"

II. TỐNG THÁI TÔNG

QUYỂN 38: NĂM CHÍ ĐẠO THỨ NHẤT (ẤT MÙI, 995)

Từ tháng 6 năm Chí Đạo thứ nhất đời Thái Tông đến hết tháng 12 năm đó.

[1] Tháng 6, ngày Kỷ Mão, Vua ban chiếu cho tạo lại sổ sách thuế hai loại của các châu huyện, ban hành mẫu thức này khắp thiên hạ. Phàm một huyện quản lý bao nhiêu hộ, thuế hai mùa hạ thu, thuế ruộng, thuế dâu và các khoản thuế phụ khác, dùng giấy lớn làm thành cuộn dài, viết thực tế theo hàng [1], làm thành một bản sổ, gửi lên châu để kiểm tra và định lại, dùng ấn châu in lên đường nối, đặt kho ở bên cạnh phòng trưởng lại, làm tủ gỗ để cất giữ và niêm phong. Từ nay trở đi, mỗi năm trước khi thu thuế hai loại, đều bắt buộc huyện đó làm một bản sổ theo mẫu gửi lên châu, sổ sách thuế của huyện cũng dùng ấn châu in lên đường nối, giao cho lệnh tá.

[2] Ngày Ất Dậu, sai nội thị là Bùi Dũ đi thông báo đến các châu ở Giang Nam để mua và thu thập sách vở. Ai muốn gửi sách cho quan thì sẽ được trả giá cao; ai không muốn thì mượn để sao chép, sau đó trả lại bản cũ. Vua thường viết thảo 30 tờ kinh sử, triệu Hàn lâm thị độc là Lã Văn Trọng đến đọc từng tờ, liệt kê danh vị của các quan thuộc trong bí các, khắc đá in mẫu, trang trí thành trăm cuộn. Sau đó giao cho Bùi Dũ đem đến các danh sơn phúc địa, đạo cung, chùa chiền, mỗi nơi cất giữ một số bản; hoặc những người ở nơi thâm sơn cùng cốc, hảo cổ bác nhã, được làng xóm khen ngợi, cũng được ban tặng.

(Ban khắc đá, thực lục ghi vào ngày Mậu Tuất tháng 6, nay gộp lại viết.)

[3] Ngày Đinh Dậu, Vua ban chiếu chiêu mộ dân xin canh tác đất bỏ hoang ở các châu, làm sản nghiệp lâu dài, và tha thuế ba năm, sau ba năm chỉ nộp một phần ba; số lượng đất khai khẩn mà quan lại châu huyện khuyến khích dân làm, đều ghi vào giấy ấn, để chờ khen thưởng.

[4] Tháng tám, ngày mùng một Ất Hợi, Kinh Hồ chuyển vận sứ Hà Sĩ Tông dâng tâu: “Xin từ nay các đại thần chấp chính ra ngoài lĩnh quận, việc công cần trình lên chuyển vận sứ, chỉ cần ký tên của thông phán trở xuống.” Vua bảo tể tướng: “Tuy phẩm vị đại thần cao quý, nhưng nếu ra ngoài làm việc ở phiên trấn, thì thuộc quyền chuyển vận sứ, việc hệ trọng thuộc về châu phủ, không liên quan đến phẩm vị. Đây là điển chế của triều đình, không thể tùy tiện thay đổi, nên giữ nguyên như cũ.”

[5] Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu lấy Khai Phong doãn Thọ Vương Nguyên Khản làm Hoàng thái tử, đổi tên là Hằng. Đại xá thiên hạ. Con trai của các quan văn võ thường tham tri làm người kế thừa cha, quan đương chức được thăng một bậc. Chiếu cho Hoàng thái tử kiêm phán Khai Phong phủ. Từ đời nhà Đường, niên hiệu Thiên Hựu trở lại đây, trung nguyên nhiều biến cố, chưa kịp lập thái tử, lễ này bỏ phế gần trăm năm, nay Vua mới bắt đầu thực hiện, trong ngoài đều vui mừng.

Trước đây, Tham tri chính sự Khấu Chuẩn từ Thanh Châu được triệu về, vào chầu, Vua bị thương nặng ở chân, tự cởi áo cho Chuẩn xem và nói: “Khanh đến sao mà chậm trễ!” Chuẩn đáp: “Thần không được triệu thì không thể đến kinh sư.” Vua hỏi: “Trong các con của Trẫm, ai có thể giao phó xã tắc?” Chuẩn đáp: “Bệ hạ thật lòng vì thiên hạ chọn Vua, nếu bàn với nữ nhân và hoạn quan, thì không được; bàn với cận thần, cũng không được. Chỉ mong Bệ hạ chọn người xứng với lòng mong mỏi của thiên hạ.” Vua cúi đầu lâu, bảo tả hữu lui rồi nói: “Nguyên Khản có được không?” Chuẩn đáp: “Việc này không phải thần biết được.” Vua bèn lấy Nguyên Khản làm Khai Phong doãn, cải phong Thọ Vương, rồi lập làm thái tử. Người kinh sư thấy thái tử, vui mừng nói: “Đây thật là vị chủ tể của xã tắc.” Vua nghe được, triệu Chuẩn đến bảo: “Lòng dân thiên hạ đã thuộc về thái tử, muốn đặt Trẫm vào đâu?” Chuẩn đáp: “Bệ hạ chọn người trao xã tắc, được vị chủ tể của xã tắc, đây là phúc lớn muôn đời.” Vua vào cung nói với hậu tần trở xuống, sáu cung đều đến chúc mừng. Vua lại ra, mời Chuẩn uống rượu, say rồi mới thôi.

Khấu Chuẩn thường tấu sự thẳng thắn, Vua nổi giận đứng dậy, Chuẩn níu áo Vua, xin ngồi lại, quyết xong việc mới lui. Vua khen ngợi nói: “Đây mới là tể tướng chân chính.” Lại bảo tả hữu: “Trẫm được Khấu Chuẩn, cũng như Đường Thái Tông được Ngụy Trinh Công vậy.”

(Sách ‘Tam triều thánh chính lục’ chép rằng Chuẩn níu áo Vua xin quyết sự lúc còn làm viên ngoại lang, đó là sai, nay theo bản truyện.)

[6] Ngày Quý Tỵ, lấy Thượng thư tả thừa Lý Chí, Lễ bộ thị lang Lý Hãng cùng kiêm chức Thái tử tân khách, gặp Thái tử theo nghi lễ thầy trò. Thái tử gặp, đều lạy trước, mọi việc đều thỉnh ý. Chí và các quan dâng biểu xin từ, chiếu không cho. Chí và các quan vào tạ ơn, Vua bảo họ rằng: “Trẫm thấy Thái tử nhân hiếu, hiền minh, nên rất yêu quý, nay lập làm Thái tử để củng cố căn bản quốc gia, cần nhờ người chính trực dẫn dắt bằng đạo lý. Các khanh hãy hết lòng giúp đỡ, nếu việc gì hợp lễ thì nên khuyến khích, việc gì chưa đúng thì phải mạnh dạn nói, đừng nhu nhược mà thuận theo. Như các đạo lý Lễ, Nhạc, Thi, Thư có thể giúp ích cho Thái tử, các khanh đều đã quen thuộc, không cần Trẫm dạy bảo nhiều.” Chí và các quan đều cúi đầu tạ ơn.

Ban đầu đặt chức Yết giả ở Tả xuân phường, lệnh cho Phó suất Tả thanh đạo suất phủ là Vương Kế Anh người Tường Phù kiêm nhiệm. Kế Anh từ nhỏ dùng văn tự phụng sự Triệu Phổ. Khi Triệu Phổ từ Hà Dương bị bãi chức Thái tử thiếu bảo, những người thường theo hầu đều bỏ đi, chỉ có Kế Anh càng thêm cẩn trọng phụng sự. Khi Triệu Phổ lại nhậm chức Tể tướng, Kế Anh được liệt vào danh sách của Ngũ viện Trung thư. Khi Hoàng thái tử còn ở phiên vị, Kế Anh được chọn làm Đạo lại[2], kiêm quản việc tiếp khách trong nội cung. Vua từng triệu kiến và nói: “Ngươi trước đây phụng sự Triệu Phổ[3], ta đã biết rõ, nay phụng sự bậc thân hiền, càng nên hết lòng trung thành.” Khi Đông cung được thiết lập, nên mới có mệnh lệnh này. Tuy nhiên, chức Yết giả vốn là chức vụ của nội thị, trong khi Thái tử đã có Thông sự xá nhân chuyên lo việc tuyên truyền và dẫn đường, không gọi là Yết giả, hơn nữa chức vị của Thập suất rất cao trọng, không phải là chức vụ dành cho người chạy vạy bên cạnh, đây là sự thiếu sót trong việc chấp chính.

[7] Ngày Đinh Dậu, lấy Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Tống Bạch làm Lễ nghi sứ sách phong Hoàng thái tử. Các quan đã định xong lễ sách phong, rồi tâu: “Theo chế độ nhà Đường, quan trong cung tham gia chúc mừng Hoàng thái tử đều phải múa lễ, đến niên hiệu Khai Nguyên mới bãi bỏ. Theo lệ cũ, khi bá quan và Đông cung tiếp kiến chỉ xưng Hoàng thái tử, khi dâng biểu tấu thì gọi là Hoàng thái tử điện hạ; bá quan tự xưng tên, quan trong cung tự xưng thần; việc thường dùng ấn của Tả Xuân phường, mệnh lệnh trong cung thì ban hành.

Lại xét theo chế độ nhà Đường, những văn thư xử lý và bàn việc của Đông cung, Hoàng thái tử đều ký ‘Nặc’, lệnh cho Tả Hữu thứ tử trở xuống ký tên, tuyên lệnh thi hành và ghi ngày tháng[4]; còn thư từ gửi thân hữu, thầy dạy thì không dùng chế độ này. Nay xin theo chế độ Khai Nguyên, quan trong cung chỉ xưng thần, không hành lễ múa. Vì Hoàng thái tử kiêm quản Khai Phong phủ[5], những biểu tấu dâng lên thì ghi rõ vị Hoàng thái tử, những văn thư trình lên Trung thư, Xu mật viện chỉ do quan phán quan ký, còn các vụ án và xử lý công việc đều ký ‘Nặc’.”

Chiếu đổi chữ “Nặc” thành “Chuẩn”, các việc khác đều theo đó.

Lại tâu: “Bá quan gặp Hoàng thái tử, từ hàng ngũ phẩm ở hai tỉnh, tứ phẩm ở Thượng thư tỉnh, Ngự sử đài, tam phẩm trở lên ở các ty đều đáp lễ, còn lại đều nhận lễ. Quan trong cung từ chức Tả Hữu thứ tử trở xuống đều dùng nghi thức tham kiến. Khi Hoàng thái tử tổ chức yến hội, vị trí ở trên các Vương, Công.” Được chuẩn y. Các quan lại soạn nghi thức Hoàng thái tử sau khi nhận sách phong ra yết kiến Hoàng hậu, chiếu lệnh chỉ dùng lễ thường trong cung.

[8] Tháng chín, trước đó, sông Biện mỗi năm chuyên chở ba trăm vạn thạch gạo từ Giang, Hoài, và một trăm vạn thạch đậu; sông Hoàng Hà chuyên chở năm mươi vạn thạch thóc và ba mươi vạn thạch đậu [6], dùng để cung cấp lương thực cho quân đội ở kinh đô. Nếu không gặp thiên tai lũ lụt hoặc hạn hán được miễn thuế, số lượng này chưa bao giờ không đạt. Năm đó, sông Biện chuyên chở đến năm trăm tám mươi vạn thạch gạo.

Ngày Đinh Mùi, Vua hỏi các cận thần về nguyên nhân khơi đào sông Biện, Tham tri chính sự Trương Kỵ lui về tìm hiểu sự việc rồi tấu trình, và nói: “Hiện nay có mấy chục vạn binh lính, cùng số lượng lớn chiến mã, tập trung ở kinh đô, lại thêm dân chúng từ các nước đã mất tụ tập dưới chân nhà Vua, so với dân số kinh đô thời Hán, Đường[7], đã gấp mười lần. Vùng phụ cận kinh đô thỉnh thoảng có lũ lụt và hạn hán, nhưng không đến mức thiếu thốn là nhờ bốn con kênh: Huệ Dân, Kim Thủy, Ngũ Trượng và Biện Thủy, chia nhánh dẫn nước, hội tụ ở kinh đô, thuyền bè nối tiếp nhau, cung cấp đủ cho kinh đô mà không thiếu thốn. Chỉ có sông Biện chảy ngang qua Trung Quốc, đầu nguồn tiếp nhận sông lớn, dẫn nước từ sông hồ, lợi ích trải dài đến biển Nam, một nửa tài nguyên của thiên hạ và hàng hóa từ núi rừng đều đi qua con đường này. Vì vậy, Đại Vũ khơi đào để phân tán dòng nước, Tùy Dạng Đế mở kênh để phục vụ tuần du, dù nhiều lần bị bỏ hoang, nhưng dòng chảy vẫn không ngừng qua các triều đại, cuối cùng vẫn phục vụ quốc gia, đó chẳng phải là ý trời sao?”

(Sông Biện chia dòng từ Hoàng Hà, từ thời Đường đến nay đều được coi là lợi ích lớn. Nhưng xét sự thực, cũng có tác hại sâu sắc. Tại sao vậy? Vùng Lương, Tống, nước từ các kênh mương đổ vào sông này khiến nó sâu thêm. Đến khi Tùy Dương Đế sắp đi Giang Đô[8], bèn chia dòng Hoàng Hà[9], đắp đê hai bên dài hơn ba trăm dặm, nước từ các kênh cũ bị chặn ngang, tràn lan không chỗ dẫn[10], nên vùng Tống, Bạc trở thành đầm lầy ẩm thấp. Xưa dòng chảy êm đềm, nay lại hung dữ, nguy cơ đắm thuyền chiếm hai đến ba phần mười. Xưa vận chuyển đường thủy không ngừng cả đông hè, nay chỉ mở cửa vào mùa xuân và đóng vào mùa thu, cả năm chỉ vận chuyển được nửa năm. Xưa đi xuôi ngược đều không khó khăn, nay ngược dòng thì phải chở nặng, rất khó khăn. Xuôi dòng thì thuyền rỗng mà đi, lợi ích bị giảm sút. Huống chi từ khi thiên tử định đô, sông Biện chảy qua đô thành ra phía đông, mỗi năm mưa lớn đều lo ngập lụt. Xem xét như vậy, lợi ích ở đâu? Nhưng trải qua nhiều đời, không thể thay đổi ngay, ngày sau những người sáng suốt hiểu ra, nói về việc khôi phục dòng cũ, mới tin lời này không sai. Đây là lời trong ‘Vương Tằng bút lục’[11], nay phụ vào dưới bản tấu của Trương Kỵ.)

[9] Ngày Đinh Mão, Vua ngự tại điện Triều Nguyên, cử hành lễ sách phong Hoàng thái tử, bày biện như nghi thức hội Nguyên. Hoàng thái tử từ Đông Cung mặc thường phục cưỡi ngựa, đến lều trại bên ngoài cửa Triều Nguyên, thay phục đội mũ viễn du, mặc áo chu minh, cùng Tam Sư, Tam Thiếu dẫn đường vào điện nhận sách và ấn. Thái úy dẫn đầu trăm quan dâng lời chúc mừng. Hoàng thái tử đổi lại thường phục, cưỡi ngựa trở về cung. Trăm quan mặc thường phục đến cung để tham lễ, từ Xu mật sứ, các chức trong cung, các vương tông thất, sư bảo, tân khách, cung thần đều tập trung, theo thứ tự đứng dưới cửa cung. Thứ tử tấu lên rằng bên ngoài đã chuẩn bị xong, nội thần vén màn, Hoàng thái tử mặc thường phục ra từ lều rồi ngồi xuống. Các vương tông thất vào chúc mừng, lạy hai lạy xong, buông màn xuống. Hoàng thái tử từ ghế xuống trở về lều. Trung thư môn hạ, văn vũ bá quan, Xu mật sứ cùng các chức trong cung, sư bảo, tân khách trở xuống lần lượt vào chúc mừng, đều bước xuống thềm đáp lễ. Xong xuôi, Hoàng thái tử lên ngồi, nhận lời chúc mừng từ văn vũ bá quan cùng cung thần từ tam phẩm trở xuống. Ngày Canh Ngọ, sắp đặt nghi trượng, làm lễ yết Thái miếu năm gian, mặc thường phục cưỡi ngựa đi qua cửa Đông Hoa, lên xe.

[10] Tháng 10 mùa đông, ngày Ất Hợi, Hoàng thái tử xin nhường các quan trong cung không phải xưng thần, được chấp thuận.

[11] Vua từng nói rằng Vua Thuấn làm ra cây đàn năm dây để hát khúc Nam Phong, các Vua đời sau noi theo và thêm hai dây Văn, Vũ. Từ đó, lại cải tiến thành đàn chín dây và đàn nguyễn năm dây, biên soạn riêng ba mươi bảy quyển nhạc phổ mới[12], giao cho các nhạc công của Thái thường tập luyện để chuẩn bị dâng tiến. Ngày Ất Dậu, đem đàn và đàn nguyễn ra cho các quan gần bên xem, rồi nói rằng: “Âm nhạc chính nhã có thể trị tâm. Ý của người xưa có lẽ chưa hết. Đàn xưa có bảy dây, nay thêm thành chín dây, gọi là quân, thần, văn, vũ, lễ, nhạc, chính, dân, tâm, thì chín khúc hòa hợp mà không loạn. Đàn nguyễn xưa có bốn dây, nay thêm thành năm dây, gọi là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, thì năm chất dùng chung mà không trái.”

Vì thế, sai hai người đãi chiếu là Chu Văn Tế và Thái Duệ mang đàn và đàn nguyễn vào Trung thư gảy khúc nhạc mới, và hạ chiếu bảo Thừa tướng trở xuống đều đến nghe. Từ đó, trong ngoài có mấy chục người dâng thơ ca tụng. Vua bảo Thừa tướng rằng: “Sự hưng thịnh của văn vật triều đình này, đời trước không bằng. Bài ca tụng do quần thần dâng, Trẫm xem đi xem lại nhiều lần, so sánh tài mọn, chỉ có Lý Tông Ngạc, Triệu An Nhân và Dương Ức là lời lẽ tinh tế, có phong cách chín chắn, nên triệu đến Trung thư để khen ngợi.” Lại nói: “Ngô Thục, An Đức Dụ, Hồ Đán, hoặc là văn chương cổ nhã, hoặc là học vấn uyên bác, lại là hàng thứ nữa.”

An Nhân là con của Phu. Thục là người Đan Dương.

Chu Văn Tế, người Kim Lăng, chuyên lấy việc đàn ca làm thú vui, không màng danh lợi.

Vua ban đầu muốn thêm dây cho đàn cầm và đàn nguyễn, Văn Tế cho rằng không nên thêm, còn Thái Duệ lại cho rằng thêm thì tốt. Vua nói: “Đàn cổ vốn năm dây, mà Văn Vương và Vũ Vương thêm lên, nay sao không thể thêm?” Văn Tế đáp: “Năm dây vẫn còn di âm, thêm hai dây là đủ.” Vua không bằng lòng rồi thôi.

Đến khi đàn cầm và đàn nguyễn mới thêm dây làm xong, Vua triệu Văn Tế đến đàn, ông từ chối vì không thể. Vua tức giận, ban cho Thái Duệ áo đỏ, còn Văn Tế xếp trước Thái Duệ, lại chỉ mặc áo xanh, muốn dùng việc này để kích động Văn Tế. Lại sai Thái Duệ đi sứ Kiếm Nam, được hàng ngàn xâu tiền, Thái Duệ trở nên giàu có; còn Văn Tế thì nghèo khó rách rưới, nhưng chẳng để tâm. Vua lại từng đặt đàn cầm và đàn nguyễn mới trước mặt, bên cạnh đặt áo đỏ, vàng lụa cùng vật thưởng để dụ Văn Tế, nhưng ông vẫn giữ ý kiến trước.

Đến khi sai trung sứ đưa đến Trung thư, Văn Tế bất đắc dĩ, lấy đàn mười dây mà gẩy. Tể tướng hỏi: “Bản nhạc mới này tên là gì?” Văn Tế đáp: “Là khúc cổ ‘Phong nhập tùng’.” Vua khen ngợi ông giữ chí, cũng ban áo đỏ. Văn Tế phong thái thanh tú như thần tiên, Vua sai tăng cung phụng là Nguyên Ái vẽ chân dung ông lưu lại trong cung.

[12] Tháng mười một, ngày Kỷ Mùi, Vua duyệt binh ở điện Tiện, có vệ sĩ kéo cung nặng đến một thạch năm đấu, bắn hai mươi mũi tên mà vẫn còn dư sức, nhân đó bảo các cận thần: “Việc có điều kỳ lạ đáng kinh ngạc, chính là đây vậy. Hiện nay bốn biển yên ổn, nhân tài xuất hiện khắp nơi, đều nằm trong lòng bàn tay ta. Trẫm từng chọn trong hàng ngũ những người có khí chất đoan chính, dũng cảm mà biết lễ, tiến thoái hợp độ, truyền dạy phép kéo cung mạnh, để họ cùng giảng dạy lẫn nhau, nên tài nghệ bắn cung mới tuyệt vời như thế, không ai sánh bằng.” Lại lệnh kỵ binh và bộ binh mỗi loại vài trăm người, dàn trận đông tây, kéo cung giương nỏ, nhìn họ tiến thoái, phát tên nhất loạt, dáng điệu hợp nhịp. Vua nói: “Chỉ vài trăm người trong điện đình này thôi, mà uy binh đã đáng nể, huống chi là trận thế hùng hậu, hàng vạn người dàn trận thì sao!”

[13] Ban đầu, nhà Lương định đô sơ khai, các ngõ phố đều giữ tên cũ. Ngày Đinh Mão, Vua xuống chiếu cho Tham tri chính sự Trương Kỵ soạn lại hơn tám mươi tên phường trong và ngoài kinh thành. Từ đó, việc phân định bố trí mới bắt đầu có quy chế như kinh đô Ung và Lạc.

[14] Tháng 12, ngày Quý Dậu, Vua thấy thời tiết thuận hòa, mùa màng tốt tươi, giặc cướp đã bị dẹp yên, bèn nói với Thừa tướng rằng:

“Quốc gia từ mấy năm gần đây, gặp vận hạn, hạn hán lũ lụt liên miên, mất mùa năm này qua năm khác[13]. Hà Tây, Thục Xuyên nối nhau nổi loạn, vận chuyển lương thực từ xa, ngàn dặm xáo động. Hơn nữa, trong kinh thành, mưa dầm suốt tháng, trăm vật đều đắt đỏ, xác chết đói nằm la liệt trên đường. Lúc ấy, trăm họ đều lâm vào cảnh khốn cùng.

Trẫm là cha mẹ của họ, ở trên muôn dân, địa vị cao quý trách nhiệm nặng nề, không lúc nào được yên ổn. Mỗi ngày gặp các khanh, tuy bề ngoài không lộ vẻ lo lắng, nhưng trong lòng luôn canh cánh nỗi buồn, không phút giây nào được thư thái. Do đó, trong thì sửa sang chính sự, cứu vạn dân khỏi cảnh khốn khổ, ngoài thì chăm lo việc binh, dẹp yên giặc dã ở biên cương. Cho đến những việc thường ngày của các cơ quan, chuyện nhỏ như gạo muối, Trẫm cũng không ngại vất vả, đều tự mình quyết đoán. Nhờ vậy mà trời cao thương xót, tai họa qua đi, thái bình trở lại. Bọn tàn dư ở Ba Thục, lẩn trốn ở sông Kiềm, Kế Thiên cùng đồng bọn bị dồn vào sa mạc. Hơn nữa, khắp thiên hạ[14], lúa gạo đều bội thu, từ biên ải phía bắc đến vùng Giang Nam, thóc lúa đầy kho.

Trẫm đâu ngờ chỉ sau một năm tai họa, đã có được cảnh thái bình này, thực là đáng mừng và an ủi lắm thay!”

Lã Đoan và các quan cùng nhau chúc mừng.

[15] Trước đó, Ty thiên thu quan chính Hàn Hiển Phù xin chế tạo đồng hồn nghi và hậu nghi[15]. Vua xuống chiếu cấp kinh phí, để Hàn Hiển Phù chọn thợ đúc. Ngày Canh Thìn, đồng hồn nghi hoàn thành, Vua ra chiếu xây đài tại Ty thiên giám để đặt nó.

(Trương Tư Huấn và Hàn Hiển Phù đều có chế tạo đồng hồn nghi, nhưng trong phần ‘Bản chí’ chỉ ghi lại việc làm của Trương Tư Huấn, còn của Hàn Hiển Phù thì lược qua, chỉ chép riêng pháp độ hậu nghi, không rõ tại sao.)

[16] Ngày Bính Thân, Vua nhìn các quan hầu cận nói: “Từ thời Tấn, Hán đến nay, triều đình suy yếu, chúa tối tăm, bề tôi lộng quyền, kỷ cương đổ nát, chỉ còn là quốc gia trên danh nghĩa. Trẫm kế thừa sau thời loạn lạc, lên ngôi chí tôn. Khi mới lên ngôi, xem qua điển lệnh của các vị Vua trước, nhận thấy tệ chính của năm đời, vì tập tục đã lâu, nên phá cũ lập mới, tạo ra pháp độ riêng cho triều đình. Bấy giờ, người gần kẻ xa đều bàn tán, đều cho là không đúng, cho đến cả hai ba đại thần, vốn là những bậc đức cao tuổi lớn, cũng không thể không có ý kiến khác. Trẫm giữ lòng kiên định, không lay động, ngày đêm chăm chỉ, siêng năng không lười, đến nay đã hai mươi năm rồi. Các khanh cho rằng Trẫm trị nước ngày nay thế nào? Tuy chưa thể sánh với Tam hoàng, nhưng bốn biển yên bình; pháp lệnh rõ ràng, bốn phương tuân theo giáo hoá của triều đình, trăm quan không còn gian tà, cũng không thẹn với các đời trước.”

Vua lại nói: “Thời cận đại thực là loạn thế, nơi Trung thư bố chính, việc bổ nhiệm trong thiên hạ đều do tay quan hậu đường? Mua bán chức tước đã thành thói quen, quan lại trong ngoài, hiền ngu thiện ác không phân biệt được, chính sự như thế, sao không loạn được.” Vua lại nói: “Lúc bấy giờ, chư hầu đều chiếm cứ phương diện, uy quyền, phúc lộc đều tự mình định đoạt. Thế Tông từ Hoài Điện trở về, có dân chúng Hứa Châu đến kiện Tiết độ sứ Hướng Huấn trước xa giá, Thế Tông lập tức trói người đó giao cho Hướng Huấn, bảo tự tra hỏi. Huấn bắt được, liền nhấn chìm xuống nước. Sự coi thường pháp luật, ngang ngược như thế. Thiên hạ ngày nay chính là thiên hạ ngày xưa, nhân dân ngày nay chính là nhân dân ngày xưa. Trẫm từ khi lên ngôi, chưa từng một ngày nào không dậy sớm lúc gà gáy, nghe chính sự bốn phương, đến cả trăm việc nhỏ nhặt, Trẫm cũng thường hỏi han, nên biết rõ lợi hại, thấu hiểu lẽ an nguy, do đó không có việc bị che mắt, quyền lực bị lấn át.” Lã Đoan cùng các quan tâu rằng: “Thần đây đứng chực nơi triều đường[16], chưa từng giúp ích gì.” Lạy tạ rồi lui về.

[17] Tiết độ sứ Vĩnh An là Chiết Ngự Khanh bị bệnh, gián điệp của địch biết được, Hàn Đức Uy lại bị Lý Kế Thiên dụ dỗ, bèn dẫn quân xâm phạm để trả thù trận Tử Hà Hốc. Ngự Khanh gượng bệnh điều quân, Đức Uy nghe tin ông đến, liền dừng quân không dám tiến. Khi bệnh trở nặng, mẹ ông sai người thân tín đến gọi ông về chữa trị, Ngự Khanh nói: “Gia đình ta nhiều đời nhờ ân nước, giặc chưa diệt, đó là tội của ta. Nay đối mặt với quân địch, sao có thể bỏ quân sĩ mà tự tiện! Chết nơi quân ngũ, chính là phận của ta. Xin thưa với Thái phu nhân, đừng lo nghĩ cho ta, trung hiếu há được vẹn cả hai.” Nói xong, rơi lệ. Hôm sau, ông qua đời.

Ngày Đinh Dậu, Vua nghe tin Ngự Khanh mất, đau buồn mãi, truy phong ông làm Thị trung, cho con trai ông là Duy Chính, từ chức Cung phụng quan, làm Lạc uyển sứ, quản lý việc châu Phủ. Ngự Khanh nhiều đời làm tướng biên thùy, quen biết tình hình phiên di, trung dũng cảm khái, thường mong lập công để báo ơn, triều đình cũng cho rằng các châu Lân, Phủ gần Hạ quốc, nên dựa vào đó làm tường ngăn. Từ sau trận Tử Hà Hốc, quân Hạ mất hết khí thế, không dám tiến sâu gây họa nữa.

[18] Ngày Mậu Tuất, xử chém Mã bộ quân đô quân đầu, Thứ sử Trừng Châu là Tôn Tán, vì việc bảo vệ quân đồn Thạch Bảo mà tự ý dẫn quân vào địch cảnh, bị thất bại. Vua bèn nói với Tể tướng: “Tình hình quân đội, Trẫm đều hiểu rõ, chỉ cần thưởng phạt nghiêm minh, mọi người tự biết cố gắng. Tôn Tán gần đây xin đi Hà Tây phục vụ, khi giao chiến với giặc phiên, vi phạm mệnh lệnh chủ tướng, khiến hơn trăm người thiệt mạng, Trẫm đã sai sứ giả đến xử chém. Nếu những tướng lĩnh như vậy hơi sai phép mà không trừng trị nghiêm, thì bộ thuộc hàng ngũ, sao dám không tuân mệnh nữa!”

[19] Cùng ngày, Vua ban chiếu cho các quan văn võ trong ngoài cùng mọi người, từ nay trở đi, nếu xin định chế chính sự, phải có lợi cho nước, không hại đến dân, mới được tâu lên. Nếu thực hiện xong thấy rõ lợi ích, sẽ bàn việc khen thưởng, nếu gây tổn hại cho công tư, cũng sẽ nghiêm trị theo phép triều đình.


  1. 'Viết thực tế' nguyên bản là 'Khoan', căn cứ vào bản Tống, bản Tống Toát Yếu, bản Các và Tống Hội Yếu thực hóa 70/5 sửa lại.
  2. Chọn làm Đạo lại: 'Lại' nguyên bản là 'Sử', căn cứ theo bản Tống và 'Biên niên cương mục' quyển 5, 'Tống sử' quyển 268 truyện Vương Kế Anh sửa.
  3. Ngươi trước đây phụng sự Triệu Phổ: 'Tích' nguyên bản là 'Thủy', căn cứ theo bản Tống và 'Tống sử' quyển 268 sửa.
  4. Chữ 'thư án hoạ nhật' bốn chữ vốn thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và bản 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 9 chép việc lập Thái tử mà bổ sung.
  5. Nguyên chữ 'lại' sửa thành 'vì', căn cứ theo sách trên mà đổi.
  6. theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 14, chương 'Chính tích tổng loại', dưới câu này còn có: 'sông Huệ Dân chuyên chở bốn mươi vạn thạch thóc, hai mươi vạn thạch đậu; sông Quảng Tế chuyên chở mười hai vạn thạch thóc; tổng cộng năm trăm năm mươi vạn thạch.' Hai mươi tám chữ này có lẽ đã bị bỏ sót trong bản này.
  7. 'dân' vốn là 'phiền', theo sách trên đã sửa.
  8. thiếu chữ 'Chí', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và sách 'Vương Văn Chính công bút lục' (sau đây gọi là 'Vương Tằng bút lục') bổ sung.
  9. 'chia' vốn là 'sắp', 'dòng' vốn là 'nhánh', theo 'Vương Tằng bút lục' sửa.
  10. 'không chỗ' vốn có chữ 'về', theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 'Vương Tằng bút lục' bỏ.
  11. 'bút lục' vốn là 'đẳng'. Theo bản Tống chép 'bút', thiếu chữ 'lục', nay tham khảo bản Tống và 'Vương Tằng bút lục' sửa bổ sung.
  12. 'Ba' nguyên là 'hai', căn cứ vào bản Tống và quyển 7 'Ngọc Hải', quyển 126 'Nhạc chí' trong 'Tống sử' sửa lại.
  13. 'Mất mùa' nguyên bản chữ 'Thuận', căn cứ vào sách Tống bản, Tống toát yếu bản và sách 'Trị tích thống loại' quyển 3 'Thái Tông thánh chính' mà sửa
  14. 'Khắp thiên hạ' nguyên bản thiếu chữ 'chi', căn cứ vào sách Tống bản và sách 'Trị tích thống loại' đã dẫn mà bổ sung
  15. Ty thiên thu quan chính Hàn Hiển Phù xin chế tạo đồng hồn nghi hậu nghi, hai chữ 'hậu nghi' vốn bị thiếu, theo bản Tống, bản Tóm tắt sách Tống cùng tham khảo sách 'Biên niên cương mục' quyển 5 và phần chú thích ở đây mà bổ sung.
  16. Thần đây đứng chực nơi triều đường, chữ 'Đẳng' dưới nguyên có chữ 'Đắc', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản mà bỏ.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.