áo tía, Uý được thăng làm Lệnh, hơn nữa được thăng hai bậc lương, Lệnh thì riêng được thăng chức.”
[130] Ngày Giáp Thìn, sai Trung sứ Triệu Toại mang chiếu đến các vùng Đàm, Lãng tuyên dụ, cho phép Trương Văn Biểu về triều, đồng thời lệnh Kinh Nam phát binh giúp Chu Bảo Quyền.
[131] Vua thấy vùng biên giới phía tây bị người Khương, người Nhung nhiều lần quấy nhiễu, bèn tuyển bổ Thứ sử Quắc châu Diêu Nội Uân làm Thứ sử Khánh châu. Nội Uân là người Bình châu.
(Nội Uân, lần đầu xuất hiện vào tháng 4 năm Hiển Đức thứ 6.)
[132] Vua nói với các quan cận thần rằng: “Bảo vệ biên cương và cai trị dân chúng, cần phải có người tài. Nếu những người được giao trọng trách ở biên cương có thể hiểu được ý ta, thì ta sẽ ưu đãi gia quyến của họ, ban thưởng tước lộc hậu hĩ, cấp nhiều tiền công và lợi nhuận từ thuế khóa của các châu thuộc quyền, cho họ tự do buôn bán, đặc biệt miễn thuế[17], cho phép họ chiêu mộ người tài giỏi, dũng cảm làm tay chân. Nếu tiền bạc đầy đủ, ắt sẽ thành công, dù ta có phải giảm số lượng cung nữ, tối giản đến mức tối đa, để dành tiền chi tiêu biên phòng, cũng không tiếc.”
(Theo ‘Kinh Vũ Thánh Lược’, năm Kiến Long thứ 3, Thái Tổ có lời này, do Diêu Nội Uân trấn giữ biên cương phía Tây, nên chép vào đây.)
[133] Năm đó, Chu Trịnh Vương dời đến ở Phòng Châu.
(Sử cũ và sử mới đều chép rằng Trịnh Vương dời đến Phòng Châu vào năm Kiến Long thứ 3[18]. ‘Đường Dư Lục’ của Vương Hạo lại chép rằng Trịnh Vương dời từ Tây Cung ra vào năm Khai Bảo thứ 3. E rằng sai, nay không theo.)
[134] Các châu Hà Bắc, Thiểm Tây, Kinh Đông bị hạn hán, châu châu, đặc biệt nghiêm trọng ở Hà Bắc, nên đều được miễn thuế.
[135] Thục chủ sai quan xét lại thuế thiếu ở bốn trấn, mười sáu châu từ năm Quảng Chính thứ mười lăm đến năm thứ hai mươi, rồi truy đốc riêng.
Lệnh Long Du là Điền Thuần ở Thành Đô dâng sớ can gián, đại lược nói: “Nay giao thời Giáp Tý, âm dương biến động, thiên vận nhân sự, hợp nên có thay đổi. Nếu theo lời bàn thu thuế nặng ắt sẽ làm rối đại luân trị nước, đó là phạm ý trời thứ nhất. Sao Thái Nhất sắp rời khỏi khu vực vốn chia, mới đến thì mang phúc, sắp đi thì để lại tai ương, chuyển họa thành phúc nên sớm lo tính. Nếu lại tăng thêm thuế phú, ắt sẽ có họa khôn lường, đó là phạm ý trời thứ hai. Của cải bốn biển đều thuộc về bậc chí tôn, phân tán trong dân, tích thành tài sản, nếu lại bắt thuế thì ai dám chống lại? Bệ hạ sao không bỏ của nhỏ để được của lớn? Đó là tổn hại đạo Vua thứ nhất. Dân là chủ của sáu quân, dân đủ thì quân không thiếu, dân không đủ thì quân lấy gì mà đủ? Chuyên chước đoạt của dân để cấp cho sáu quân, đó là tổn hại đạo Vua thứ hai.” Thục chủ không nghe.
Điền Thuần thường nói với người thân: “Ta thấy kẻ soán ngụy đổi sảnh đường thành cung điện, đổi áo tía thành hoàng bào, đổi tiền khu thành nghi trượng, đổi liêu tá thành khanh tướng, đổi vợ thiếp thành phi hậu, sao bằng cứ xưng là Thành Đô doãn thì chẳng lo họa diệt tộc?” Nghe đều lo sợ, còn Thuần bàn luận vẫn thản nhiên. Có người bảo Thuần: “Tài ông xứng đáng gánh vác trọng trách, nên hạ mình một chút ắt sẽ vào chốn kim loan ngọc đường.” Thuần đáp: “Ta làm sao chịu nịnh bọn chó chuột được!” ý chỉ vào Xu mật sứ Vương Chiêu Viễn. (Vương Chiêu Viễn, lần đầu thấy năm Càn Hựu nguyên niên).
[136] Nam Hán Hứa Ngạn Chân sau khi giết Chung Doãn Chương, càng trở nên ngang ngược, ghét Cung Trừng Xu và những người khác đứng trên mình, thường xâm phạm quyền lực của họ, khiến Trừng Xu tức giận. Khi ấy có người tố cáo Ngạn Chân tư thông với Lệ phi của Tiên chủ, Trừng Xu bèn phát giác việc này. Ngạn Chân sợ hãi, cùng con mưu giết Trừng Xu. Trừng Xu sai Tây ban tướng quân Vương Nhân Ngộ tố cáo cha con Ngạn Chân mưu phản, bắt giam và giết cả họ.
(Chung Doãn Chương, xem năm Càn Hữu nguyên niên. Hứa Ngạn Chân, xem năm Hiển Đức thứ sáu.)
[137] Nam Hán chủ nạp hai con gái của Lý Thác, người chị làm Quý phi, người em làm Mỹ nhân, đều được sủng ái. Phong Thác làm Nội thái sư, mọi việc chính sự đều phải bẩm báo Thác trước rồi mới thi hành.
(Lý Thác, xem năm Hiển Đức thứ sáu.)
- Chữ 'chủ' trong 'cử chủ tọa chi' vốn bị thiếu, theo bản Tống và bản hoạt tự bổ sung. ↵
- 'Phải ghi chép sự việc một cách trung thực', chữ 'phải' nguyên bản là 'nên', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 'Trị tích thống loại' quyển 29 sửa lại. 'Tống hội yếu' chức quan 60 phần 1 ghi là 'cho phép ghi chép sự việc một cách trung thực'. ↵
- Chiếu từ nay Tể tướng, Xu mật sứ kiêm Bình chương sự, Thị trung, Trung thư lệnh, Tiết độ sứ: bản Tống, bản Các đều giống nhau. Xét sách 'Chức quan phân kỷ' quyển 3 của Tôn Phùng Cát chép là 'Chiếu từ nay Tể tướng, Xu mật sứ, Tiết độ sứ kiêm Bình chương sự, Thị trung, Trung thư lệnh', nghi rằng ba chữ 'Tiết độ sứ' nên đặt sau 'Xu mật sứ'. ↵
- 'tử hình' nguyên bản ghi 'nhân hình', sửa theo các bản khác ↵
- Các bản đều ghi 'bát phẩm đứng trên ngũ phẩm Nam tỉnh'. Theo 'Biên niên cương mục' quyển nhất và 'Tống triều sự thật' quyển 12, câu này đều ghi là 'lục phẩm đứng trên ngũ phẩm Nam tỉnh'. Xét ý văn, nghi ngờ 'bát phẩm' nên sửa thành 'lục phẩm'. ↵
- Các bản đều ghi 'Tiết độ sứ đứng dưới các ty tam phẩm'. Theo 'Biên niên cương mục' quyển nhất và 'Trị tích thống loại' quyển 29, 'tam phẩm' đều ghi là 'nhị phẩm'. ↵
- 'Rất trái với điển lễ', chữ 'rất' nguyên bản là 'kỳ', theo các bản và 'Đông Đô sự lược' quyển nhất sửa lại. ↵
- 'Kỉ' nguyên là 'Dĩ', theo Tống bản, Các bản và 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 1, 'Thập triều cương yếu' quyển 1 sửa lại. ↵
- Vẫn lấy Nội điện trực đô Chỉ huy sứ Dương Quang Mỹ làm Quân sứ, chữ 'Đô' bản gốc viết là 'Đốc', theo Tống bản, các bản khác sửa lại. ↵
- Kiểm sát sai dịch, 'Sai dịch' nguyên bản viết là 'sai sứ', căn cứ vào bản Tống và quyển 1 của sách 'Biên niên cương mục', quyển 12 'Thông khảo' về chương Chức dịch đã sửa lại. ↵
- 'Cụ sở kiến dân gian lợi bệnh dĩ văn' : 'Cụ' nguyên bản là 'kì', theo bản Tống, các bản khác và 'Tống sử toàn văn' quyển 1 sửa lại. ↵
- Chiếu Khai Phong phủ bắt giữ cương quan Vương Huấn và ba người khác ở Thái Hà vụ, 'Thái Hà vụ' nguyên bản là 'Sát Hà vụ', căn cứ theo Tống bản, các bản khác và 'Tống sử' quyển 1, 'Thái Tổ kỷ' sửa lại. ↵
- Vũ An Tiết độ sứ: Các bản Tống, bản các và Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 1 giống nhau. Xét Cựu Ngũ đại sử quyển 116 Chu thư - Thế Tông kỷ, quyển 133 Lưu Ngôn truyện đều chép: Tháng 7 năm Hiển Đức thứ 3 (956), phong Chu Hành Phùng làm Lãng Châu Đại đô đốc, kiêm chức Vũ Bình quân Tiết độ sứ. Cửu quốc chí quyển 11 Chu Hành Phùng truyện và Tống sử quyển 483 Hồ Nam Chu thị truyện đều ghi là 'Vũ Bình quân Tiết độ sứ'. Vũ Bình quân được đặt năm Quảng Thuận thứ 3 (953) từ Lãng Châu thăng lên, đứng trên Vũ An quân. Nghi ngờ chữ 'Vũ An' ở đây nên sửa thành 'Vũ Bình'. ↵
- 'Phản' nguyên bản chép là 'phán', theo các bản khác sửa lại. ↵
- 'và đến xin viện binh' chữ 'và' nguyên bản là 'kỳ', theo Tống bản, các bản khác và 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 1, 'Tống sử toàn văn' quyển 1 sửa lại. ↵
- bản 'thả' gốc viết 'đãn', theo bản Tống và bản các văn bản khác sửa. 'Tống sử' quyển 278, truyện Mã Toàn Nghĩa chép 'Nhưng dụ mật chỉ'. ↵
- 'tự do buôn bán, đặc biệt miễn thuế', nguyên chép là 'Cố ngữ', theo bản Tống và bản cô đọng của Tống sửa lại. Xem 'Biên niên cương mục' quyển nhất chép, Diêu Nội Bân làm Thứ sử Khánh Châu, 'lợi nhuận từ thuế khóa trong quận đều giao cho ông, cho phép tự do buôn bán, miễn thuế qua đường.' 'Thông giám' quyển 283, phần Hậu Tấn kỷ, tháng 9 năm Thiên Phúc thứ 8, người Khiết Đan lập Kiều Vinh làm Hồi đồ sứ, Hồ Tam Tỉnh chú rằng: 'Phàm người nước ngoài buôn bán với Trung Quốc, đều lập Hồi đồ vụ, giống như chợ buôn bán ngày nay.' Sách này quyển 17, ngày Canh Ngọ tháng 11 năm Khai Bảo thứ 9 chép: 'Thái Tổ đối với các tướng lĩnh trấn giữ phía Tây và Bắc, 'lợi nhuận từ thuế khóa của các châu huyện thuộc quyền đều giao cho họ, cung cấp tiền để buôn bán, miễn thuế qua đường.'' Quyển 60, ngày Giáp Ngọ tháng 6 năm Cảnh Đức thứ 2 cũng có chép việc cho Tây Hạ 'tự do buôn bán'. Đoạn này nên chép là 'Hồi đồ' là đúng. ↵
- 'dời đến' nguyên chép là 'Bắc cư', theo các bản sửa lại. ↵