I. TỐNG THÁI TỔ
QUYỂN 5: NĂM CÀN ĐỨC THỨ 2 (GIÁP TÝ, 964)
Từ tháng giêng năm Càn Đức thứ 2 đời Thái Tổ đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng[1]
(Theo ‘Đông đô sự lược’ của Vương Xưng[2]: Chiếu ngày Tân Tỵ viết: “Cơ Tử nêu ra ‘Bát Chính’, lấy lương thực làm đầu. Di Ngô kể về ‘Tứ dân’, nông dân đứng hàng đầu. Nay đất đai đã bắt đầu màu mỡ, cây cối đâm chồi, đây chính là lúc phải chăm lo việc cày cấy. Các quan lại châu quận cần khuyên bảo dân chúng chăm chỉ làm ruộng, nghiêm ngăn nạn lười biếng, không để bỏ bê công việc, chú trọng sinh kế gốc, thực hiện theo ý Trẫm.”).
[2] Ngày Quý Mùi, Vua ngự đến Vườn Xuân dự yến tiệc và bắn cung.
[3] Ngày Giáp Thân, Tể thần Phạm Chất được cử làm sứ xem ngày cải táng tại An Lăng.
[4] Vua thấy nhiều người được tuyển chọn nhưng sống cảnh nghèo khó, hạ chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển cho phép tham gia tuyển chọn vào bốn mùa, đồng thời sai Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ là Đào Cốc cùng quan lại bản ty xem xét lại quy định về thứ bậc và điều khoản tuyển chọn bốn mùa.
[5] Ngày Ất Dậu, Lại bộ Thượng thư Trương Chiêu xin dựa theo lễ nghi của ba đời miếu thờ, đổi tên thụy của Minh Hiến Hoàng hậu thành Chiêu Hiến, Vua đồng ý.
[6] Người Hồi Cốt phái sứ đến triều cống.
[7] Ngày Đinh Hợi, quan Từ bộ lang trung, Tri chế cáo, sung chức Sử quán tu soạn là Trương Đạm người Nam Dương bị giáng chức làm Tả ty viên ngoại lang. Lấy Bí thư lang, Trực sử quán Trương Khứ Hoa làm Hữu bổ khuyết, ban cho áo bào, đai bạc, ngựa có yên cương.
Trước đó, Khứ Hoa dâng sớ than phiền về việc giữ chức lâu mà không thăng tiến, đồng thời nói rằng Trương Đạm cùng Lư Đa Tốn, quan Từ bộ viên ngoại lang, Tri chế cáo, văn chương nông cạn, mong được đối chiếu để xem ai hơn kém.
Vua liền lệnh cho Trương Đạm cùng Trương Khứ Hoa cùng thi tại điện Giảng Vũ, sai Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đào Cốc, Tri chế cáo Cao Tích chấm bài. Bài đối sách của Trương Đạm không đáp ứng được câu hỏi, nên bị giáng chức. Trương Đạm và Cao Tích vốn không ưa nhau, Cao Tích nhân đó dạy Trương Khứ Hoa chỉ trích khuyết điểm của Trương Đạm, lại cùng Đào Cốc hợp sức ủng hộ Trương Khứ Hoa và lấn át Trương Đạm. Triều đình đánh giá Trương Khứ Hoa là kẻ nông nổi, từ đó suốt 16 năm không được thăng chức.
Trương Khứ Hoa là con của Trương Nghị. (Trương Nghị, lần đầu xuất hiện vào năm thứ hai niên hiệu Thiên Phúc đời Tấn. Sư Văn Oánh trong sách ‘Ngọc Hồ Dã Sử’ chép rằng điện trung thị ngự sử Sư Tụng cũng không trúng tuyển, bấy giờ gọi là “giản đình điện viện”. Nhưng chính sử và thực lục đều không ghi chép việc này.)
[8] Trước đó, tiền Khai Phong hộ tào tham quân Tang Huân đánh trống Đăng Văn, tố cáo điều lệ của Lại bộ trước sau mâu thuẫn, bản thân đáng lẽ được bổ nhiệm làm huyện lệnh của huyện lớn, nhưng lại bổ làm huyện lệnh của huyện trung bình. Vua hạ chiếu triệu tập quan chức ba thự bàn bạc tại Thượng thư tỉnh, xét thấy lời tố cáo của Tang Huân là đúng, bèn thăng chức ông lên làm Điện trung thừa. Tang Huân là con của Tang Duy Hàn.
[9] Thừa tướng Phạm Chất, Vương Phổ, Ngụy Nhân Phố dâng biểu cầu xin từ chức.
Ngày Mậu Tý, phong Phạm Chất làm Thái tử Thái phó, Vương Phổ làm Thái tử Thái bảo, Ngụy Nhân Phố làm Tả bộc xạ, đều thôi tham gia chính sự.
Trước đây, Thừa tướng khi yết kiến thiên tử đều được mời ngồi, nếu có việc chính sự lớn thì cùng bàn luận trực tiếp, thường được thong thả dâng trà rồi cáo lui. Những việc khác như hiệu lệnh bổ nhiệm, hình phạt khen thưởng, bãi bỏ hay thiết lập, chỉ cần đưa vào tờ tấu trình sẵn, Vua phê “khả” là ban xuống thi hành ngay. Triều Đường và Ngũ Đại đều không thay đổi chế độ này, vẫn giữ được ý nghĩa ngồi bàn đạo của thời xưa. Phạm Chất và các ông tự cho mình là cựu thần triều trước, cần giữ gìn hình tích, lại sợ uy vũ của Vua, nên mỗi khi có việc đều chuẩn bị sẵn tờ tấu trình, lui về lại phê những lời thánh chỉ nhận được, rồi cùng đồng liệt ký tên để ghi nhận. Ông từng tâu với Vua rằng: “Làm như vậy thì sẽ nắm rõ phương thức bẩm báo[3], tránh được sai lầm thiếu sót”. Vua nghe theo. Từ đó, tờ tấu dâng lên ngày càng nhiều, có khi đến tối mịt, lễ dâng trà cũng dần bỏ, không còn thời gian ngồi bàn luận nữa.
Về sau thành lệ thường, khởi đầu từ Phạm Chất và các quan. (Theo ‘Vương Tằng bút lục’.) Tuy nhiên, Phạm Chất trong thời gian tại chức, không từng vi phạm luật lệ trong các chiếu thảo. Khi bổ nhiệm thứ sử, huyện lệnh, ông luôn coi việc hộ khẩu, sổ đinh là cấp thiết. Các sứ giả đi kiểm tra ruộng đất và xử án, ông đều triệu đến, giảng giải ý lo lắng, chăm chỉ của thiên tử, rồi mới sai đi. Thời đó, ông được xưng là vị tướng hiền.
[10] Ngày Kỷ Sửu, triều đình họp mặt trong điện, không có Tể tướng, Thái tử thái sư Hầu Chương giữ vị trí đứng đầu.
Chương người huyện Du Thứ, từng trải qua nhiều nhiệm vụ tại các trấn phương, đi đến đâu cũng tham lam tàn bạo. Sau khi bị cách chức Tiết việt, thường tỏ ra bất mãn. Một ngày nọ, tại triều đường, Chương buông lời bàn về việc thời Tấn, Hán, có người ngồi dưới tỏ ra khinh thường ông. Chương lớn tiếng nói: “Khi Bắc chủ bệnh nặng, định bàn việc trở về phương Bắc, lại có người dâng thư xin tránh nóng ở núi Tung Sơn, đó chẳng phải kẻ trung tín. Ta tuy thô lỗ, nhưng lấy chiến đấu mà giành phú quý, chưa từng làm những việc nịnh hót như vậy.” Mọi người ngồi đều lộ vẻ xấu hổ. (Chương, xuất hiện lần đầu năm Thiên Phúc nguyên niên.)
[11] Ngày Canh Dần, lấy Xu mật sứ Triệu Phổ làm Môn hạ thị lang, Bình chương sự, Tập hiền viện đại học sĩ, Tuyên huy Bắc viện sứ, Phán tam ty Thượng Đảng Lý Sùng Củ[4](Sùng Củ, xuất hiện lần đầu năm Quảng Thuận nguyên niên.) làm Kiểm hiệu Thái uý, (Xem ‘Tống sử – Tể tướng biểu’ chép là Kiểm hiệu Thái bảo.) sung chức Xu mật sứ. Vua sau khi bổ nhiệm Phổ và Sùng Củ, không có Tể tướng thay mặt ký sắc. Lúc đó Vua đang ở điện Tư Phúc[5], Phổ vào tâu việc này.
Vua nói: “Khanh cứ mang sắc đến, Trẫm sẽ ký thay, được không?” Phổ đáp: “Đây là việc của quan chức, không phải việc của đế vương.”
Vua bèn sai hỏi Hàn lâm học sĩ để tìm hiểu lệ cũ. Đào Cốc kiến nghị rằng: “Từ xưa đến nay chức Tể tướng chưa bao giờ bỏ trống, chỉ có thời Đường Thái Hòa, sau sự kiện Cam Lộ vài ngày không có Tể tướng, khi đó Tả bộc xạ Lệnh Hồ Sở thay mặt ban hành chế thư. Nay Thượng thư cũng là trưởng quan của Nam tỉnh, có thể thay mặt ký sắc.” Đậu Nghi nói: “Điều Cốc nêu ra không phải là quy chế thời thịnh trị, không đủ để dẫn chứng. Nay Hoàng đệ giữ chức Khai phong doãn, Đồng bình chương sự, chính là nhiệm vụ của Tể tướng.” Vua nghe theo lời Nghi.
[12] Ngày Nhâm Thìn, ban chiếu rằng: “Những khoa thi trước đây như Hiền lương phương chính, có khả năng nói thẳng can gián; Kinh học uyên thâm, có thể làm khuôn mẫu[6]; Thông thạo việc quan, hiểu rõ giáo hóa, ba khoa này đều giao cho các châu phủ giải về Lại bộ, thi luận ba đề, giới hạn trên ba nghìn chữ[7]. Từ trước đến nay chưa có người ứng thí, phải chăng người tài cao chẳng muốn bị ràng buộc bởi lệ thường, người ngay thẳng khó lòng hợp với quan lại, nên việc này phải bắt đầu từ Trẫm? Từ nay về sau, không phân biệt quan chức trong ngoài, người đang tại chức hay đã nghỉ, kẻ áo vải, áo vàng, đều được phép đến cửa cung dâng sớ tự tiến, Trẫm sẽ thân chính thử sức họ.”
[13] Ngày Đinh Dậu, lệnh cho Khai phong doãn Quang Nghĩa làm sứ cải bốc an lăng, kiêm quản công việc của năm sứ.
[14] Ngày Kỷ Hợi, lấy Xu mật thừa chỉ Vương Nhân Thiệm làm Tả vệ đại tướng quân, sung chức Xu mật phó sứ.
[15] Ngày Canh Tý, đổi Thanh nguyên quân thành Bình hải quân, lấy Trần Hồng Tiến làm Tiết độ sứ, con trai là Văn Hiển làm Phó sứ, Văn Hạo làm Thứ sử Nam châu[8]. Trần Hồng Tiến hàng năm dâng cống, phần lớn là vơ vét của dân, lại ghi tên những người có tài sản trên một trăm vạn, bắt nộp tiền để bổ làm Hiệp luật, Phụng lễ lang, nhưng miễn cho họ việc lao dịch. Con cháu thân thích, thông đồng hối lộ, dân hai châu đều rất khổ sở.
(Tra ‘Tiết Ứng Kỳ Tục thông giám’ viết là dân một châu rất khổ sở.)
[16] Ngày Nhâm Dần, ban chiếu lệnh cho Triệu Phổ làm Giám tu quốc sử. Trước đây, các chức vụ của Tể tướng kiêm nhiệm đều được quyết định bởi chiếu chỉ trong triều[9]. Nay chỉ dùng chiếu, không theo lệ cũ. Triều đình kế thừa chế độ từ thời Đường và Ngũ Đại, giao cho Tể tướng phụ trách ba quán. Tể tướng đứng đầu giữ chức Chiêu Văn Quán Đại học sĩ, tiếp theo là Giám tu quốc sử, sau cùng là Tập Hiền Viện Đại học sĩ.
[17] Ngày Giáp Thìn, ban chiếu rằng: “Đình Úy xét xử án ngục, thuộc bộ Hình xem xét hình phạt, đó là lệ cũ. Đầu niên hiệu Trường Hưng đời Đường, bắt đầu lập ra thời hạn xử lý các vụ việc lớn, vừa và nhỏ, đến chế độ Quảng Thuận thời Chu, không cho phép Trung thư môn quyết định một cách chuyên quyền. Quy chế đã có sẵn, nên tuân theo. Những năm gần đây, các cơ quan bỏ bê chức trách, đưa các vụ án lên, khiến hoàng thượng phải tự xem xét. Từ nay, các vụ án từ các đạo đều giao xuống cho Đại Lý Tự xét xử, Bộ Hình xem xét lại, theo đúng chế độ cũ. Quan chức của hai cơ quan này nếu làm tốt chức vụ, sau một năm sẽ được thăng cấp; nếu chậm trễ hoặc sai sót, sẽ bị xử phạt nặng.”
[18] Ngày Ất Tỵ, cấm dân kiện cáo vượt cấp.
[19] Hoàng thượng đến Ngọc Tân Viên dự yến và bắn cung.
[20] Ban thưởng cho binh lính làm việc ở kinh thành trà và gừng.
[21] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu rằng: Những quan chức châu huyện tuổi cao, già yếu hoặc mắc bệnh nặng không thể tiếp tục làm việc, lệnh cho Phán quan và Lục sự điều tra, cùng với Trưởng lại cùng ký tên, trình bày tình hình lên triều đình. Việc đánh giá năng lực của Phán quan và Lục sự thì giao cho Trưởng lại xem xét.
[22] Trước đó, đã ban chiếu rằng các quan huyện lệnh và huyện úy không được tự ý vào làng xã khi không có việc công, cũng không được bắt người dân và tham dự các cuộc họp nhiều cấp. Nay lại nhắc lại, lệnh cho Phán quan và Lục sự xem xét, nếu ai vi phạm sẽ bị tâu lên và trị tội. (Chiếu trước đó ban vào ngày 17 tháng 5 năm Kiến Long thứ 4, nhưng trong ‘Thực lục’ và cả ‘Hội yếu’ cũ và mới đều không ghi chép.)
[23] Trong tháng đó, Chiêu Nghĩa tiết độ sứ Lý Kế Huân, Binh mã kiềm hạt Khang Diên Chiểu, Mã bộ quân đô quân đầu Doãn Huân dẫn hơn một vạn bộ binh và kỵ binh tấn công Liêu Châu.
Mã quân đô chỉ huy sứ của Bắc Hán là Hác Quý Siêu dẫn quân đến cứu viện, giao chiến dưới thành, Quý Siêu đại bại. Thứ sử Đỗ Diên Thao (Diên Thao, chưa thấy ghi chép.) lâm vào cảnh nguy ngập, cùng Củng vệ đô chỉ huy sứ Ký Tiến (Tiến, chưa thấy ghi chép.), Binh mã đô giám, Cung phụng quan Hầu Mỹ (Hầu Mỹ, chưa thấy ghi chép.), tập hợp ba nghìn binh lính dưới quyền đầu hàng. Diên Chiểu là em của Diên Trạch.
Bắc Hán sau đó dụ Khiết Đan đem sáu vạn bộ binh và kỵ binh xâm lược, Kế Huân lại cùng Chương Đức tiết độ sứ La Ngạn Hoàn, Tây Sơn tuần kiểm sứ Quách Tiến, Nội khách tỉnh sứ Tào Bân dẫn sáu vạn quân đến chống cự, đại phá quân Khiết Đan và Bắc Hán dưới thành Liêu Châu. (Bản kỷ không nhắc đến việc Bắc Hán dụ Khiết Đan, chỉ nói Khiết Đan đem sáu vạn kỵ binh đến cứu viện. [Sách] ‘Lưu Quân truyền’ cũng không ghi chép việc Khiết Đan đến cứu viện, [sách] ‘Khiết Đan truyền’ và ‘Lý Kế Huân truyền’ đều nói Bắc Hán dụ Khiết Đan, nay theo đó. [Sách] ‘Khiết Đan truyền’ lại ghi Tào Bân là Vũ Hoài tiết độ, nay không lấy. Cả sách mới và cũ đều không có đoạn này[10], không rõ cụ thể thời gian nào, nay tạm ghi thêm. Đỗ Diên Thao đầu hàng ở Liêu Châu, Lý Kế Huân liền sai Mộ Dung Diên Trung vào tâu, ngày Mậu Tý đầu tháng hai, Diên Trung đến kinh đô, nay ghi việc này vào cuối tháng một.)
[24] Mùa xuân, tháng hai, ngày Mậu Thân (ngày mùng 1), Hàn lâm học sĩ Đậu Nghi dâng lên điều kiện mới quy định về việc tham gia tuyển chọn bốn mùa:
“Các châu in phát văn bản tuyển chọn nhân sự mùa xuân, từ nghìn dặm đến năm nghìn dặm ngoài, chia thành năm loại theo thời hạn ngày, mỗi loại phải rời khỏi nơi xuất phát, cùng với các văn bản của các cơ quan ở kinh đô, tất cả đều phải đến bộ vào trước ngày 15 tháng giêng[11], các mùa khác theo đó. Nếu châu phủ vi phạm thời hạn hoặc trong văn bản giải trình thiếu sót sự kiện[12], không theo quy định, quan phán sự phạt tiền, lục sự tham quân, quan bản tào bị hạn chế tham gia tuyển chọn[13].
Các châu có chức vụ khuyết, đều phải báo cáo mẫu giải trình khuyết, dùng bìa gỗ niêm phong kỹ, dán đề hiệu, theo mỗi mùa gửi đến bộ theo quy định, các cơ quan kỹ thuật ở kinh đô có chức vụ khuyết cũng theo đó. Trong mùa không đến hoặc có sai sót, các châu từ quan phán sự trở xuống phạt tiền, bị hạn chế tham gia tuyển chọn, các cơ quan ở kinh đô do quan bản thân tâu xin xét duyệt. Các quan trở về cơ quan, khi đủ tiêu chuẩn, bốn mùa tâu đủ năm, chờ chiếu chỉ, theo quy định lấy văn bản của cơ quan mình để tham gia tập hợp[14], Lưu nội tuyển căn cứ vào tình hình tâu lên, theo bốn mùa lấy giải trình để tham gia tuyển chọn.”
Vua chuẩn y.
[25] Ngày hôm đó, Vua ngự đến hồ Giáo Thuyền, rồi đến chùa Tướng Quốc.
[26] Ngày Quý Sửu, sai Cấp sự trung Lưu Tải đi cứu tế dân đói ở Thiểm Châu.
[27] Lệnh cho Hữu Thần Vũ thống quân Trần Thừa Chiêu[15] dẫn hàng nghìn dân phu đào kênh, từ Trưởng Xã dẫn nước Dị về kinh, hợp với sông Mẫn. Nước Dị xuất phát từ núi Đại Quỹ ở huyện Mật, chảy qua Hứa Điền, mỗi khi gặp mưa lớn vào mùa xuân hạ thường gây ngập lụt, hại mùa màng. Sau khi kênh đào xong, dân không còn lo lũ lụt, đường thủy sông Mẫn cũng thông suốt hơn.
[28] Ngày Giáp Dần, Đỗ Thao cùng bảy người (Xét: Đỗ Thao nghi là Đỗ Diên Thao, bị thiếu chữ “Diên”.) từ Liêu Châu về, Vua tha tội cho họ, ban cho vật phẩm theo thứ bậc. Khi Dương Lân từ Phủ Châu về cũng được đối đãi như vậy.
[29] Đường chủ dâng biểu tạ ơn về việc chỉ dụ Trần Hồng Tiến. Ngày Ất Mão, Vua ban chiếu trả lời.
[30] Ngày Đinh Tỵ, đường hầm ở An lăng bị sập, hai trăm lính thi công bị chôn vùi. Vua ra lệnh chôn cất, cấp tiền và vải lụa cho gia đình họ.
[31] Ngày Nhâm Tuất, ban chiếu từ nay những trấn sứ kiêm Bình chương sự xin về hưu, mỗi khi triều hội, nên cho đứng ở ban dưới cửa Trung thư. Trước đó, An Viễn tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh Vương Yến xin nghỉ làm Thái tử Thái sư, Vua muốn tỏ lòng ưu đãi nên hạ chiếu này.
[32] Ngày Đinh Mão, ban chiếu rằng: “Vào thời Chu Quảng Thuận, có sắc rằng: ‘Các quan châu huyện đã xuất tuyển, nếu trong đó có người đã trải qua sáu kỳ khảo hạch[16], được thăng lên bậc Triều tán đại phu, đứng sau lệnh châu lớn, và đã từng trải qua các chức vụ trong triều, cũng như từng làm phán quan của hai sứ, thiếu doãn các phủ, sau khi bãi nhiệm đủ một năm; những người từng làm phán quan trại ruộng của hai phiên, thư ký, chi sứ, phán quan phòng ngự và đoàn luyện, sau khi bãi nhiệm đủ hai năm: đều được bổ nhiệm. Những người tuyển chọn khác đã qua ba kỳ tuyển trở lên, và những người chưa đủ thời gian khảo hạch để tang, quan xét công trạng không còn kỳ tuyển nào để giảm, thì cho nộp đơn tại Nam Tào, dựa theo quy tắc sắc lệnh mà kiểm tra không có sai phạm, đều được bổ nhiệm. Nếu sợ ảnh hưởng đến thời hạn và thứ bậc, muốn quay lại cửa tuyển cũng cho phép. Những người từng làm suy, tuần, phán quan quân sự, và các quan đã xuất tuyển, đều căn cứ theo số lần tuyển của chức vụ hiện tại mà xét duyệt, ưu tiên xếp hạng trước. Các quan được minh oan thì theo lệ gửi đến Bộ Hình để kiểm tra rồi chuyển cho Thuyên quan’. Nay dựa theo nguyên sắc mà bổ nhiệm.”
[33] Ngày Mậu Thìn, lấy Lệnh huyện Củng kiêm làm Lệnh đài An Lăng.
[34] Đem quân hàng của Liêu Châu chia vào đội Hiệu Thuận, số còn lại lập thành quân Hoài Ân.
[35] Ngày Giáp Tuất, Đường chủ sai sứ đến tuế cống, giúp việc dời đổi vị trí xây dựng An Lăng.
[36] Tháng 3, ngày mùng 1 Đinh Sửu, Lại bộ thượng thư là Trương Chiêu cùng với Hàn lâm học sĩ thừa chỉ là Đào Cốc cùng nắm quyền tuyển chọn, Cốc vu cáo Tả gián nghị đại phu là Thôi Tụng dùng người thân thuộc là Cấp sự trung Lý Phưởng để xin chức Đông kỳ lệnh, đồng thời dẫn Trương Chiêu làm chứng. Vua gọi Trương Chiêu đến để tra hỏi sự việc, Trương Chiêu biết Cốc không ngay thẳng, bèn cởi mũ trước mặt Vua, lớn tiếng nói rằng Cốc lừa dối trên. Vua không vui.
Ngày Đinh Sửu, Phưởng bị cách chức làm Chương vũ hành quân tư mã, Tụng làm Bảo đại hành quân tư mã. Trương Chiêu liền ba lần dâng sớ xin được nghỉ hưu, ngày Ất Dậu, được cho về hưu với nguyên chức. Trương Chiêu làm Lại bộ thượng thư kiêm quản việc tuyển chọn, phàm quan viên kinh đô từ thất phẩm trở xuống đều thuộc quyền bộ Lại, đến khi Trương Chiêu về hưu, mới dùng quan khác tạm quyết định, thay đổi khá nhiều chế độ cũ, quan viên kinh đô từ thất phẩm trở lên không thuộc quyền tuyển chọn, đều do Trung thư môn hạ đặc cách bổ nhiệm, các phủ sứ không được tự ý triệu bổ, các chức mạc phủ đều do bộ Lại tuyển chọn. (Theo sách ‘Hội yếu’, nhưng vào đầu niên hiệu Kiến Long, Tiết Cư Chính đã tạm quyết định việc tuyển chọn ở Lưu nội tuyển rồi. Cần khảo cứu.)
[37] Ngày Tân Tỵ, Vua đến hồ Giáo thuyền, ban thưởng áo quần cho các tướng sĩ thủy quân theo thứ bậc. Khi trở về, Vua đến vườn Ngọc Tân tổ chức yến tiệc và bắn cung.
[38] Ngày Tân Mão, đổi trấn Âm Thành thuộc châu Tương thành quân Quang Hóa.
[39] Ngày Ất Mùi, bốn người gồm Đoàn luyện sứ châu Diệu của Bắc Hán là Chu Thẩm Ngọc đến đầu hàng. Mỗi người được ban thưởng vật phẩm khác nhau. Thẩm Ngọc được bổ làm Đoàn luyện sứ châu Phần, đổi tên là Thừa Tấn. (Sách ‘Thực lục’ chép vào tháng 7, ngày Mậu Tuất mới bổ nhiệm Thừa Tấn làm châu Phần, nay gộp lại mà chép.)
[40] Ngày Đinh Dậu, sai Tả thập di là Lương Chu Hán trạm dịch đi đến Ngũ Nhạc để cầu mưa.
[41] Ban chiếu rằng các quan văn võ khi đi sứ ngoài kinh thành hoặc thay thế trở về, các châu huyện trên đường đi không được tự ý mượn quân quan đưa tiễn, cũng không được sắp xếp chỗ ở và hành lý, kẻ nào vi phạm sẽ bị xử phạt nặng.
[42] Lúc đầu, Đường bỏ tiền lớn Vĩnh Thông, theo lời bàn của Hàn Hi Tải, đúc tiền sắt đáng hai. Hi Tải từ chức Trung thư Xá nhân được thăng làm Hộ bộ Thị lang, kiêm chức Đúc tiền sứ. Thừa tướng Nghiêm Tục nhiều lần nói tiền sắt không tiện, Hi Tải tranh luận tại triều đình, giọng nét đều gay gắt. Bị giáng làm Bí thư Giám, chưa đầy một năm lại được bổ làm Lại bộ Thị lang.
Tháng này, bắt đầu dùng tiền sắt, Hi Tải được thăng làm Binh bộ Thượng thư, kiêm chức Cần Chính Điện Học sĩ. Dân gian nhiều người giấu tiền cũ, tiền cũ ngày càng ít, thương nhân ra khỏi biên giới, thường đổi mười đồng tiền sắt lấy một đồng tiền đồng, quan phủ không cấm được, buộc phải để thuận theo lòng dân. Quan lại đều được tăng bổng lộc, nhưng dùng tiền đồng để chi trả, vì thế giá cả tăng gấp mấy lần, Hi Tải cũng tự hối hận. (Hi Tải được bổ làm Hộ bộ Thị lang, kiêm chức Đúc tiền sứ, sách ‘Thập Quốc Kỷ Niên’ và ‘Sóc Ký’ ghi là vào cuối tháng 2 năm Kiến Long thứ nhất, còn việc được thăng làm Binh bộ Thượng thư, kiêm chức Cần Chính Điện Học sĩ là vào tháng 6 cùng năm, nay ghi chung tại đây.)
[43] Xuống chiếu rằng các đạo kỵ binh thường bị các quan trưởng sử dụng, làm mất việc huấn luyện, từ nay cấm chỉ điều đó.
[44] Quyền Tri cống cử Đào Cốc tâu rằng có tám người đỗ tiến sĩ.
[45] Mùa hạ, tháng 4, ngày Đinh Mùi mùng 1, bổ nhiệm Dĩnh Chí, nguyên là Châu quân sự Phán quan Bác Châu, làm Trứ tác Tá lang. Chí ứng thi khoa Hiền lương Phương chính Năng trực ngôn Cực gián, bài thi đối sách hợp ý Vua nên được bổ nhiệm. (Chí, không rõ lai lịch.)
[46] Ngày Mậu Thân, xuống chiếu rằng các quan trưởng các châu phải xem xét ruộng của dân, nơi nào hạn hán nặng thì lập tức miễn thuế, không cần chờ báo.
[47] Ra lệnh cho Hà Trung Phủ mở kho lương cứu tế dân đói.
[48] Ngày Ất Mão, cải táng Tuyên Tổ Chiêu Vũ Hoàng Đế và Chiêu Hiến Hoàng Thái Hậu tại An Lăng, Hiếu Minh Hoàng Hậu Vương thị và Hiếu Huệ Hoàng Hậu Hạ thị được hợp táng.
[49] Thượng muốn đặt chức phó dưới quyền Triệu Phổ nhưng khó xác định danh xưng, bèn triệu Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đào Cốc hỏi: “Chức quan nào thấp hơn Thừa tướng một bậc?”
Đào Cốc đáp: “Đời Đường có chức Tham tri cơ vụ, Tham tri chính sự.”
Ngày Ất Sửu, lấy Xu mật trực học sĩ, Binh bộ thị lang Tiết Cư Chính và Lữ Dư Khánh cùng giữ chức Tham tri chính sự, không tuyên chế, không áp ban, không cầm ấn, không lên chính sự đường, chỉ lệnh đến sảnh đường Tuyên huy sứ làm việc[17], trong điện đình đặt riêng vị trí gạch phía sau tể tướng, cuối chiếu ghi chức tước thấp hơn tể tướng vài chữ, lương tháng và các khoản phụ cấp đều giảm một nửa, vì ý của Thượng chưa muốn để Tiết Cư Chính và Lữ Dư Khánh ngang hàng với Triệu Phổ.
(Đây là dựa theo ‘Thái Tổ Tân Lục’, ‘Bách Quan Biểu’, và ‘Đại Sự Ký’. ‘Thái Tông Thực Lục’ chép: Triệu Phổ ở ngôi tể tướng mấy chục năm, độc đoán chính sự, Thái Tổ nghi ngờ ông chuyên quyền, muốn dùng Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh làm tể tướng. Triệu Phổ ghét những người này cùng hàng với mình, chỉ cho họ làm Tham tri chính sự, đến sảnh Tuyên huy phó thượng, vị trí ở sau tể tướng, chỉ phụng hành chế thư, không được dự bàn việc triều chính, để phân biệt đẳng cấp khác nhau. Ấn trung thư chỉ có tể tướng giữ, việc lớn nhỏ đều do Triệu Phổ quyết định, Tiết Cư Chính và những người khác chỉ sợ hãi giữ chức vị mà thôi. Thái Tổ lo lắng về việc này, gặp lúc Triệu Phiền tố cáo, Lư Đa Tốn lại ngày đêm công kích, Lôi Hữu Cơ kiện việc trung thư làm bất hợp pháp, Thái Tổ bèn lệnh cho Tiết Cư Chính và những người kia biết ấn, áp ban, để chia bớt quyền của Triệu Phổ. Xét việc đặt chức Tham chính là do Đào Cốc đề xuất, và lúc này Thái Tổ đang độc nhiệm Triệu Phổ, chưa từng chán ghét sự chuyên quyền của ông, nên nay không theo.
‘Thái Tổ Tân Lục: Đậu Nghi Truyền’ chép: Thái Tổ nhiều lần khen ngợi Đậu Nghi có chính trực, muốn dùng làm tể tướng, Triệu Phổ sợ Nghi cứng rắn, liền đề cử Tiết Cư Chính làm Tham tri chính sự. Theo đó, Tiết Cư Chính là do Triệu Phổ tiến cử, không phải ý của Thái Tổ, đủ thấy ‘Thái Tông Thực Lục’ chép không đúng. Tuy nhiên, ‘Tân Truyện’ nói Triệu Phổ ức chế Đậu Nghi, ‘Cựu Truyện’ không có việc này, e rằng Triệu Phổ chưa chắc đã làm như vậy.
Sử thần Lý Hãng và những người khác bàn: Xét việc cũ thời Đường, Bùi Tịch làm Bộc xạ tri chính sự, Đỗ Yêm làm Ngự sử đại phu tham nghị triều chính, Ngụy Trưng làm Bí thư giám tham dự triều chính, Tiêu Vũ làm Đặc tiến tham nghị chính sự, Lưu Kỵ làm Hoàng môn thị lang tham tri chính sự, Lưu U Cầu làm Trung thư xá nhân tham tri cơ vụ, đều là chức vụ tể tướng.
Lại nữa, Cao Tông từng muốn dùng Quách Đãi Cử làm Tham tri chính sự, sau đó bảo Thôi Tri Ôn rằng: “Đãi Cử và những người khác kinh nghiệm còn non, chưa thể cùng các khanh đồng danh xưng.” Bèn lệnh họ ở Trung thư môn hạ cùng nhận lệnh tiến chỉ bình chương sự. Theo đó, Bình chương sự thấp hơn Tham tri chính sự. Nay Đào Cốc không biết dẫn việc cũ thời Hán về Ngự sử đại phu là chức phó tể tướng để trả lời, lại lấy Tham tri chính sự làm chức thấp hơn Thừa tướng, là sai lầm của Đào Cốc. Người bàn luận đều tiếc cho việc này.)
[50] Ngày Bính Dần, Triệu Biền, nguyên Thái Châu thứ sử, được phong làm Tả Giám môn vệ Đại tướng quân, quyền Điểm kiểm Tam ty. Biền là người Thiền Châu. (Biền, xuất hiện lần đầu vào năm Hiển Đức thứ hai.)
[51] Ngày Đinh Mão, ban chiếu lệnh Thị vệ Mã quân Đô chỉ huy sứ Phạm Dương Lưu Quang Nghĩa dẫn quân đến Lộ Châu để phòng bị Bắc Hán.
[52] Ngày Kỷ Tỵ, ra lệnh vận chuyển ba vạn thạch thóc từ Kinh Châu để cứu tế dân đói ở Linh Vũ. (Sách ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ lại chép việc này vào ngày Đinh Dậu tháng mười Một, nay không lấy.)
[53] Trước đó, truy phong Hiếu Huệ Hoàng hậu, chỉ lập miếu thờ tại lăng, dâng cúng thức ăn thường ngày. Đến khi Hiếu Minh Hoàng hậu băng, mới bàn việc lập miếu riêng. Ngày Nhâm Thân, đưa hai vị hoàng hậu vào thờ chung một điện, khác phòng, Hiếu Minh ở trên, Hiếu Huệ ở dưới, theo đề nghị của Thái thường bác sĩ Hòa Hiến. Ra lệnh cho các phủ, ty, tự, nếu có lại dịch già cả thì cho phép con em thay thế.
[54] Vĩnh Châu tâu rằng ba trăm hai mươi sáu hộ dân các huyện nuôi bùa độc. Chiếu lệnh cho châu ấy đưa họ đến nơi hẻo lánh, không được sung vào việc dịch, và làng xóm không được kết thông gia.
[55] Dân các châu Khê, Tự, Tưởng đánh cướp lẫn nhau, sai Điện trực Ngưu Doãn (Doãn, chưa thấy xuất hiện) mang chiếu dụ, sau đó yên ổn. (Sự việc này căn cứ vào ‘Hội yếu’ và ‘Chính sử’, đều ghi trong tháng này.)
[56] Chiếu lệnh Thượng thư tỉnh tập hợp các quan đài tỉnh, Hàn lâm học sĩ, Bí thư giám, Quốc tử tư nghiệp, Thái thường bác sĩ và các quan bàn định nghi thức gặp gỡ giữa các quan trong và ngoài triều, rồi ban hành. (Sự việc này căn cứ vào ‘Lễ chí’, ghi kèm tháng tư.)
[57] Mùa hè, tháng năm, ngày Đinh Sửu mùng một, chiếu lấy hạ cung của An Lăng cũ làm Phụng Tiên Tư Phúc Thiền viện, rồi rước tượng đồng của Tuyên Tổ và Chiêu Hiến Hoàng hậu vào thờ.
[58] Đồn điền viên ngoại lang, Tri chế cáo Cao Tích vì em là Tiển ứng thi tiến sĩ, nhờ Khai Phong phủ suy quan người Hà Nam là Thạch Hi Tải xin được đề cử đầu. Tiển văn từ kém cỏi, Hi Tải không đồng ý, Tích lấy làm hậm hực, nhiều lần trước mặt Vua nói Hi Tải phụ tá không ra gì. Vua bảo hoàng đệ là Khai Phong doãn Quang Nghĩa rằng: “Nên chọn người thay thế Hi Tải.” Quang Nghĩa đáp: “Hi Tải làm quan cần mẫn, đây hẳn là do Cao Tích gièm pha.” Vua chợt hiểu ra, muốn trị tội Tích nhưng chưa có cớ. Nhân lúc sai Tích đi sứ Thanh Châu, Tích nhận hối lộ của Tiết độ sứ Quách Sùng, đi qua các nơi đều cậy thế hung hãn, lại từng viết thư cho Thứ sử Lễ Châu nhờ xin áo cà sa cho nhà sư, bị người tố cáo, giao xuống Ngự sử phủ tra xét thấy đúng sự thật, bị giáng làm Tư mã Lai Châu.
[59] Ngày Tân Tỵ, Tông chính thiếu khanh Triệu Lệ vì tội tham nhũng, bị đánh trượng, xóa tên khỏi sổ quan, trở về làm dân. (Xem ‘Tống sử’ và ‘Tục thông giám’ của Tiết Ứng Kỳ đều chép là Tông chính khanh Triệu Lệ.)
[60] Ngày Quý Mùi, Vua ngự đến vườn Ngọc Tân dự yến tiệc bắn cung.
[61] Tháng 6, ngày Kỷ Dậu, lấy hoàng đệ là Khai Phong doãn, Đồng bình chương sự Quang Nghĩa kiêm Trung thư lệnh, Sơn Nam Tây đạo Tiết độ sứ Quang Mỹ làm Đồng bình chương sự.
[62] Ngày Canh Tuất, hoàng tử Đức Chiêu được phong làm Quý Châu Phòng ngự sứ, lúc ấy 17 tuổi. Đời trước, hoàng tử ra khỏi cung liền phong Vương, nhưng Vua cho rằng Đức Chiêu chưa đến tuổi thành niên, nên đặc cách giảm bớt lễ nghi, không theo quy chế cũ.
[63] Ngày Tân Hợi, phong Quách Tòng Nghĩa, nguyên là Tiết độ sứ Vũ Ninh, làm Tiết độ sứ Hộ Quốc.
Trước đó, Tòng Nghĩa từ Từ Châu vào triều (Tòng Nghĩa vốn xuất thân từ Sa Đà, lần đầu xuất hiện vào năm Càn Hữu, không rõ tước vị và quê quán). Vua triệu ông đến đánh cầu trong sân điện. Tòng Nghĩa thay y phục, cưỡi lừa, phi nước đại, đánh cầu rất điêu luyện, mong nhân đó để được Vua chú ý. Khi xong việc, Vua triệu ông vào ban tọa, nói: “Kỹ thuật của khanh quả thật tinh xảo, nhưng đây không phải là việc của bậc tương tướng.” Tòng Nghĩa xấu hổ mà lui về.
Nhà Tòng Nghĩa tích lũy hàng vạn vàng, có nghìn đầy tớ, hơn nghìn ngựa trong chuồng. Từ thời Ngũ Đại trở đi, các Tiết độ sứ giàu mạnh thường mang ý chuyên quyền, nhưng uy đức của Vua chấn động, khiến mọi người dần mất hy vọng. Tòng Nghĩa dời trấn về Hà Trung, thường buồn bã, nói với thuộc hạ: “Tòng Nghĩa là bề tôi nhỏ mọn, suy sụp như thế này, chắc sẽ bị anh hùng chê cười.” (Việc đánh cầu cần kiểm tra lại, có sách chép rằng Tòng Nghĩa từ Từ Châu vào triều. Sách ‘Bảo Huấn’ chép rằng việc này xảy ra khi ông từ Hộ Quốc vào triều vào năm Càn Đức. Chưa rõ đâu là đúng.)
[64] Ngày Ất Mão, phong Lưu Hi Cổ, Hình bộ thị lang, quyền tri Phượng Tường phủ, làm quyền tri Tần Châu. Châu này giáp biên giới với người Nhung, thường bị cướp phá. Hi Cổ đến nơi, dùng ơn đức và uy tín của triều đình để thuyết phục, bắt con em của các thủ lĩnh làm con tin, người Nhung không dám phạm pháp nữa.
[65] Tả Bộc xạ Vương Phổ nhiều lần khuyên cha là Phòng ngự sứ Túc Châu Vương Tộ (Tộ, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ 4) xin về hưu. Tộ bất đắc dĩ dâng sớ, nhưng nghĩ rằng triều đình sẽ không đồng ý.
Ngày Kỷ Mùi, phong Tộ làm Thượng tướng quân Tả Lĩnh quân Vệ, cho về hưu. Tộ giận dữ mắng Phổ: “Ta sức lực chưa suy, mày muốn giữ chắc danh vị mà tống ta vào chốn giam cầm.” Ông định dùng gậy đánh, nhưng người thân khuyên giải nên không làm.
[66] Ngày Canh Thân, Vua đến chùa Tướng Quốc, rồi đến ao Giáo Thuyền và vườn Ngọc Tân.
[67] Ngự sử đài và thái thường lễ viện tấu rằng: “Đông cung tam sư là chức quan nhất phẩm, bộc xạ là nhị phẩm, nếu trăm quan dâng biểu, không biết ai sẽ đứng đầu.” Vua ban chiếu cho hai cơ quan bàn bạc. Ngày Mậu Thìn, Hàn lâm học sĩ Đậu Nghi và các quan tấu: “Bộc xạ là bậc thầy của trăm quan, còn đông cung tam sư là chức quan của bề tôi, nên lấy bộc xạ làm người đứng đầu.” Vua nghe theo. (Đoạn biểu sớ này có thể ghi chép chi tiết, cần kiểm tra lại theo các trường hợp sau.)
[68] Ngày Tân Mùi, lấy Tả vũ lâm quân đại tướng quân Đỗ Thẩm Tiến tạm quản lý Thiểm châu, đồng thời lệnh cho điện trung thị ngự sử Diên Phi cùng xử lý châu sự. (Diên Phi, chưa rõ lai lịch.)
[69] Tháng này, các châu ở Hà Bắc và Quan Tây bị nạn châu chấu.
[70] Thả nghìn tù binh quân Bắc Hán, ban cho áo giày, cho nhập vào hộ khẩu các huyện kinh thành.
[71] Tháng bảy, ngày Tân Tỵ, Vua ngự đến vườn Ngọc Tân. Khi trở về, ngự đến hồ mới, xem tập trận thủy chiến.
[72] Ngày Kỷ Sửu, ban chiếu lệnh hai châu Giai và Thành trực thuộc kinh sư.
[73] Ngày Canh Dần, Trung thư môn hạ trình lên bản tường trình chi tiết về các điều kiện tham gia tuyển chọn chức quan Thiếu doãn và Mạc chức do Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đào Cốc đề xuất: “Những người đỗ ưu tú trong kỳ thi phán, đỗ tiến sĩ, hoặc đỗ phán trung trong kỳ thi cửu kinh, đều được bổ nhiệm vào chức vụ sơ đẳng; những người đỗ phán hạ thì theo lệ thường tuyển chọn.
Người mới nhậm chức Quân sự suy quan hoặc Quân sự phán quan ở Phòng ngự, Đoàn luyện, đều được phong chức Tướng sĩ lang, thử chức Hiệu thư lang. Sau ba năm đủ tư cách, sẽ được bổ nhiệm làm Lưu thủ, Lưỡng phủ Tiết độ suy quan, Quân sự phán quan, và được phong chức Thừa phụng lang, thử chức Đại Lý bình sự.
Sau ba năm nữa đủ tư cách, sẽ được bổ nhiệm làm Chưởng thư ký, Phòng ngự, Đoàn luyện phán quan, và được phong chức Tuyên đức lang, thử chức Đại Lý bình sự kiêm Giám sát ngự sử. Sau hai năm đủ tư cách, sẽ được bổ nhiệm làm Lưu thủ, Lưỡng phủ, Tiết độ, Quan sát phán quan, và được phong chức Triều tán đại phu, thử chức Đại Lý ty trực kiêm Giám sát ngự sử. Sau một năm, sẽ được bổ nhiệm vào chức vụ đồng loại hoặc Thiếu doãn các phủ.
Sau một năm nữa, sẽ được gửi danh sách lên Trung thư môn hạ, và tùy theo cấp bậc quan chức chia làm bốn hạng. Những người đã đến chức Lưỡng sứ phán quan trở lên, nếu lần nhậm chức tiếp theo là chức vụ đồng loại, sẽ được thăng chức Kiểm hiệu quan hoặc chuyển sang Hiến hàm.
Quan sát phán quan mặc áo đỏ 15 năm sẽ được ban áo tía. Mỗi nhiệm kỳ kéo dài ba năm, không tính tháng nhuận. Mỗi năm, sẽ được đánh giá một lần. Kết quả đánh giá thường theo lệ ghi “trung” hoặc “thượng“. Nếu bị phạt ở triều đình, sẽ bị giảm một bậc đánh giá. Nếu đạt kết quả xuất sắc, Nam tào sẽ trình báo công tích để xin thưởng. Nếu hết nhiệm kỳ mà chưa được thay thế, thêm một năm sẽ hoàn thành kỳ đánh giá thứ tư.
Những người bị bãi chức do phủ bị giải tán thì không cần tham gia tập hợp[18]. Những người được bổ nhiệm chức vụ do tấu thỉnh, sẽ ghi kết quả đánh giá và cấp giấy giải do, theo quy định mới, để chuẩn bị cho việc tham gia tuyển chọn sau này. Nếu hai nhiệm kỳ trở lên không đủ tư cách, nhưng tổng số ngày đủ hai năm, được tính như một nhiệm kỳ đủ tư cách. Nếu bị thay thế do sắc lệnh giảm biên chế, sẽ lấy giấy giải do của nhiệm kỳ trước để nhậm chức, không được cấp giấy công bằng, và không được tham gia tập hợp ngoài thời gian quy định.
Những người vì lý do cá nhân không đủ tư cách, bị đình chức hoặc vi phạm quy định không xin cáo thân, một nhiệm kỳ phải chờ hai năm mới được tham gia tập hợp, hai nhiệm kỳ thêm một năm, ba nhiệm kỳ trở lên thì không cần tham gia tập hợp. Nếu nhiệm kỳ hiện tại có kết quả đánh giá thấp, phải chờ một năm mới được bổ nhiệm vào chức vụ đồng loại. Nếu được ân xá, sẽ được miễn chờ. Nếu sau khi bãi chức mới cấp giấy giải do, mỗi quý vi phạm phải chờ một năm, hai quý trở lên phải chờ hai năm.
Những người để tang hoặc không hết nhiệm kỳ mà từ chức, đều xem như bị bãi chức. Nếu không có giấy giải do hoặc giấy đánh giá của bộ, phải chờ một năm. Nếu mất giấy tờ nhưng có giấy công nhận hợp lệ, sẽ được miễn giảm đánh giá.
Những người bị đình chức theo quy định hoặc chức vụ bị bỏ trống, phải chờ ba năm mới được tham gia tập hợp[19]. Những người bị đình chức do sắc lệnh đặc biệt[20] hoặc bị tước chức vì từng bị lưu đày, không được dùng chức vụ để đền tội, sau khi được ân xá sẽ tham gia tập hợp theo thời hạn của chức vụ, và phải xin giấy xóa án ở Bộ Hình.
Nếu không có chức vụ trống và muốn nhậm chức ở châu huyện, sẽ so sánh lương một năm, nếu không chênh lệch quá 10 quan, sẽ được bổ nhiệm. Những người từ chức Phòng, Đoàn phán quan trở lên nhậm chức ở châu huyện, sau khi bãi chức chỉ tính thời gian làm việc ở chức vụ cũ để tham gia tập hợp. Kết quả đánh giá của các Thiếu doãn các phủ cũng lấy ba năm làm hạn.” Đế đồng ý. Từ đó, việc tuyển chọn quan chức dần có quy củ.
[74] Ngày Tân Mão, Vua xuống chiếu cho Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Đào Cốc cùng Điện trung thị ngự sử Nội Hoàng là Sư Tụng cùng 43 người khác, mỗi người tiến cử một người tài đảm nhiệm chức Thông phán tại các phiên trấn.
[75] Ngày Giáp Ngọ, ra lệnh các phiên trấn không được dùng người mới làm quan nắm chức Chưởng thư ký, phải trải qua hai nhiệm kỳ và có tài văn học mới được đề cử.
[76] Ngày Ất Mùi, Vua đến khu vực phía bắc kinh thành để xem xét việc cấy lúa.
[77] Bắt đầu lập Ty Chiết bác tại khu vực phía bắc sông, cấm các thương nhân vượt qua sông. Vua xuống chiếu cáo với Đường chủ, lo rằng họ lợi dụng thế lực Trung Quốc để xâm lấn. (Trong ‘Quốc sử Lý Dục truyện’ lại ghi rằng năm nay do Giang Nam liên tiếp bị đói kém, mới bắt đầu cho phép vượt sông để chiết bác và kiếm củi, khác với ghi chép trong ‘Thực lục’, có lẽ là sai.)
[78] Tháng này, Đường chủ phong con trưởng là Trọng Ngụ làm Thanh Nguyên công, con thứ là Trọng Nghi làm Tuyên Thành công.
[79] Vua xuống chiếu cho Lại bộ Nam tào, từ nay những người thường được điều động đến tập hợp ứng tuyển, phải chọn những người đã trải nhiều nhiệm kỳ, có nhiều thành tích mà không có sai sót, nhân tài có thể xứng đáng được thăng chức, ghi tên gửi đến Trung thư môn hạ để dẫn vào xét duyệt rồi tâu lên, sẽ được cân nhắc tài năng và khen thưởng. Vua nghĩ đến việc cách chọn quan chỉ dựa vào thâm niên, khiến những người tài giỏi có khi bị chìm trong chức nhỏ. (Sách ‘Tuyển cử chí’ ghi vào năm thứ tư, nay theo lệ cũ, cả ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ đều không có ghi chép này.)
[80] Mùa thu, tháng tám, ngày Mậu Thân, Vua xuống chiếu cho các quan trong ngày khởi cư ở nội điện, các quan của hai tỉnh và Ngự sử đài chia thành hai nhóm đứng ở phía đông và tây điện đình, đối diện nhau, các Kim ngô tướng quân đứng ở phía trên của nhóm mình. Theo lệ cũ, các quan đài tỉnh và Kim ngô tướng quân đều thuộc hàng thị tòng, mỗi khi khởi cư ở nội điện, đứng hàng ngang phía trước các quan nhất phẩm. Nhân thấy Thái tử Thái bảo Vương Phổ đứng sau Thập di và Bổ khuyết, Vua bảo tả hữu rằng: “Phổ là cựu tướng, sao lại như vậy?” Liền ra lệnh sắp xếp lại.
[81] Ngày Ất Mão, Vua đến Ty Tạo thuyền, rồi đến Ngọc Tân viên.
[82] Ngày Canh Thân, đổi Trấn Nghênh Loan thành quân Kiến An.
[83] Ngày Tân Dậu, lần đầu ra lệnh thiết lập trường mua bán độc quyền trà tại Kinh sư, Kiến An, Hán Dương và Kỳ Khẩu. Từ thời Đường Vũ Tông, bắt đầu cấm dân buôn bán trà tư nhân, quy định phạt tiền và đánh trượng đối với người buôn từ 10 cân đến 300 cân. Từ đó, lệnh cho dân nộp trừ thuế, còn lại đều do quan mua. Ai dám giấu diếm không nộp quan hoặc buôn bán trái phép sẽ bị tịch thu. Tính giá trị từ 100 tiền trở lên, phạt 70 trượng; từ 8 quan tiền trở lên, bị lưu đày đi làm lao dịch. Quan lại dùng trà của quan để buôn bán, tính giá trị từ 500 tiền trở lên, bị lưu đày 2.000 dặm; từ 1 quan 500 tiền trở lên hoặc mang vũ khí buôn bán trà tư nhân bị quan bắt, đều xử tử.
(Từ thời Đường Vũ Tông trở xuống đến xử tử, đều căn cứ theo sách ‘Bản Chí’, thuộc năm này, nay phụ chép sau phần quản lý trà.)
[84] Trước đó, các quan văn vũ từ giã, bái kiến và tạ ơn ở chính nha phải báo lên Ngự Sử Đài thông qua Cáp Môn mới được vào nội điện. Tháng này, Vua triệu Bộ thự binh mã Quan Nam là người Yên tên Trương Nhân Khiêm hỏi việc biên giới, nhưng nhiều lần đến chính nha không có phiên, chưa được vào đối. Vua lấy làm lạ, hỏi, các quan theo lệ cũ trả lời, Vua bất bình, bèn hạ chiếu từ nay các việc bái kiến, tạ ơn, từ giã, trước hết vào nội điện đối, sau mới đến chính nha; người nhận mệnh đi gấp thì miễn lễ từ giã.
[85] Trước đây, Khố bộ Viên ngoại lang Vương Di Tôn và Chu Dịch bác sĩ Hề Tự cùng khảo thí con em quan lại. Hàn Lâm học sĩ Thừa chỉ Đào Cốc nhờ Hề Tự giúp con mình là Tiển. Tiển đọc sách không thông, nhưng Hề Tự lại báo là đỗ, được bổ làm Tiến mã của Điện Trung tỉnh. Chẳng bao lâu, sự việc bị phát giác, giao xuống Ngự Sử phủ xét. Ngày Giáp Tuất, đầu tháng 9, Hề Tự bị tội nhận hối lộ, bị giáng làm Tư hộ tham quân ở Càn Châu. Vương Di Tôn không biết việc, bị giáng làm Tán thiện đại phu. Đào Cốc bị phạt bổng hai tháng.
Vương Di Tôn là con của Vương Bá.
[86] Ngày Quý Mùi, Quyền tri cống cử Lư Đa Tốn tâu rằng số người được các châu tiến cử ngày càng nhiều, bèn theo chế độ đời Chu Hiển Đức, định ra điều lệ thi cử và hình phạt tại điện để ngăn chặn việc tiến cử bừa bãi. Vua hạ chiếu ban hành. (Chiếu thư đời Hiển Đức năm thứ hai, sử cũ có chép, nhưng ‘Thông Giám’ không ghi lại.)
[87] Ngày Mậu Tý, Nam diện binh mã đô giám, Dẫn tiến sứ Đinh Đức Dụ cùng với Đàm châu phòng ngự sứ Phan Mỹ, Lãng châu đoàn luyện sứ Doãn Sùng Kha, Hoành châu thứ sử Trương Huân dẫn quân tấn công Sâm châu, hạ được thành, giết chết thứ sử Lục Quang Đồ và chiêu thảo sứ Kỵ Ngạn Uân, quân còn lại rút về giữ Thiều châu. Sùng Kha là người Tương châu.
Trước đó, Nội thường thị, Vũ dư cung sứ Thiệu Đình Hoàn nhiều lần khuyên Nam Hán chủ rằng: “Hán thừa hưởng loạn lạc từ thời Đường, cư trú ở đây hơn năm mươi năm, may mắn vì Trung Quốc nhiều biến cố, chiến tranh chưa lan đến, nhưng Hán ngày càng kiêu ngạo trong cảnh thái bình, nay binh lính không biết cờ trống, mà nhà Vua không biết sự tồn vong. Thiên hạ loạn lạc đã lâu, loạn lâu tất sẽ có trị, nay nghe nói chân chủ đã xuất hiện, sẽ thống nhất thiên hạ, thế cục này không thể không thống nhất, xin hãy chuẩn bị binh lực, nếu không, hãy đem hết châu báu trong nội phủ sai sứ đi giao hảo.” Nam Hán chủ mơ hồ không lo lắng, ghét lời nói thẳng của Đình Hoàn, rất hận ông. Đến lúc này mới sợ hãi, nhớ lại lời Đình Hoàn, bèn phong ông làm chiêu thảo sứ, dẫn thủy quân đóng ở Quang Khẩu. Đình Hoàn là người Tuần châu. (Sách ‘Cửu quốc chí’ trong truyện về Đình Hoàn chép rằng quân vương thừa thắng hạ Liên châu, Lưu Sưởng sợ hãi, mới dùng Đình Hoàn. Xét các sách khác đều không như vậy, nay không theo.)
[88] Vĩnh an tiết độ sứ, được tặng chức Thị trung Chiết Đức Ỷ qua đời. Ngày Bính Thân, phong con trai ông là Ngự Huân làm bản châu đoàn luyện sứ, quyền tri phủ châu.
[89] Thái tử Thái phó, Lỗ quốc công Phạm Chất bị bệnh nặng, Vua nhiều lần đến thăm, sợ làm ông thêm mệt mỏi, bèn sai nội phu nhân đến hỏi thăm. Nhà Phạm Chất tiếp đón không có đủ đồ dùng, nội phu nhân tâu lên, Vua liền sai Hàn lâm ty ban cho giường gỗ, bình rượu, rồi lại đến thăm ông, nói: “Khanh là tể tướng, sao lại tự khổ như vậy?” Phạm Chất đáp: “Thần trước kia ở Trung thư, không nhận riêng ai vào cửa, người thân cùng uống rượu đều là họ hàng lúc nghèo hèn, cần gì đồ dùng! Cứ để vậy không sắm, không phải vì không có khả năng.”
Phạm Chất tính nóng nảy, giữ mình trong sạch, thích chỉ trích thẳng mặt, không chịu được khuyết điểm của người khác. Ông từng bảo đồng liệp: “Người nào dám hít vào ba đấu giấm, mới làm được tể tướng.” Từ thời Ngũ đại về sau, các tể tướng thường nhận tiền của các trấn, Phạm Chất là người đầu tiên cắt bỏ. Tiền lộc được ban, ông dùng hết để giúp đỡ kẻ cô nhi, bữa ăn không bao giờ có món gì đặc biệt. Khi bệnh nặng, ông dặn con là Phạm Mân không được xin thụy hiệu, không khắc bia mộ.
Ngày Tân Sửu, Phạm Chất mất. Vua rất thương tiếc, tặng Trung thư lệnh, cấp 500 tấm lụa, 100 hộc lúa và lúa mạch. Sau này, khi bàn về việc chọn người phò tá, Vua bảo tả hữu: “Trẫm nghe nói Phạm Chất ngoài nhà ở không tích lũy tài sản, quả là tể tướng đích thực.” Thái Tông cũng từng kính trọng Phạm Chất, đối với các cận thần, ông ca ngợi các tể tướng nhiều triều, cho rằng giữ gìn quy củ, coi trọng danh vị, giữ tiết tháo, không ai vượt qua được Phạm Chất, chỉ có một điều thiếu sót là ông không chết theo Thế Tông mà thôi.
[90] Mùa đông, tháng 10, ngày Quý Mão mùng 1, bổ nhiệm Trương Huân làm Thứ sử Sâm châu[21]. Trương Huân tính tàn nhẫn, thích giết người, mỗi lần đánh thành, thường lớn tiếng nói: “Hãy chém đi!” Nhiều người vô tội phải chết dưới lưỡi gươm. Khi mới đến nhậm chức ở Hoành châu, dân chúng trong châu đều khóc lóc bảo nhau: “Trương ‘Hãy chém đi’ đã đến, chúng ta biết làm sao yên ổn được?”
[91] Ngày Mậu Thân, Kỷ vương Hi Cẩn mất, là con trai thứ ba của Thế Tông. (Hi Cẩn, xuất hiện lần đầu vào cuối niên hiệu Hiển Đức.)
[92] Các quan tâu rằng trong bản đồ mười đạo không có tên hai châu Toàn và Thiệu cùng với địa vị của chúng. Ngày Nhâm Tuất, Vua hạ chiếu đều coi là châu trung đẳng.
[93] Đổi tên điện Quảng Đức thành điện Sùng Chính.
[94] Tháng đó, Tuyên Thành công Lý Trọng Nghi của nước Đường qua đời, được phong làm Kỳ Vương, thụy là Hoài Hiến. Trọng Nghi thông minh sớm, Chiêu Huệ hậu họ Chu rất yêu quý, vì thương xót mà sinh bệnh.
[95] Tháng 11, Chiêu Huệ hậu của nước Đường băng.
[96] Trước đó, Phán quan của Tiết độ sứ Sơn Nam nước Thục là Trương Đình Vĩ (Đình Vĩ, chưa rõ lai lịch) khuyên Thông tấu sứ, Tri Xu mật viện sự Vương Chiêu Viễn rằng: “Ngài vốn không có công lao gì, một sớm đã lên đến chức vị gần Vua, nếu không tự lập đại công, lấy gì để đáp lại dư luận? Chi bằng sai sứ giả kết giao với nước Bắc Hán, khiến họ phát binh nam hạ, ta sẽ từ Hoàng Hoa, Tử Ngọ cốc xuất binh ứng chiến, khiến Trung Nguyên phải đối phó cả trong lẫn ngoài, như vậy đất Quan Hữu có thể thu phục được.” Chiêu Viễn nghe theo, khuyên chúa Thục sai Đại trình quan của Xu mật viện là Tôn Ngộ, Hiệu úy quân Hưng Châu là Triệu Ngạn Thao và Dương Quyên mang thư bọc sáp bí mật đến gặp chúa Bắc Hán[22], nói rằng đã tăng quân ở Bảo, Hán, hẹn với Bắc Hán cùng vượt sông khởi binh. Khi Tôn Ngộ đến kinh đô, Ngạn Thao lén lấy thư dâng lên.
Có người tên là Mục Chiêu Tự (Chiêu Tự, chưa rõ lai lịch), trước kia dùng phương thuật phụng sự họ Cao, lúc này làm Y quan của Hàn lâm, Vua nhiều lần triệu kiến, hỏi về địa lý nước Thục, Chiêu Tự nói: “Kinh Nam chính là nơi hội tụ của Tây Xuyên, Giang Nam, Quảng Nam. Nay đã chiếm được nơi này, thì cả đường thủy lẫn đường bộ đều có thể tiến vào Thục.” Vua rất vui. Mấy ngày sau, Vua nhận được thư mà Ngạn Thao dâng lên, xem xong cười nói: “Ta đã có danh nghĩa để đánh phía Tây rồi.” Bèn tha cho cả Tôn Ngộ và Dương Quyên, sai họ chỉ rõ hình thế núi sông, vị trí phòng thủ, khoảng cách xa gần, vẽ thành bản đồ. (Sách ‘Ngũ Đại sử’ và ‘Thực lục’ đều nói Tôn Ngộ bị biên lại bắt giữ, có lẽ là do chiếu thư, nhưng thực tế không phải vậy.)
[97] Ngày Giáp Tuất, Vua sai Trung Vũ tiết độ sứ Vương Toàn Bân làm Đô bộ thự lộ Phượng Châu thuộc hành dinh Tây Xuyên, (Theo ‘Tống sử’ thì chức này là Đô bộ thự tiền quân binh mã thuộc hành dinh Tây Xuyên.) Vũ Tín tiết độ sứ, Thị vệ bộ quân Đô chỉ huy sứ người Đại Danh Thôi Ngạn Tiến làm phó, Xu mật phó sứ Vương Nhân Thiệm làm Đô giám; Ninh Giang (Theo ‘Tống sử’ là Giang Ninh) tiết độ sứ, Thị vệ mã quân Đô chỉ huy sứ Lưu Quang Nghĩa làm Phó đô bộ thự lộ Quy Châu, (Theo ‘Tống sử’ thì chức này là Đô bộ thự tiền quân binh mã thuộc hành dinh Tây Xuyên.) Nội khách tỉnh sứ, Xu mật thừa chỉ Tào Bân làm Đô giám. Hợp bộ bộ kỵ sáu vạn, chia đường tiến đánh. Cấp sự trung Thẩm Nghĩa Luân làm Tùy quân chuyển vận sứ, Quân Châu thứ sử người Đại Danh Tào Hàn làm Chuyển vận sứ mặt tây nam. (Hàn, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ nhất. Vương Nhân Thiệm lấy chức Xu mật phó sứ làm Đô giám hành dinh, dưới quyền tiết độ sứ, bởi lúc này phẩm trật của Tây phủ chưa cao.)
Vua cho rằng các tướng hiệu ở Tây Xuyên phần nhiều là người phương Bắc, nên ban chiếu dụ, bảo họ chuyển họa thành phúc, ai có thể dẫn đường cho đại quân, cung cấp lương thực, dẫn quân về hàng, dâng thành đầu hàng, sẽ được bàn luận ban thưởng hậu hĩ. Hành dinh đến đâu, không được đốt phá nhà cửa, cướp bóc quan dân, khai quật mồ mả, chặt phá cây cối, kẻ nào vi phạm sẽ bị trị tội theo quân pháp. Vua sai Bát tác ty đo đạc cửa Hữu Dịch, phía nam giáp sông Biện, xây dinh thự cho chúa Thục, tổng cộng hơn năm trăm gian, đầy đủ màn trướng và đồ dùng, để đón người đến.
[98] Ngày Ất Hợi, Toàn Bân cùng các tướng từ biệt, được Vua ban yến ở điện Sùng Đức, ban thưởng đai ngọc vàng, vải lụa, ngựa chiến, binh khí đủ loại. Vua xuất hiện, trao bản đồ cho Toàn Bân và hỏi: “Tây Xuyên có thể chiếm được không?”
Toàn Bân đáp: “Chúng thần nhờ uy trời, theo mưu kế hay, thời gian định đoạt tính bằng ngàyi.”
Long Tiệp hữu sương đô chỉ huy sứ Sử Diên Đức (Diên Đức, sử chưa chép) bước lên tâu: “Nếu Tây Xuyên ở trên trời, thì không thể tới, nhưng ở dưới đất, đến là bình được.” Vua khen ngợi sự quả cảm của ông, an ủi khích lệ.
Vua lại bảo Toàn Bân: “Hễ chiếm được thành trại, chỉ thu khí giới, lương thảo, còn tiền bạc chia hết cho chiến sĩ, điều ta muốn chỉ là đất đai.”
[99] Ngày Giáp Thân, Văn Tư sứ Thường Sầm bị đánh trượng, xăm mặt, đày ra đảo Sa Môn; phó sứ Tống Diên Tư bị đánh trượng, đày về Trần Châu, vì tội giám thủ tự đạo, bị thuộc hạ tố cáo.
[100] Ngày Nhâm Thìn, Vua đi săn ở cận giao.
[101] Ngày Đinh Dậu, Viện Thái Thường tâu: “Ngày Thượng Tân, tế trời Hạo Thiên, năm phương Đế cùng tế. Nhưng theo chiếu chỉ, riêng tế Xích Đế là cảm sinh, để hợp với đức Hỏa. Trong một ngày, hai nơi cùng tế, lại có lệnh cấm tế lễ nhiều, huống hồ cùng lúc tế hai chỗ, theo lễ không đúng. Xin bỏ chỗ ngồi của Xích Đế trong tế Hạo Thiên.” Vua đồng ý. Lại tâu: “Miếu Chu Văn Vương xưa tế Sư Trù Hùng và Thái Công Vọng cùng phối hưởng. Nay Thái Công đã phong Vũ Thành Vương, xuân thu hành lễ Thích Điện, xin chỉ phối hưởng Sư Trù Hùng.” Vua đồng ý.
[102] Ngày Nhâm Dần, sai Tác phường phó sứ Ngụy Phi sang Giang Nam điếu tế.
[103] Thục chủ nghe tin quân Bắc triều đến, bèn lấy Vương Chiêu Viễn làm Đô thống Bắc diện hành dinh, Triệu Sùng Thao (Sùng Thao, xuất hiện lần đầu năm Hiển Đức thứ hai, con của Đình Ẩn, Đình Ẩn xuất hiện năm Trường Hưng thứ hai) làm Đô giám, Hàn Bảo Chính (Bảo Chính, xuất hiện năm Càn Hữu nguyên niên) làm Chiêu thảo sứ, Lý Tiến (Tiến, xuất hiện năm Hiển Đức thứ hai) làm Phó chiêu thảo sứ, dẫn quân chống cự. Thục chủ bảo Chiêu Viễn: “Quân đội ngày nay, do khanh triệu tập, hãy gắng sức lập công cho Trẫm.”
Chiêu Viễn thích đọc sách binh pháp, tự cho mình có tài mưu lược. Khi xuất phát từ Thành Đô, Thục chủ sai tể tướng Lý Hạo cùng những người khác tiễn đưa ngoài thành. Chiêu Viễn cầm gậy sắt điều khiển quân sự, tự ví mình như Gia Cát Lượng, khi rượu say, vung tay nói với Hạo: “Lần này ta ra quân, chẳng những đánh bại địch mà còn sẽ dẫn hai ba vạn quân hung dữ này, lấy Trung Nguyên dễ như lật bàn tay.”
[104] Tháng 12, ngày Quý Mão, mùng 1, Trần Hồng Tiến ở Tuyền Châu sai sứ đến triều cống.
[105] Ngày Canh Tuất, Vua đi săn ở huyện Dương Vũ.
[106] Kể từ khi Thân Sư Hậu bỏ trốn về, triều đình không còn quản lý Lương Châu, do đó, mấy chục thủ lĩnh người Phiên đến cung đình xin cử tướng. Ngày Đinh Tỵ, lấy Cung bị khố sứ Khúc Ngạn Nhiêu làm Tiết độ sứ Hà Tây. (Sư Hậu, xuất hiện năm Quảng Thuận nguyên niên, Ngạn Nhiêu chưa từng xuất hiện trước đây.)
[107] Do việc dùng binh ở Tây Xuyên, Vua ban ơn miễn thuế thu cho dân châu Quy, Thiểm đã nộp xong, được tính vào số thuế năm sau.
[108] Ngày Tân Dậu, Vương Toàn Bân đánh chiếm các trại Càn Cừ Độ, Vạn Nhận, Yến Tử, rồi chiếm Hưng Châu, đánh bại bảy ngàn quân Thục, thu được hơn bốn mươi vạn thạch lương thực, Thứ sử Lam Tư Oản rút về giữ huyện Tây. Toàn Bân lại đánh các trại Thạch Đồ, Ngư Quan, Bạch Thủy Các gồm hơn hai mươi trại, đều chiếm được cả.
[109] Ngày Giáp Tí, Đường chủ sai sứ đến sửa soạn lễ cống.
[110] Ngày Tân Mùi, Vua đi săn ở vùng ngoại thành phía bắc.
[111] Chiêu thảo sứ nước Thục là Hàn Bảo Chính nghe tin Hưng Châu bị phá, bèn bỏ Sơn Nam rút về giữ Tây Huyện.
Mã quân đô chỉ huy sứ Sử Diên Đức dẫn quân tiên phong đến, Bảo Chính nhút nhát, sợ hãi không dám ra đánh, sai mấy vạn quân dựa vào núi, dựa lưng vào thành, bày trận cố thủ. Diên Đức đánh tan quân Thục, truy bắt được Bảo Chính và phó tướng của ông là Lý Tiến, thu được hơn ba mươi vạn hộc lương. (Sách ‘Cửu Quốc Chí’ chép rằng Bảo Chính bỏ Hưng Nguyên, giữ Tây Huyện. Quân Vương tiến đánh Tây Huyện, bắt được Bảo Chính. Sách ‘Thập Quốc Kỷ Niên’ và ‘Thực Lục’ chép nơi bắt Bảo Chính là Tam Tuyền. ‘Quốc Sử’ chép truyện Bảo Chính và Lý Tiến giống với ‘Cửu Quốc Chí’, nay theo đó.) Thôi Ngạn Tiến cùng mã quân đô giám Khang Diên Trạch đuổi theo quân Thục qua Tam Tuyền, đến Gia Xuyên, giết và bắt rất nhiều quân địch. Thục chủ đốt cháy cầu đường sạn đạo, rút về giữ Gia Manh.
Lưu Quang Nghĩa dẫn quân vào đường hiểm, liên tiếp phá các trại Tùng Mộc, Tam Hội, Vu Sơn, giết tướng Nam Quang Hải cùng hơn năm nghìn quân, bắt sống chiến trác đô chỉ huy sứ Viên Đức Hoằng cùng hơn một nghìn hai trăm người, chiếm được hơn hai trăm chiến thuyền, lại chém và bắt được hơn sáu nghìn thủy quân.
Trước đó, quân Thục ở Quỳ Châu bắc cầu phao ngang sông, trên cầu đặt ba tầng lầu chiến đấu, hai bên sông bày các công cụ phòng thủ. Khi Quang Nghĩa xuất quân, Vua lấy bản đồ ra, chỉ vào chỗ đó bảo Quang Nghĩa rằng: “Ngược sông đến đây, chớ dùng thủy quân tranh thắng, nên trước sai bộ binh và kỵ binh đánh úp[23], đợi chúng lui chút, rồi dùng thuyền chiến đánh kẹp, ắt thắng.” Quang Nghĩa chưa đến sông Toả Giang khoảng ba mươi dặm, bỏ thuyền, tiến lên chiếm cầu phao, rồi lại dẫn thuyền tiến lên, đóng quân ở phía tây miếu Bạch Đế.
Thục Tiết độ sứ Ninh Giang là Cao Ngạn Thù (người Thái Nguyên, Ngạn Thù xuất hiện lần đầu vào năm Hiển Đức thứ hai), nói với phó sứ Triệu Sùng Tế (Sùng Tế chưa rõ xuất thân) và giám quân Vũ Thủ Khiêm (Thủ Khiêm chưa rõ xuất thân) rằng: “Quân phương Bắc vượt hiểm trở xa xôi đến đây, lợi thế của họ là tấn công nhanh, ta nên cố thủ chờ đợi.” Thủ Khiêm nói: “Giặc đã đóng quân dưới thành mà không đánh, còn chờ gì nữa?”
Ngày Mậu Thìn, Thủ Khiêm một mình dẫn hơn nghìn quân dưới trướng ra đánh. Quang Nghĩa phái mã quân đô chỉ huy sứ Lăng Xuyên là Trương Đình Hàn dẫn quân đánh nhau với Thủ Khiêm tại Xung Đầu Phố. Thủ Khiêm thua chạy, Đình Hàn thừa thắng trèo lên thành.
Ngạn Thù chỉnh đốn quân sĩ định ra đánh, nhưng Đình Hàn cùng quân sĩ đã vào được trong thành. Ngạn Thù đánh gượng không thắng, bị hơn mười vết thương, tả hữu đều tan tác. Ngạn Thù chạy về phủ đệ, phán quan La Tế (Tế chưa rõ xuất thân) khuyên Ngạn Thù một mình cưỡi ngựa về Thục. Ngạn Thù nói: “Trước đây ta đã mất Tần Xuyên, nay lại không giữ được chỗ này, dù chủ không giết ta, ta còn mặt mũi nào gặp người Thục?” Tế lại khuyên ông đầu hàng. Ngạn Thù nói: “Gia đình hơn trăm người già trẻ đều ở Thành Đô, nếu ta một thân sống sót, để cả họ phải chịu tội sao? Hôm nay chỉ có chết mà thôi.” Liền cởi ấn phù trao cho Tế, nói: “Ông hãy tự lo liệu.” Rồi đóng cửa lại, chỉnh đốn y phục, hướng về tây bắc lạy hai lạy, lên lầu, phóng hỏa tự thiêu. Mấy ngày sau, Quang Nghĩa cùng người tìm được hài cốt ông trong đống tro tàn, đem chôn cất theo lễ.
(Sách ‘Cửu Quốc Chí’ chép: Quân triều phá cửa vào, Ngạn Thù cầm kiếm chống cự, giết hơn mười người, rồi lên lầu, phóng hỏa tự thiêu mà chết. Sách ‘Thập Quốc Kỉ Niên’ cũng chép như vậy, nhưng nay không dùng.)
Vương Toàn Bân dùng người Thục chặt đứt đường sạn đạo, khiến đại quân không thể tiến lên, bèn bàn định theo đường La Xuyên tiến vào Thục. Khang Diên Trạch bí mật nói với Thôi Ngạn Tiến: “Đường La Xuyên hiểm trở, nhiều người khó cùng đi qua được, chi bằng chia quân sửa đường sạn đạo, hẹn hội quân tại sông Thâm Độ thì hơn.” Ngạn Tiến báo lại với Toàn Bân, Toàn Bân đồng ý. Chẳng mấy ngày, các đường lối hoàn thành, bèn tiến đánh trại Kim Sơn, lại phá được trại Tiểu Mạn Thiên. Toàn Bân cũng dẫn đại quân từ đường La Xuyên đến Thâm Độ, hội quân cùng Ngạn Tiến. Người Thục dựa vào sông bày trận, Ngạn Tiến sai Bộ quân đô chỉ huy sứ Trương Vạn Hữu (Vạn Hữu, không thấy chép rõ.) đánh chiếm cầu. Đêm xuống, quân Thục rút về giữ trại Đại Mạn Thiên.
Ngày hôm sau, Ngạn Tiến, Diên Trạch, Vạn Hữu chia quân làm ba đường tiến đánh. Quân Thục dốc toàn lực tinh nhuệ chống cự, lại bị đại bại, ta thừa thắng chiếm luôn trại, bắt được Trại chủ Nghĩa Châu thứ sử Vương Thẩm Siêu, Giám quân Triệu Sùng Ốc và Tam Tuyền Giám quân Lưu Diên Tộ. Đô thống Vương Chiêu Viễn, Đô giám Triệu Sùng Thao dẫn quân đến giao chiến, ba lần đánh đều thua, bị truy kích đến phía bắc Lợi Châu, Chiêu Viễn bỏ chạy, vượt sông Kết Bách Tân, đốt cầu phao, rút giữ Kiếm Môn.
Ngày Nhâm Thân cuối tháng, Toàn Bân tiến vào Lợi Châu, thu được 80 vạn hộc quân lương. (Sách ‘Cửu Quốc Chí’, ‘Thập Quốc Kỷ Niên’, ‘Thục Đào Ngột’ đều nói rằng người Thục dù đốt đường sạn đạo, nhưng nước sông cạn, bờ sông bằng phẳng, quân triều đình đều đi bộ tiến lên, khác với chính sử, việc này e không đúng, nay không lấy. ‘Tân Lục’ chép về trận Đại Mạn Thiên, Toàn Bân bắt được Trại chủ Vương Thẩm Siêu, Giám quân Triệu Sùng Ốc, Tam Tuyền Giám quân Lưu Diên Tộ. Bản truyện về Toàn Bân lại nói Triệu Sùng Ốc chạy trốn, sau đó cùng Tam Tuyền Giám quân Lưu Diên Tộ và Vương Chiêu Viễn đến đánh. Theo sách ‘Thực Lục’ ghi chép ngày Kỷ Sửu tháng giêng năm sau, quân tiên phong đã áp giải Trại chủ Đại Mạn Thiên Vương Thẩm Siêu, Giám quân Triệu Sùng Ốc, có vẻ như cả hai bị bắt cùng lúc. Nay theo ‘Tân Lục’. Còn Lưu Diên Tộ rốt cuộc ra sao thì cần xét thêm.)
[112] Chiếu rằng: Những châu huyện đã bị quân doanh Tây Xuyên chiếm được, các tướng sĩ ngụy triều có kẻ trốn tránh, hạn trong một tháng phải đến nơi mình đang ở để đầu thú, sẽ được tha tội.
[113] Tháng đó, kinh sư có tuyết lớn, Vua cho dựng màn chiên ở điện Giảng Vũ, mặc áo lông điều, đội mũ lông chồn để xử lý việc triều chính. Bỗng nhiên Vua nói với tả hữu: “Trẫm mặc đồ như thế này mà vẫn cảm thấy lạnh, nghĩ đến các tướng sĩ đang chinh chiến nơi phương Tây, xông pha trong sương tuyết, làm sao chịu nổi!” Liền cởi áo lông và mũ, sai Trung hoàng môn chạy trạm đem ban cho Vương Toàn Bân, và dụ các tướng rằng không thể ban cho tất cả được. Toàn Bân lạy tạ, cảm động rơi nước mắt.
[114] Tiên phong đô chỉ huy sứ, Phượng Châu đoàn luyện sứ Trương Huy, chỉ huy quân mở đường qua đại tán quan, thân hành vỗ về sĩ tốt, vừa làm việc vừa chiến đấu, mọi người quên cả mệt nhọc. Đến núi Thanh Nê, Huy lâm bệnh qua đời. Vua xuống chiếu ưu đãi gia đình ông.
[115] Năm đó, bắt đầu lệnh cho các châu từ nay mỗi năm thu thuế dân và thuế quản giác[24], trừ phần chi dùng ra, tất cả các loại tiền lụa đều phải chở về kinh sư. Quan phủ nào thiếu xe trâu thì thuê của dân để sử dụng. Đó là kế của Triệu Phổ. (Theo bản chí. Nhưng điều này trùng với chiếu thư tháng ba năm sau, hoặc chiếu thư năm sau là để nhắc lại lệnh này.)
[116] Lấy Tề Châu phòng ngự sứ Lý Hán Siêu kiêm chức Quan Nam binh mã đô giám.
Hán Siêu là người Vân Châu. (Bản truyện của Hán Siêu chép rằng khi làm Tề Châu phòng ngự sứ thì kiêm luôn chức Quan Nam đô giám. Xét Tân lục, Hán Siêu làm Tề Châu phòng ngự sứ vào tháng bảy mùa thu năm Kiến Long thứ hai, không chép việc kiêm chức Quan Nam đô giám, không rõ bản truyện vì sao lại nói như vậy? Bia đức chính của Hán Siêu do Từ Huyền soạn chép rằng năm Kiến Long thứ hai làm Tề Châu phòng ngự sứ, đến năm Càn Đức thứ hai mới kiêm chức Quan Nam binh mã đô giám, có lẽ là đúng sự thật, nên ghi chép thêm vào cuối năm này. Bia của Huyền còn chép rằng năm Khai Bảo thứ hai Hán Siêu về kinh sư, mùa đông năm đó lại làm Quan Nam đô giám, nhưng bản truyện không chép, nay cũng lược bỏ.)
[117] Bắc Hán chủ bốn lần sai sứ sang Khiết Đan để chúc mừng ngày chính đán, ngày sinh thần và ngày Đoan Ngọ, đều bị Khiết Đan bắt giữ sứ giả mà không đáp lại. (Điều này căn cứ theo ‘Cửu Quốc Chí’. Tuy nhiên, các sách khác phần lớn đều nói Bắc Hán dẫn quân Khiết Đan xâm lấn quân Bình Tấn, trong trận ở Liêu Châu, quân Khiết Đan đều có mặt. Thế mà việc sai sứ đến giảng hòa lại bị bắt giữ, lẽ nào mặc dù bắt giữ sứ giả, vẫn mượn quân của họ sao? Cần phải xem xét thêm.)
- Theo 'Tống đại chiếu lệnh tập' quyển 182, 'Tống hội yếu' phần Thực hóa mục 1 điều 16 và 'Tống sử' quyển 1, phần Bản kỷ Thái Tổ đều ghi chép về chiếu thư ngày Tân Tỵ tháng giêng, khuyên bảo các quan lại địa phương chăm lo việc nông nghiệp. Nội dung chiếu thư này tương tự như phần chú dẫn trong 'Đông đô sự lược'. Theo lệ của sách này, phần dưới 'tháng giêng' có lẽ bị thiếu. ↵
- Nguyên bản viết 'Vương Xưng'. Theo phần biện chứng trong 'Tứ khố đề yếu' của Dư Gia Tích, tác giả 'Đông đô sự lược' nên là Vương Xưng, người sau nhầm thành 'Vương Xưng', xét kỹ thấy hợp lý. Nay theo đó. ↵
- Trong câu 'tắc tận bẩm thừa chi phương', chữ 'thừa' nguyên là 'trình', sửa theo bản Tống, 'Tống toát yếu' và 'Từ Tự Minh Tống tể phụ biên niên lục' (sau đây gọi tắt là 'Biên niên lục'). ↵
- Phán tam ty Thượng Đảng Lý Sùng Củ: 'Tam ty' nguyên bản viết 'Nhị ty', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và quyển 257 'Tống sử' sửa lại. ↵
- Vua đang ở điện Tư Phúc: 'Tư Phúc điện' nguyên bản viết 'Tư Chính điện', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và quyển 1 'Vương Quân Ngọc - Quốc lão đàm uyển', quyển 3 'Tục thông giám' sửa lại. ↵
- Kinh học uyên thâm có thể làm khuôn mẫu, chữ 'Sư' nguyên bản là 'Tướng', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và Tống hội yếu tuyển cử nhất chi lục sửa lại ↵
- Giới hạn trên ba nghìn chữ, chữ 'Thiên' nguyên bản là 'Thập', căn cứ vào sách trên sửa lại ↵
- Văn Hạo làm Thứ sử Nam châu, 'Nam châu' nguyên bản viết sai thành 'Hải châu', các bản đều giống nhau. 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 12 viết là 'Nam châu'. Tra 'Tống sử' quyển 483, 'Thập quốc xuân thu' quyển 93 trong truyện Trần Hồng Tiến đều viết là 'Chương châu', sách này quyển 6 chép năm Càn Đức thứ ba, tháng chín ngày Giáp Ngọ, có chiếu 'Đổi Nam châu trở lại là Chương châu'. Vào thời điểm đó, Chương châu phải gọi là Nam châu. 'Kỷ sự bản mạt' đúng, nay căn cứ sửa lại ↵
- 'giáng' nguyên bản là 'xuất', căn cứ theo Tống bản và sách 'Biên niên cương mục' quyển nhất, 'Tống sử toàn văn' quyển nhất đã sửa lại. ↵
- Chắc chắn còn thiếu văn tự. ↵
- Chú: 'Chính nguyệt' nguyên văn là 'Ngũ nguyệt', các bản đều giống nhau. Xét 'Thông khảo' quyển 38, phần 'Tuyển cử khảo', câu này viết 'tịnh dĩ chánh nguyệt thập ngũ nhật tiền đáo tỉnh'. 'Tống sử' quyển 158, phần 'Tuyển cử chí' chép chế độ tham gia tuyển chọn bốn mùa, có câu 'tịnh dĩ tứ mạnh nguyệt thập ngũ nhật tiền đạt tỉnh'. Trên văn bản này đã nói rõ 'Xuân quý tuyển nhân văn giải', nên câu này 'Chính nguyệt' thuộc về tháng đầu mùa xuân, còn 'Ngũ nguyệt' không phải tháng đầu, chứng tỏ 'Chính nguyệt' là đúng. Chữ 'chính' viết nhầm thành 'ngũ' có lẽ do hình dạng chữ gần giống nhau. Nay theo 'Thông khảo' sửa lại. ↵
- 'thiếu khiếm' nguyên văn là 'khiếm thiếu', theo bản Tống, bản 'Tống toát yếu' và 'Thông khảo' quyển 38, phần 'Tuyển cử khảo' sửa lại. ↵
- bản phán quan phạt trực, lục sự tham quân, bản tào quan điện tuyển, các bản giống nhau, sách trên đều viết 'bản phán quan, lục sự tham quân, bản tào quan phạt trực điện tuyển'. Xét 'Tống sử' quyển 158, phần 'Tuyển cử chí' viết 'bản phán quan phạt năm mươi trực, lục sự tham quân, bản tào quan mỗi người bị hạn chế tham gia một kỳ tuyển chọn.' ↵
- 'Tập' nguyên văn thiếu, theo 'Thông khảo' quyển 38, phần 'Tuyển cử khảo' và 'Tống sử' quyển 158, phần 'Tuyển cử chí' bổ sung. ↵
- Chữ 'Thần' trong 'Hữu Thần Vũ thống quân Trần Thừa Chiêu' vốn bị khuyết. Theo 'Tống hội yếu' chức quan 33-6 ghi: 'Theo chế độ cũ, Tả Hữu Vũ Lâm, Long Vũ, Thần Vũ là Lục Quân, mỗi quân đặt một chức Thống quân.' 'Tống sử' quyển 261 bản truyện cũng chép Trần Thừa Chiêu 'làm qua chức Tả Hữu Thần Vũ thống quân'. Nay căn cứ để bổ sung. ↵
- trong đó có người đã trải qua sáu kỳ khảo hạch, chữ 'Lịch' nguyên bản là 'Thập', theo 'Tống hội yếu' chức quan 59 phần 1 sửa lại. ↵
- chỉ lệnh đến sảnh đường Tuyên huy sứ làm việc, chữ 'Huy' dưới nguyên có chữ 'Viện', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách Biên niên lục quyển 1 mà bỏ. ↵
- 'Phủ' nguyên bản là 'hữu', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- 'Ba năm' nguyên bản là 'hai năm', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- 'Kỳ' nguyên bản là 'Cập', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- Chữ 'Sâm châu' nguyên bản viết là 'Bân châu', căn cứ theo Tống bản và 'Tống sử' quyển 271, 'Trương Huân truyện' mà sửa lại. ↵
- Thư bọc sáp bí mật đến gặp chúa Bắc Hán: chữ 'di' nguyên bản viết là 'khiển', các bản đều viết là 'di', nay theo đó mà sửa. ↵
- 'khiển' nguyên là 'tiến', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và 'Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt' quyển 2 sửa lại. ↵
- Từ nay mỗi năm thu thuế dân và thuế quản giác, chữ 'giác' nguyên là 'quyền', theo các bản và bản hoạt tự sửa lại. ↵