II. TỐNG THÁI TÔNG
QUYỂN 37: NĂM CHÍ ĐẠO THỨ NHẤT (ẤT MÙI, 995)
Từ tháng giêng năm Chí Đạo thứ nhất đến tháng năm cùng năm
[1] Tháng giêng, ngày Mậu Thân (ngày 1), Vua ban chiếu đổi niên hiệu.
[2] Lúc đầu niên hiệu Đoan Củng, Vua hạ chiếu xây dựng Thượng Thanh cung ở phía bắc đường trong cửa Chiêu Dương, nói với tả hữu rằng: “Khi Trẫm còn ở phiên vị, Thái Tổ đặc biệt yêu quý, ban thưởng không thể kể xiết. Trẫm bèn đem hết [của cải] buôn bán để xây dựng cung này, nhằm cầu phúc cho bách tính, không dùng tiền trong kho.” Lúc đó, Vương Miễn tham gia xử lý việc cơ yếu, tâu rằng: “Việc xây dựng công trình ắt gây hao tốn, không tránh khỏi lấy mỡ máu của bách tính.” Vua nghe xong im lặng. Mấy năm sau, công trình vẫn chưa xong, nhiều người dâng tâu phê phán, vì thế Vua hạ chiếu dừng lại. Hơn một năm sau, trong cung lập đạo trường, Vua nói chuyện với đạo sĩ về việc này, bèn lấy ra những đồ vàng bạc cũ trong Nam cung, đem bán ở chợ được vài vạn lạng để chi trả tiền công, hoàn thành việc xây dựng. Ngày Bính Thìn, cung thành, gồm 1.242 gian, Vua thân chủ viết bảng hiệu, ngày hôm đó xa giá đến khấn lễ.
[3] Độ chi phán quan Trần Nghiêu Tẩu và Lương Đỉnh tâu rằng: “Từ cuối đời Đường, việc chính sách nông nghiệp phần nhiều bị bỏ phế, dân chúng đa số bỏ nghề gốc, không chịu cày cấy, nên nhà ít thóc dư, đất đai còn nhiều lợi chưa khai thác. Thần mỗi khi nghĩ đến nghề nông, đều tìm tòi kỹ lưỡng lợi hại, nhất định phải sửa sang chế độ khai khẩn ruộng đất, lập phép dùng nước, bàn bạc trong sách vở, xem xét đầy đủ gốc ngọn. Từ các đời Hán, Ngụy, Tấn, Đường đến nay, ở các châu Trần, Hứa, Đặng, Dĩnh cùng Thái, Túc, Bạc cho đến Thọ Xuân, việc dùng thủy lợi khai khẩn ruộng đất, dấu tích đều còn.
Mong chọn những người thông hiểu cổ học, chia làm các quan châu, kiêm quản việc nông, mở rộng ruộng công, để thông suốt thủy lợi, điều động quân lính tản mạn dưới vùng Giang, Hoài và chiêu mộ dân chúng để sung việc đồng áng. Mỗi nghìn người cấp một con trâu, cày cấy năm vạn mẫu, tuy theo chế độ cổ, mỗi người trăm mẫu, nay hãy khai khẩn một nửa, đợi lâu ngày thì chế độ cổ có thể khôi phục. Mỗi mẫu ước tính thu ba hộc, mỗi năm có thể được mười lăm vạn hộc, trong phạm vi bảy châu, lập hai mươi đồn[1], mỗi năm có thể được ba trăm vạn hộc, nhân đó mà tăng thêm, không biết đâu là giới hạn, thi hành trong hai ba năm, ắt có thể làm kho đụn đầy đủ, giảm bớt việc chuyển vận lương thực bằng đường thủy ở Giang, Hoài. Ruộng dân chưa khai khẩn, quan giúp trồng trọt, ruộng công chưa khai khẩn, chiêu mộ dân khai khẩn, mỗi năm thu thuế, số lượng theo lệ chủ khách của dân gian, đó lại là đạo lớn để khuyến khích nông nghiệp. Phó Tử nói ‘Mệnh trời treo cao, sức người tuy có tu sửa, nếu gặp hạn hán không đúng mùa, thì công sức một năm đổ bỏ. Phép làm ruộng nước nhờ vào sức người, sức người nếu tu sửa tốt, thì lợi của đất có thể khai thác hết.’ Hơn nữa, thiệt hại do sâu bọ lại ít hơn ruộng khô, ruộng nước đã tu sửa, lợi ích gấp bội, không giống với ruộng khô.”
Vua xem tấu khen ngợi, liền sai Đại Lý tự thừa Hoàng Phủ Tuyển và Quang Lộc tự thừa Hà Lượng đi ngựa trạm đến các châu xem xét, kinh lý việc ấy. Tuyển người Lư Giang; Lượng người Nam Sung.
[4] Bấy giờ, Vua bắt đầu sai Ty môn viên ngoại lang Khai Phong Tôn Tần làm Giáo thụ cho Hoàng điệt và Hoàng tôn. Lúc ấy, Trung thư tâu rằng: “Triều Đường Văn Tông, Tể thần Lý Thạch từng tâu: ‘Thái tử có chức Thị độc, các Vương cũng có chức Thị độc, không có lễ giáng sát nào, xin đổi thành phụng chức Giảng độc cho các Vương.’ Nay Hoàng điệt và Hoàng tôn đều giữ chức Hoàn vệ, xin lấy danh hiệu Giáo thụ.” Vua nghe theo. Vì thế, các con của Phù Lăng Điệu Vương Đình Mỹ đang ở kinh đô đều được lệnh học tập.
[5] Đại tướng Khiết Đan Hàn Đức Uy dẫn mấy vạn kỵ binh dụ dỗ tộc Lặc Lãng Ngôi của Đảng Hạng, cùng với thủ lĩnh lớn của 16 phủ là Mã Vĩ từ Chấn Vũ tiến vào cướp phá. Tiết độ sứ Vĩnh An Chiết Ngự Khanh dẫn quân khinh kỵ đón đánh, đại phá quân địch tại Tử Hà Hốc. Các tộc Lặc Lãng nhân cơ hội loạn lạc của Khiết Đan, giả làm quân Phủ Châu theo sau, khiến quân địch hoảng loạn, chết đến sáu bảy phần mười, bỏ lại toàn bộ khí giới chạy qua sông. Tướng địch hiệu là Thái úy Đột Quyết, Tư đồ, Xá lợi chết hơn hai mươi người, bắt sống được thủ lĩnh Thổ Hồn một người, còn Đức Uy chỉ thoát được một mình. Ngày Giáp Tý, Ngự Khanh sai sứ tâu tin thắng trận. Vua triệu vào điện hỏi rõ tình hình phá địch, rồi cười bảo tả hữu: “Khiết Đan là lũ tiểu xú, tiến dễ mà lui cũng dễ. Trẫm thường răn biên tướng chớ tranh phong với chúng, chờ chúng vào sâu rồi chia quân kỳ binh chặn đường về mà đánh, ắt không còn tên nào sống sót. Nay quả nhiên đúng như lời Trẫm.” Tả hữu đều hô vạn tuế. Trước đó, Đô bố thự Tịnh Đại Trương Vĩnh Đức nghe tin giặc vào cướp, dùng phép Thái Bạch Vạn Thắng Quyết để bói, nói với thuộc hạ: “Giặc tuy nhờ tháng năm thuận lợi, thừa kim khí mà đến, nhưng lại gặp tuế tinh đối nghịch, đại kỵ trong binh pháp. Chúng ắt tự bại, chẳng cần lo lắng.” Khách ngồi nghe đều ngỡ ngàng, đến lúc này mới thán phục.
[6] Cuối năm Đoan Củng, Vua ra chiếu lấy ngôi nhà cũ của Tuyên Tổ tại phường Hưng Đạo để xây đạo cung. Ngày Ất Sửu, đạo cung hoàn thành, gồm 265 gian, được ban tên là Động Chân. Vua chọn các nữ quan từ kinh sư và các châu, được Hồ Hựu Huyền cùng 31 người, cho đến ở đó.
[7] Trước đây, Triệu Tán từ chức ở Kinh Triệu, về nhà mới được vài tháng, Vua lại lệnh cho Tán chuyên trách kiểm tra sổ sách của tam ty. Nhân dịp cải cách quan chức tam ty, Tán được bổ làm Tây Kinh tác phường phó sứ, Độ chi đô giám. Có người tên là Trịnh Xương Tự, cũng xuất thân từ tiểu lại tam ty, thân thiết với Tán, cùng nhau ăn ý, dần thăng chức lên Tây thượng cáp môn phó sứ, Diêm thiết đô giám. Hai người này vừa nhận chức, càng trở nên ngạo mạn, làm nhiều việc phi pháp. Ngày Đinh Mão, Vua hạ chiếu tước bỏ quan tước của Tán, cả nhà bị đày đến Phòng Châu, Xương Tự bị giáng chức làm Đường Châu đoàn luyện phó sứ. Sau khi đi được vài ngày, cả hai đều bị ban chết tại nơi lưu đày, trong ngoài không ai không vui mừng. Vua bèn nói với các cận thần: “Quân tử và tiểu nhân, như lan tốt và gai góc, không thể tuyệt diệt được, tùy vào người biết phân biệt mà thôi. Nếu toàn là quân tử, thì cần gì hình phạt?” Tham tri chính sự Khấu Chuẩn đáp: “Thời Đế Nghiêu, bốn kẻ xấu còn ở triều, thì ba đời trở lên, dân chúng thuần phác, đã có tiểu nhân rồi. Nay những kẻ mặc áo nho, giữ chức thanh cao, cũng thường kết bè với tiểu nhân, vì mưu cầu an toàn cho mình, như Xương Tự, chỉ là tên lại đi hầu hạ, không đáng bàn.”
[8] Các châu thường dâng tấu về việc quan lại lén dùng vật trong kho. Vua bảo các cận thần: “Thiện ác của con người, cần xem xét tình hình. Nếu quan lại lén lấy vật trong kho, dù lấy đến hàng vạn, cũng chỉ là một tên trộm, thì có hại gì đến dân chính? Nhưng nếu che chở kẻ xấu, tích tụ thành gian ác, làm hại chính sự, thì tội trộm cắp ấy lớn lắm.”
[9] Vua hạ chiếu, các quan địa phương không được tự ý xử án, những tội đồ, trượng trở xuống, cần thảo luận với quan thông phán để xét tội phân minh.
[10] Tháng hai, ngày Giáp Thân, Vua sai Thừa tướng cùng quần thần chia nhau đến các chùa, miếu ở kinh thành cầu mưa. Lại sai trung sứ đi cúng tế ở Ngũ Nhạc. Theo lệ cũ, Vua tự tay viết lời cầu nguyện rồi phái đi. Hàn lâm học sĩ Vương Vũ Xứng tâu: “Theo lễ, Ngũ Nhạc ngang hàng với tam công, nay tuy được phong vương tước, nhưng vẫn là bề tôi. Thiên tử gọi tên, e không hợp cổ chế. Xin từ nay không viết lời cầu nguyện nữa, để tôn ty được đúng thứ tự, lễ nghi không sai.” Vua tự tay phê ở cuối tờ tâu: “Xưa Đường Đức Tông còn chịu khom lưng bái lạy mưa gió, huống chi điển lễ của triều ta đã định rõ, sao có thể bỏ được. Trẫm vì phúc lợi của muôn dân, cầu nguyện ở Tang Lâm còn không ngại, huống chi chỉ là viết lời cầu nguyện, có tổn hại gì?”
[11] Trước đây, Tướng tác thiếu giám Sách Tương làm chuyển vận sứ ở Hà Bắc, có người tố cáo ông tự ý dùng lụa trong kho, bị cách chức Thiện bộ viên ngoại lang, làm tri phủ Tương châu. Khi ấy có bọn cướp tụ tập dưới chân Tây Sơn, định phá cầu sông Thiền Châu rồi tiến đánh hai châu Từ và Tương, ban ngày giương cờ đánh trống, cướp bóc làng mạc. Các quận lân cận phát binh nghìn người đi bắt, nhưng không ai dám đến gần. Sách Tương chọn 300 quân tinh nhuệ của châu, dò biết chúng vừa vào địa phận, liền đánh úp, bắt giết hết. Chuyển vận sứ Hà Bắc Vương Tự Tương dâng tấu kể rõ sự việc, Vua ra chiếu khôi phục chức cũ, bổ làm chuyển vận sứ Hà Đông.
[12] Ngày Đinh Dậu, Vua ra chiếu miễn cho châu Duyễn khoản thuế hàng năm 16 vạn 4.800 bó cỏ vàng, cỏ kinh tử, cỏ giao sam. Lại sai các lộ chuyển vận sứ kiểm tra trong khu vực mình quản lý, nếu có khoản thu vô danh nào tương tự thì tâu lên, sẽ được miễn hết.
[13] Mùa xuân, tháng ba, ngày mùng một Đinh Mùi, Vua ra chiếu lấy mấy chục vạn hộc đậu trong kho quan[2] cấp cho dân ở kinh kỳ và các quận nội địa làm giống. Có viên quan xin giữ lại một phần để nuôi ngựa quốc, Vua nói: “Mưa xuân đã xuống, đất đai bắt đầu màu mỡ, dân không có giống thì không thể khai thác hết tiềm năng đất đai. Hãy lấy hết kho mà cấp cho họ, đến mùa thu sẽ thu được gấp trăm lần. Ngựa quốc ăn cỏ khô cũng được.”
[14] Ngày Canh Thân, ban chiếu cho các lộ Chuyển vận ty bảo các quan Mạc chức, Châu huyện dưới quyền, nếu có việc lợi hại của công tư, đều cho phép tâu lên, gửi qua trạm truyền để trình lên, giao cho Trung thư xá nhân xem xét xem có thể chấp thuận hay không.
[15] Ngày Kỷ Tỵ, Vua sai vài trăm vệ sĩ tập bắn ở sân điện Sùng Chính, triệu Trương Phổ đến xem. Trước đó, Lý Diên Tín về nước, Vua ban cho Lý Kế Thiên ba chiếc cung mạnh, đều có sức kéo đến một thạch sáu đấu. Kế Thiên nghĩ rằng Vua muốn ra oai với ngoại tộc, chứ không phải có ai có thể kéo được. Đến lúc này, các vệ sĩ đều giương cung bắn thẳng, còn dư sức. Trương Phổ rất kinh hãi. Vua cười hỏi Phổ: “Người Nhung dám địch không?” Phổ đáp: “Bộ tộc Phương Bắc cung yếu tên ngắn, chỉ thấy cái này to lớn, người ta đã chạy trốn rồi, huống chi là dám chống cự!” Vua liền bảo Phổ: “Người Nhung đều nghèo khổ, ăn mặc thô sơ, không có gì đáng luyến tiếc. Kế Thiên sao không tự quay về, mãi mãi giữ được giàu sang?”
[16] Lưu nội tuyên dẫn những người được tuyển chọn vào yết kiến, trong đó có Tần Khả Quan, thường bị khiển trách nhẹ, lúc đối đáp[3],khí khái đầy nhiệt huyết, Vua nhìn ông nhiều lần; lại có Trần Liêm tự kể rằng trước đây từng làm Chức Bạ ở ấp thuộc Châu Ký, có công phòng giữ thành lũy: ban chiếu cho cả hai ngạch Hữu Ban Điện Trực, chức Giám Áp Sai Khiển, ban cho áo tía, giày, hốt và 100 lượng bạc. Vua bảo họ: “Các ngươi nếu làm tròn nhiệm vụ của Trẫm, Trẫm chắc chắn không tiếc ân huệ. Năm sau nếu siêng năng cần mẫn, mong được phục hồi chức văn thì cũng sẽ cho.”
[17] Chiếu tạm dừng thi tuyển Cống cử.
[18] Mùa hạ, tháng tư, ngày Quý Mùi, Lại bộ Thượng thư kiêm Bình chương sự Lữ Mông Chính bị cách chức, giáng làm Hữu bộc xạ, Tham tri chính sự Lã Đoan được thăng làm Hộ bộ Thị lang kiêm Bình chương sự. Vua bảo Mông Chính: “Bộc xạ là bậc thầy của trăm quan. Trẫm thấy việc ở Trung thư nhiều, muốn cùng khanh chia sẻ phần công việc.” Lại bảo Lã Đoan: “Ở miếu đường, không có việc ban thưởng hão huyền. Chỉ cần tiến cử người hiền, loại bỏ kẻ bất tài, như vậy là xứng chức. Khanh nên cố gắng.” Trước đó, Vua làm bài thơ “Điếu ngư”, có đoạn viết: “Muốn nhử cá vàng vực sâu chưa thấu, cần hỏi người câu ở Bàn Khê.” ý chỉ muốn giao việc cho Lã Đoan. Sau đó vài ngày, Mông Chính bị cách chức, Lã Đoan lên làm tướng.
Lã Đoan làm quan suốt bốn mươi năm, đến đây đột nhiên được trọng dụng, Vua thường tiếc rằng dùng ông quá muộn. Ông làm tướng cẩn trọng, biết nắm đại cục, lấy thanh tĩnh giản dị làm gốc. Khi tấu trình trước mặt Vua, các quan đồng liệt thường có nhiều ý kiến khác nhau, còn Lã Đoan hiếm khi đưa ra ý kiến riêng. Một hôm, trong cung ban sắc chỉ khuyên răn: “Từ nay, mọi việc ở Trung thư đều phải qua Lã Đoan xem xét kỹ lưỡng[4], rồi mới được tâu trình.” Lã Đoan khiêm nhường, không dám nhận.
(Lã Hối bổ sung vào ‘Chánh Huệ Công truyền’, sửa lại câu “hiếm khi đưa ra ý kiến riêng” thành “Lã Đoan cầm hốt đứng lui, chờ Vua hỏi”, là lời tô vẽ. Nay vẫn dùng nguyên văn.)
[19] Tham tri chính sự Tô Dịch Giản bị cách chức, giáng làm Lễ bộ Thị lang. Hàn lâm Học sĩ Trương Kỵ được thăng làm Cấp sự trung kiêm Tham tri chính sự. Trương Kỵ với Tô Dịch Giản từng cùng làm việc ở Hàn lâm, nhưng tương đối bất hòa. Đến khi Dịch Giản được thăng lên Trung thư, Kỵ thường xuyên chỉ trích những sai sót của ông. Khi Dịch Giản mất chức, Kỵ thay thế ông.
Ban đầu, Khấu Chuẩn phụ trách việc tuyển chọn ở bộ Lại, Kỵ lúc nắm chức Khảo công, Khảo công là thuộc quan của bộ Lại. Chuẩn còn trẻ, mới tiến thân, khí thế hăng hái, muốn các bậc lão thành quy phụ mình. Kỵ ngày đêm ngồi ở sảnh coi việc, mỗi khi mặc triều phục đợi Chuẩn ra vào cửa tỉnh, chỉ vái chào rồi lui, không nói chuyện gì. Chuẩn càng thêm trọng, bèn mời Kỵ vào nói chuyện. Kỵ ứng đối nhanh nhẹn, giỏi tranh luận, khiến Chuẩn tâm phục, bèn coi như anh, hết lời tiến cử lên Vua. Vua cũng muốn dùng, nhưng lại biết ngày ở Giang biểu, Kỵ thường hay gièm pha người lương thiện, Lý Dục giết Phan Hữu, Kỵ từng tham gia mưu kế, trong lòng còn nghi ngại. Hàn lâm đãi chiếu Doãn Hi Cổ đều là người Giang biểu, Kỵ từng đối xử tử tế với họ.
Một đêm, Vua triệu Hi Cổ vào hầu chữ trong cấm cung, (theo “Ký văn” là đãi chiếu cầm kỳ, nay theo “Quốc sử”), nhân dịp hỏi về nguyên cớ Phan Hữu mắc tội. Hi Cổ nói: “Lý Dục giận Hữu can gián quá thẳng thắn, chứ không phải do Kỵ mưu tính.” Từ đó, mọi nghi ngờ tan biến, mà Chuẩn lại nhiều lần tiến cử Kỵ không ngừng. Khi cùng nắm quyền chính, Kỵ phụng sự Chuẩn càng thêm cẩn thận, mọi việc đều do Chuẩn quyết định, Kỵ không can dự, chỉ chuyên việc biên soạn “Thời chính ký”, nói lời ngọt ngào khéo léo mà thôi.
[20] Ngày Mậu Tý, ban chiếu từ nay Tham tri chính sự nên cùng Tể tướng phân ngày cầm ấn, đứng đầu ban chính nha, vị trí trước kia khác nhau, nên hợp làm một, gặp việc Tể tướng, Sứ tương xử sự và bàn việc đại chính quân quốc, đều được lên đô đường. Trước kia, Triệu Phổ một mình làm Tể tướng, Thái Tổ đặc biệt đặt chức Tham tri chính sự để giúp ông, sau đó ân sủng của Phổ suy giảm, bắt đầu san đều nhiệm vụ, rồi lại có điều chỉnh. Lã Đoan ban đầu cùng hàng với Khấu Chuẩn, đến khi được làm Tể tướng trước, lo Chuẩn không bằng lòng, bèn tâu: “Khi huynh thần là Dư Khánh làm Tham tri chính sự, mọi việc đều như Tể tướng, mong khôi phục cựu chế.” Vua đặc biệt nghe theo, cũng để yên lòng Chuẩn vậy.
(Theo “Thực lục”: Ban đầu, Tể tướng Triệu Phổ bàn việc đặt Tham tri chính sự, khác bậc với Tể tướng. Xem ra Thái Tổ đặt Tham tri chính sự, thực dùng ý kiến của Đào Cốc, không phải do Phổ đề xuất, nay không chấp nhận.)
[21] Ngày Canh Dần, ban chiếu cho Ngự sử đài truyền dụ các quan văn võ trong ngoài, nếu cha mẹ đang ở các nơi như Xuyên Hạp, Chương Tuyền, Phúc Kiến, Lĩnh Nam, đều phải đón về phụng dưỡng.
[22] Chuyên trách tra xét người trái chiếu, sẽ xử tội nặng.
[23] Ngày Bính Thân, ban cho thường dân Phan Lãng đỗ Tiến sĩ. Không lâu sau, thu hồi chiếu thư vì hành vi của Lãng ngông cuồng.
[24] Ngày Tân Sửu, Vua nói với Thừa tướng: “Từ mùa xuân đến nay không có mưa, dù đã cầu khấn khắp nơi nhưng chưa được ứng nghiệm, phải chăng trong ngục tù còn nhiều oan khuất?” Ngay hôm đó, sai Thị ngự sử Nguyên (?) cùng 14 người, đi khắp các đạo xem xét án ngục. Trừ các tội như Thập ác, cướp giết, cố ý giết, hủy hoại sông ngòi, quan lại tham nhũng và làm hư hại tài sản công thì kẻ cầm đầu bị xử tử, còn lại đều giảm tội chết và đày về bản thành; tội lưu đày trở xuống giảm một bậc. Ngày hôm sau, ngự tại điện Sùng Chính[5], tự mình xét xử các tù nhân bị giam ở các cơ quan trong kinh thành, được tha thứ hơn trăm người, rồi nói với Thừa tướng: “Hình phạt là biện pháp bất đắc dĩ, làm sao không bỏ sót kẻ có tội mà vẫn giữ được đạo trung, đó là điều khó vậy. Đông Hán Lưu Khoan chỉ dùng roi mây, người ta biết xấu hổ mà hối cải, đó gọi là uy mà không tàn bạo, đủ để giúp thành đức hóa.” Ba ngày sau, mưa to sấm lớn, nước ngập đường sâu mấy thước.
[25] Ngày Ất Tỵ, Tiền Chiêu Tự, tri quân Thông Lợi, dâng biểu hiến một con chim lông đỏ và một con thỏ trắng trong bộ hạt, nói: “Chim tượng trưng tinh dương, thỏ báo điềm âm, là dấu hiệu hỏa đức thịnh vượng, biểu thị sự quy phục của phương tây. Đây là vật quý hiếm, hiếm khi xuất hiện cùng lúc, xin tuyên bố ghi vào sử quán.” Vua nghe theo, bảo các thị thần: “Màu chim đỏ như son, chính là điềm báo của hỏa đức.” Chiêu Tự là cháu của Tiền Thục.
[26] Tháng 5, Vua triệu tập 27 người, gồm Khổng mục quan Lý Phổ thuộc Tam ty, hỏi về việc quản lý tiền bạc và lương thực của cơ quan kế toán. Phổ và những người khác nói rằng họ hiểu rõ lợi hại, không thể trình bày miệng, xin được dâng tấu thành điều. Vua đồng ý, sai Trung sứ áp giải đến Trung thư, hạn trong 5 ngày phải tấu lên. Vua nhân đó nói với Thừa tướng rằng: “Phàm sự thịnh suy của tài chính đều liên quan đến việc chế độ đặt ra tốt hay xấu. Thấy Lý Phổ và những người khác tạm trình bày ý kiến, cũng đều có sở trường riêng. Trẫm thường bảo Trần Thứ rằng, nếu là việc văn chương nghiên cứu cổ đại, những người này không thể so với khanh, nhưng về lợi hại của tiền bạc và lương thực, họ từ nhỏ đã quen thuộc, chắc chắn hiểu rõ gốc rễ. Khanh chỉ cần tỏ thái độ hòa nhã, dẫn dắt họ phân tích, chắc chắn sẽ có ích. Thứ tính tình cứng rắn, cuối cùng không chịu hạ mình hỏi han.” Lã Đoan nói: “Làm ruộng nên hỏi nô lệ, dệt vải nên hỏi tỳ nữ.” Khấu Chuẩn nói: “Phu tử vào thái miếu, việc gì cũng hỏi, đó là lấy người quý mà hạ mình với kẻ tiện, thể hiện ý tôn trọng người có trách nhiệm.” Vua cho là phải. Phổ là người Hà Nam.
[27] Hàn lâm học sĩ Vương Vũ Xứng kiêm nhiệm chức Tri Thẩm quan viện và Thông tiến, Ngân đài, Phong bác ty, thấy chế sách có chỗ bất tiện, nhiều lần dâng tấu trình bày. Tang lễ Khai Bảo Hoàng hậu, quần thần không mặc tang phục, Vũ Xứng nói với bạn bè: “Hoàng hậu từng là mẹ của thiên hạ, nên tuân theo lễ cũ.” Có người đem việc này tâu lên, Vua không vui. Ngày Giáp Dần, Vũ Xứng bị buộc tội khinh suất, bị bãi chức làm Công bộ lang trung, nhậm chức Trừ châu. Vua nói với Thừa tướng: “Tính cách con người vốn không thể thay đổi, Trẫm thường khuyên răn Vũ Xứng, bảo ông ấy tự sửa mình. Nhưng xem những việc ông ấy làm, cuối cùng vẫn không đổi, đất cấm thất, sao có thể ở lại được nữa.”
Vũ Xứng từng soạn chiếu thư cho Lý Kế Thiên, Kế Thiên tặng 50 con ngựa làm quà biếu, Vũ Xứng thấy văn tự không đúng lễ, từ chối. Khi ở Trừ châu, người Phúc Kiến là Trịnh Bao đi bộ đến yết kiến, Vũ Xứng quý tài ông ta, khi từ biệt, mua tặng một con ngựa. Có người nói ông mua ngựa trả giá thấp, Vua nói: “Ông ấy từng từ chối 50 con ngựa của Kế Thiên, há lại chịu trả giá thấp sao?”
[28] Ngày Kỷ Mùi, Lý Phổ và các quan dâng lên 71 điều lợi hại về ba ty, Trung thư tham hiệu xét duyệt và chọn ra 44 việc có thể thi hành, rồi ghi chép vào sổ sách; 19 việc còn lại sai Trần Thứ và các quan bàn định rồi mới thi hành.
[29] Ngày Quý Hợi, Vua bàn về ba ty, nhân đó nói với các thị thần rằng: “Trẫm há chẳng biết tự cao tự đại sao, chỉ vì muốn cứu đời nuôi dân nên những việc nhỏ như tiền lương, lúa gạo cũng phải tự mình để tâm phân xử. Nếu Trẫm không dụng tâm, thì làm sao chỉnh đốn được? Như các đế vương đời trước hôn quân yếu kém, của cải trong thiên hạ phần mười chẳng được một phần vào tay vương thất. Đường Đức Tông khi ở Lương, Dương, cả triều đình lẫn dân chúng đều khốn cùng, Hàn Hoảng chuyên quyền ở Trấn Hải, tích trữ của cải, Đức Tông sai con là Hàn Cao đến xin, được trăm vạn hộc[6] để cứu nguy khốn. Tình thế triều đình lúc ấy đủ thấy rõ. Nay Trẫm thu thập những lợi ích bị bỏ quên trong thiên hạ để nuôi quân nuôi nước, cứu giúp người nghèo khó. Bọn hào hộ lưu manh nếu mong được chút ơn huệ từ Trẫm, chắc chắn không thể nào được.”
[30] Ngày Bính Dần, Tham tri chính sự Khấu Chuẩn tâu rằng: “Gần đây biên cương thay đổi chủ soái, tăng thêm binh mã, rất hợp thời thế.” Vua nói: “Việc chính sự trong thiên hạ ngày càng mới mẻ, trôi chảy như dòng nước, Trẫm luôn chăm chú nghe và xử lý. Còn về việc quân sự nơi biên ải, vốn là mối quan hệ an nguy, Trẫm đều tự mình suy tính, chuẩn bị sắp đặt từ trước để phòng ngừa, nếu đợi đến lúc sự việc xảy ra mới vội vàng lo liệu thì không kịp.” Khấu Chuẩn đáp: “Nếu không có mưu lược sâu xa, khéo nắm giữ và điều khiển từ xa, thì sao có thể ngồi mà khống chế được giặc khôn ngoan, giữ cho biên cương yên ổn?”
Nhân đó bàn về việc dùng tướng soái, Vua nói: “Các triều đại trước dùng người, vừa kỳ vọng cao lại không hiểu nỗi vất vả của họ. Như Hán Nhị Sư tướng quân, dẫn quân đi xa, tiến sâu vào Tây Vực, vì không có được ngựa huyết hãn, bị chặn ở ải Ngọc Môn buộc phải quay về, rồi bị vu cáo liên quan đến việc Vu Cổ, chịu án tru di, khiến Quảng Lợi chết ở nơi đất khách. Lại như Tô Vũ bị giam giữ ở triều đình Thiền Vu mười chín năm, trải qua bao gian khổ, vẫn giữ vững tiết tháo của nhà Hán, nhưng khi trở về triều được ban thưởng, chỉ làm đến chức Điển thuộc quốc. Trẫm thì không như vậy, tài năng và mưu lược của tướng soái, Trẫm không yêu cầu phải toàn diện, chỉ cần lượng sức mà dùng. Từ chức Tiết mao đến quan lại dưới hai ngàn thạch, đều xét công lao mà ban chức, dù công lao nhỏ cũng được ghi nhận, nguyện vọng của bề dưới đều được thông đạt. Nguyện vọng được thông đạt thì không có sự nghi ngờ lẫn nhau, công lao nhỏ được ghi nhận thì không có mối hận thù, vì vậy mọi người đều chăm chỉ trung hiếu để giữ vững địa vị, không để xảy ra việc hỗn loạn. Từ thời Lương, Tấn trở đi, các Vua hèn yếu mất đi phương pháp khống chế, trong triều đình có chút việc gì, các tướng tá đều được ngồi hầu chung mà bàn luận, sự chiều chuộng vũ thần lại đến mức như vậy. Trẫm thống trị bốn biển, lấy sự công bằng mà đối xử với bề dưới, không chỉ đối với họ, dù Lý Quảng có sống lại cũng không có lý do chiều chuộng.”
[31] Ngày Đinh Mão, Vua nói với Tể tướng rằng: “Thu nhập tài chính hàng năm của quốc gia gấp đôi thời Đường, hơn nữa từ giữa thời Đường trở về sau, phiên trấn tự ý cát cứ, thuế má phần lớn không vào quốc khố. Dưới lấn trên, cương kỷ bị hủy hoại. Nếu người xưa sắp xếp đúng đắn thì đã đạt được thái bình rồi, cần gì để Trẫm phải lo nghĩ nữa.”
Vua liền triệu Tam ty sứ Trần Thứ trách cứ việc chậm trễ công vụ. Thứ tâu rằng: “Nay lãnh thổ quá rộng, công việc rất nhiều, quốc dụng và quân nhu tiêu tốn lớn. Ở các châu mỗi khi có thiên tai, đều phải giảm thuế. Thần nhiều lần đề xuất lợi ích, triều đình lại sợ xâm hại dân, nên đều bị gạt bỏ. Dù cho Cảnh Thọ Xương, Tang Hoằng Dương sống lại, cũng không thể làm được. Thần kém cỏi, chỉ biết chăm lo giấy tờ, không giúp ích gì cho thánh đức.” Vua nói: “Các người thanh liêm mà không thông biến, chỉ giữ lề lối, không thể giúp nước nhà đo lường lớn nhỏ, giải quyết khó khăn. Ví như chủ lại kho tàng ở kinh thành cần phải thay chức[7], nếu giấy tờ còn một chỗ chưa đầy đủ, thì năm mười năm không giải quyết, khiến họ nghèo khổ, chết nơi hàng xóm. Đó là lỗi của các ngươi, chẳng phải làm tổn hại hòa khí sao?” Thứ và mọi người đều lạy nhận tội.
[32] Ngày Mậu Thìn, Khai phong doãn Thọ Vương Nguyên Khản tâu rằng dân làng Hoa Dương, huyện Thái Khang thuộc Chiêu Khánh hương bắt được một con thỏ đen dâng lên. Vua nói với Tể tướng: “Thỏ đen đến, đó là điềm lành của quốc gia.” Lữ Đoan tâu rằng: “Đen là màu của phương Bắc, thỏ là loài âm, tượng trưng cho Di Địch. Hoa là Trung Quốc, Trung Quốc thuộc dương. Chẳng phải sắp có Di Địch vào chầu, nhận mũ áo dưới cửa khuyết, báo điềm lành cho quốc gia, dẫn đến thái khang sao?”
- Sách 'Tống hội yếu' và 'Thục văn tập tồn' đều ghi là 'hai mươi bảy đồn'. ↵
- 'Mấy chục vạn hộc đậu trong kho quan', chữ 'đậu' nguyên văn là 'thúc', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và tham khảo 'Tống hội yếu' phần thực hóa 5.7.3, 'Biên niên cương mục' quyển 5 sửa lại. ↵
- 'chiếm' nguyên là 'Chiêm', dựa theo bản Tống và 'Tống Hội Yếu' chức quan quyển 61 phần 3 sửa đổi ↵
- 'Sự' chữ này nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo sách Tống bản và 'Biên niên cương mục' quyển 5, 'Tống sử' quyển 281 bản truyện bổ sung ↵
- Ngày hôm sau ngự tại điện Sùng Chính, chữ 'Dực' nguyên bản viết 'Nhất', căn cứ theo bản Tống và 'Tống sử toàn văn' quyển 4 hạ sửa lại. ↵
- 'Hộc' chữ 'đẩu' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác bổ sung. ↵
- Bản Tống toát yếu và các bản khác đều bỏ chữ 'thụ' trước 'chủ'. ↵