III. TỐNG CHÂN TÔNG
QUYỂN 57: NĂM CẢNH ĐỨC THỨ NHẤT (GIÁP THÌN, 1004)
Từ tháng 8 năm Cảnh Đức thứ nhất đời Chân Tông đến hết tháng 9 nhuận cùng năm.
[1] Tháng 8, ngày Ất Mão, Kinh Nguyên bố trí Trần Hưng tâu: “Dẫn quân cùng với các tộc thục hộ Chiết Mật Tang đột kích trại tộc của tên giả xưng là Vạn Tử quân chủ tại Vũ Diên Hàm Bạc Xuyên, bắt sống hơn 300 người, chém được 253 thủ cấp, thu được trâu, ngựa, khí giới hơn 31.000. Bọn giặc thua chạy, đốt sạch lều trại. Ngay hôm đó rút quân, lại gặp giặc, bắt sống và chém được nhiều, thu được rất nhiều của cải và gia súc.” Chiếu ban rằng những tù binh bắt được đều cấp đất đai, lương thực, không để họ lâm vào cảnh khốn cùng. Ban thưởng cho Trần Hưng và những người khác theo thứ bậc.
(Sách Trần Hưng bản truyền chép: Cùng Tào Vĩ, Tần Hàn dẫn quân đến phía tây bắc Trấn Nhung quân tại Vũ Diên Hàm Bạc Xuyên, đột kích trại tộc của giặc Phiên là Chương Mai, chém hơn 200 thủ cấp, bắt sống 300 người, thu được áo giáp, trâu, dê, lạc đà, ngựa hơn 30.000. Chiếu thư khen thưởng. Xét số liệu bắt sống, chém giết này khá phù hợp với thực lục, nhưng tên tộc Phiên lại khác. Căn cứ vào Tào Vĩ truyền cũng không nói là cùng xuất quân với Trần Hưng, e rằng là việc khác. Tuy nhiên, bản truyền chép việc này trước khi phá tộc Khang Nô, như vậy là sai thứ tự trước sau. Cần xem xét thêm.)
[2] Cùng ngày, Vua ngự tại điện Sùng Chính, đưa bản đồ trận thế cho các đại thần xem.
[3] Ngày Kỷ Mùi, lấy Tham tri chính sự Lại bộ Thị lang Tất Sĩ An, Tam ty sứ Binh bộ Thị lang Khấu Chuẩn đều giữ nguyên chức vụ, phong làm Đồng bình chương sự.
[4] Lúc này, quân Khiết Đan thường thả kỵ binh đi cướp bóc vùng Thâm, Kỳ, gặp chút bất lợi liền rút lui, dạo chơi không có ý định giao chiến. Khấu Chuẩn nói: “Đó là chúng đang thăm dò ta. Mong triều đình luyện tập tướng lĩnh, chọn lựa quân tinh nhuệ, chia nhau đóng giữ các nơi hiểm yếu để phòng bị.”
[5] Tuyên huy Nam viện sứ, Tri Xu mật viện sự Vương Kế Anh làm Xu mật sứ, Đồng tri Xu mật viện sự Phùng Chửng, Trần Nghiêu Tẩu đều làm Thiêm thư Xu mật viện sự, lại ban chiếu cho Chửng, Nghiêu Tẩu bổng lộc và ân lệ đều giống như Xu mật phó sứ. Kế Anh cẩn thận, tĩnh mịch, được khen là siêng năng, nhạy bén, được Vua yêu quý. Theo chế độ cũ, bà nội và mẹ của Xu mật chỉ được truy phong làm Quận thái phu nhân, đặc biệt ban chiếu đều gia phong làm Quốc phu nhân.
Xu mật Trực học sĩ, Công bộ Lang trung Lưu Sư Đạo tạm quyền Tam ty sứ công sự. Từ đó về sau, khi bổ nhiệm Tam ty sứ, thường dùng chế độ này.
[6] Ngày Canh Thân, Tri Thọ châu Trần Nghiêu Tá tâu rằng: “Những kẻ đói khổ cướp kho chứa lúa mạch, tổng cộng hơn 70 người, theo luật cướp đoạt tài sản thì đáng tội chết.” Vua ban chiếu đều xử đánh trượng, xăm mặt, đày đi lao thành, người cầm đầu đày ra ngoài 500 dặm, còn lại đày tại bản châu. Nghiêu Tá ở châu, tự bỏ gạo ra nấu cháo cho người đói ăn, lại có quan lại và dân chúng đều tranh nhau bỏ gạo, cứu sống được mấy vạn người. Nghiêu Tá nói: “Ta không phải làm ơn riêng, chỉ là lấy mệnh lệnh để dẫn dắt người, không bằng tự mình làm trước để khiến họ vui vẻ làm theo.”
[7] Vua ban chiếu cho Thương châu, Càn Ninh quân thường đốc thúc chủ lại của hào trại cẩn thận coi giữ cửa đập, cửa nước, đợi khi thủy triều lên, đưa nước vào đê đập phía đông sông Ngự, để mở rộng việc tưới tiêu. Đây là theo lời thỉnh cầu của Tri Hùng châu Hà Thừa Củ.
[8] Trước đây, triều đình thường dùng sắc thư để ràng buộc việc biên giới, có khi dùng những từ như “phải xử cực hình”, quan lại không hiểu rõ ý sâu xa, liền xử tử hình. Lạc Uyển sứ Lý Kế Hòa tâu việc này, ngày Tân Dậu, Vua ban chiếu cho các châu quân từ nay nếu có những từ như “xử nặng, xử cực hình, xử trảm, đày đi” đều phải tường trình vụ án lên triều đình.
[9] Lỗ quốc Trưởng công chúa tâu xin cho Hàn lâm Y quan Triệu Tự Hóa làm Thượng thực sứ kiêm Y quan viện sự. Vua nói với Xu mật sứ Vương Kế Anh rằng: “Ung vương Nguyên Phần cũng từng nhờ thuốc thang của Tự Hóa mà có công, xin cho làm Thứ sử quận xa, nhưng ta đã bảo rằng y quan lĩnh quận không phải là chế độ của triều đình, không thể làm được. Huống chi Tự Hóa nay đã là Viện sứ của bản viện, đứng đầu y quan, sao có thể lại xin thêm? Nên triệu đến Xu mật viện để răn dạy.”
[10] Ngày Kỷ Tỵ, định ra thời hạn xét xử các vụ án tại Thẩm hình viện: việc lớn 10 ngày, việc vừa 7 ngày, việc nhỏ 5 ngày.
[11] Chiếu rằng các quan triều đình và sứ thần phạm tội, sau khi xét xử xong, các cơ quan phải báo cáo tội danh lên Thẩm quan và Tam ban viện. Các quan lại phạm tội tham nhũng hoặc tư lợi bị điều tra, quan khám sự phải báo cáo xem họ có người tiến cử hay không.
[12] Phượng hoàng xuất hiện ở Bạch Châu, quần thần dâng biểu chúc mừng.
[13] Lại bộ thuyên ty tâu rằng các châu có nhiều chức vụ mạc chức quan đã hết hạn, thường tuyển người ít chính thức vào làm việc, nên lệnh cho các quan thường tham mỗi người cử một quan châu huyện làm mạc chức. Vua xem xét các bản án của người được tuyển, thấy có nhiều sai sót và chữ viết không đúng, tể tướng Khấu Chuẩn đề nghị từ nay khi Thuyên ty dẫn người vào đối chất, phải mang theo bản thử nghiệm chữ viết và bản án để trình lên Vua, Vua đồng ý.
[14] Ngày Giáp Tuất, quan biên thần tâu rằng Khiết Đan có ý định xâm lược, chiếu lệnh cho quân Quảng Nhuệ ở Hà Đông đóng tại Trấn Châu và các quân gần phía nam đều phải đến Định Châu.
[15] Ngày Ất Hợi, Tần Châu tâu rằng bộ tộc của Lý Kế Thiên xâm phạm trại Vĩnh Ninh, bị tộc Dược Lệnh hợp sức đánh bại, chém được hơn trăm đầu.
[16] Trước đó, Tiết độ sứ Bảo Bình, Phò mã đô úy Thạch Bảo Cát xin kiêm chức Tướng ấn, Vua hỏi ý kiến Lý Hãng, Hãng nói: “Việc ban thưởng phải có căn cứ. Bảo Cát nhờ thân thích mà không có công lao chiến trận, nếu đột nhiên giữ chức vụ cao, e rằng sẽ bị dư luận chỉ trích.” Vua hỏi lại sau đó, Hãng vẫn giữ ý kiến như cũ, việc này bèn bỏ qua. Khi Hãng mất, Bảo Cát vẫn không ngừng xin, ngày Bính Tý, phong Bảo Cát làm Vũ Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự.
[17] Ngày Mậu Dần, Trấn Ninh tiết độ sứ, tặng Thái úy Sài Vũ Tích mất.
[18] Ngày Kỷ Mão, Cung bị khố sứ Bạch Thủ Tố được lĩnh chức Khang Châu thứ sử. Trước đó, Thủ Tố từ Uy Lỗ quân chuyển đến Ký Châu, Chuyển vận sứ Lưu Tống tâu rằng Thủ Tố có tài võ dũng, xứng đáng làm tướng, xin bổ nhiệm làm chính thức thứ sử. Vua nói với các quan cận thần: “Tướng súy có công, liệt kê thành văn bản tâu lên là được. Việc ban thưởng và phong chức đã có quy định thường lệ, Tống can dự làm gì?” Vua không đồng ý.
(Lời Vua nói với cận thần, việc này căn cứ theo bản tấu của Doãn Chu phúc tấu Lý Kinh xin trách phạt Chu, cần xem xét thêm.)
[19] Ty Chuyển vận Hoài Nam tâu rằng, quan lại và dân chúng ở Sở Châu liệt kê thành văn bản kể về chính tích của Tri châu, Thái thường bác sĩ Hà Lâm, xin cho ông ở lại thêm ba năm. Vua ban chiếu chỉ đặc cách cho lưu lại một năm.
(Hà Lâm, chưa rõ lai lịch.)
[20] Các châu Thiểm, Tân, Lệ tâu rằng sâu bọ phá hoại mùa màng.
[21] Ngày Canh Thìn, sai Thái thường bác sĩ, Trực sử quán Hà Lượng cùng Thị cấm, Cáp môn chi hậu Khang Tông Nguyên (chưa rõ lai lịch) đi ngựa trạm đến hai lộ Quảng Nam Đông và Tây để xét xử các tù nhân bị giam giữ[1].
[22] Ban chiếu: “Các châu quân ở vùng biên giới phía Tây quản lý các hộ người Hán và bộ lạc người thiểu số, nếu có tranh chấp kiện tụng, quan lại không thể tuân thủ điều lệ, xử lý công bằng, hoặc gây phiền nhiễu, dẫn đến xung đột biên giới. Từ nay, Chuyển vận phó sứ phải thường xuyên kiểm tra, những người không thể giữ yên biên giới và làm tốt chức trách, phải liệt kê tên tâu lên.”
[23] Người Nhung thuộc bộ tộc Dã Kê xâm lấn cướp bóc vùng biên giới Hoàn Khánh, Vua ban chiếu cho quan biên giới đàm phán hòa giải, nếu họ không nghe thì dùng quân đội uy hiếp.
[24] Ban chiếu cho Học sĩ viện: “Từ nay, các sắc thư ban thưởng cho quần thần trong và ngoài triều đều phải nêu rõ thành tích, quá trình và số người liên quan.” Trước đây, quần thần nhận được sắc thư khen thưởng và khi thay đổi chức vụ, thường dùng để tự kể công, hy vọng được ban thưởng, nhưng không nêu rõ sự việc, hoặc chỉ nói “một số người” mà không ghi tên những người cùng lập công, khiến việc ban thưởng khó phân biệt, nên có chiếu này.
[25] Chiếu cho các lộ Tây Xuyên, binh sĩ tuần kiểm ở các nơi, châu quân xây dựng nhà cửa, doanh trại để cho họ ở. Ban đầu, không cho phép xây dựng nhà cửa, doanh trại, nên binh sĩ phải đóng quân dọc đường, người dâng sớ nói rằng điều đó không tiện.
Trước đó, sai trung sứ mang kiếm Vua đến các lộ phía bắc để nghiêm quân lệnh. Tháng 9, ngày Quý Mùi, đều triệu về kinh, giao kiếm cho Bộ thự ty, nếu có người phạm tội thì xử xong, tâu lên triều đình.
[26] Ngày Bính Tuất, Kinh Hồ chuyển vận sứ tâu rằng, Thứ sử Phú Châu là Hướng Thông Hán sai người đến Đàm Châu làm việc Phật sự để báo đáp ơn triều đình.
[27] Sai sứ đến Hà Bắc, Hà Đông tập hợp trai tráng khỏe mạnh, mượn vũ khí trong kho, cấp lương thực để huấn luyện, nếu không ở vùng biên giới thì chia phiên thay nhau tập luyện, nếu quân địch kéo đến thì vào thành giữ, khi giặc rút lui thì về doanh trại làm ruộng.
(Theo 《Lưỡng triều binh chí》, thực lục chép rất sơ lược, nay không dùng.)
[28] Chiếu cho các lộ chuyển vận sứ phó xem xét năng lực của quan lại thuộc quyền, chia làm ba loại: Công cần, liêm chính, có ơn với dân là loại trên; làm việc giỏi nhưng không có tiếng liêm khiết, thanh bạch nhưng không có tiếng trị dân là loại thứ hai; nhút nhát và tham lam là loại dưới, đều phải liệt kê tình hình tâu lên. Theo lời xin của Hữu ty gián là Cao Thân.
(Thân, chưa rõ.)
[29] Ngày Đinh Hợi, dời Tri Lư Châu, Hữu gián nghị đại phu Tống Thái Sơ làm Tri Nhữ Châu, vì chuyển vận sứ tâu rằng ông bị bệnh hay quên.
[30] Hà Bắc chuyển vận sứ Lưu Tống tâu rằng, hàng năm triều đình sai sứ ban áo mùa đông cho các thành biên giới, các tướng hiệu đều được cấp áo gấm, chỉ có chuyển vận sứ phó được ban áo màu đen có hoa văn, khi nhận ban, rất xấu hổ. Ngày Đinh Hợi, ban cho chuyển vận sứ phó ba lộ Hà Đông Bắc, Thiểm Tây áo gấm có hoa văn chim luyện thước.
[31] Chiếu cấp cho Bắc diện tam lộ đô bộ thự Vương Siêu tiền công dụng đủ một vạn quan, còn lại đều tăng cấp theo thứ bậc.
[32] Dời quân các châu quân gần phía nam Hà Bắc đến đóng ở Thiền Châu, đợi khi cần thì điều động ra biên giới, để tiện cung cấp cỏ lương, giảm bớt việc vận chuyển.
[33] Trấn Nhung quân tâu rằng, các tộc người Thổ Phồn trước đây đã phản bội là Gia La, Ngột Tang, Thành Vương cùng với quân chủ Đổ Di dẫn thuộc hạ quy thuận, xin dâng ngựa để chuộc tội. Đặc chiếu tha tội, cấp tiền mua ngựa cho họ.
(Theo thực lục thì đây là hai việc, nay theo 《Thổ Phồn truyền》 viết liền một đoạn.)
[34] Ngày Canh Dần, chiếu cho Hàn lâm học sĩ thừa chỉ Tống Bạch trở xuống 70 người, từ quan triều đình ở kinh đô và các chức sứ, phó sứ trở xuống đến các chức Cáp môn chi hậu trở lên[2], tiến cử những người từng giữ chức vụ mà không phạm tội tham nhũng, có thể đảm nhiệm chức tri châu ở các phiên trấn lớn và các quận biên giới, mỗi người tiến cử một người.
[35] Phó đô bố trí Định châu là Vương Năng bảo vệ thành Bồ Âm, thân chinh dẫn dắt dân phu, ngày đêm không rời nơi làm việc, yến tiệc khao thưởng đầy đủ. Gặp lúc sứ giả từ phía bắc đến, tâu lên Vua, ngày Tân Mão, chiếu khen ngợi ông.
(Vương Năng vào ngày 8 tháng 7 là Canh Dinh nhậm chức Bố trí Hình, Minh châu, không rõ lúc nào dời đến Định châu, lúc đó thay thế Trương Ngưng, Ngưng lại dời đến Bảo châu, nhưng thực lục không ghi rõ.)
[36] Ngày Nhâm Thìn, chiếu cho các chức Bố trí ở các châu quân biên giới phía bắc không được tùy tiện rời khỏi nơi đóng quân để đón tiếp sứ giả. Trước đây, các tướng biên giới thường dẫn quân ra khỏi thành một hai mươi dặm, thân hành tiễn đưa, Vua lo ngại họ bất ngờ bị xâm phạm, nên quy định điều này.
[37] Vua thấy lại viên của Tam ty có người giỏi kẻ kém lẫn lộn, bèn sai Cung uyển sứ Lưu Thừa Khuê cùng với các chức sứ, phó sứ của bản ty cùng khảo sát, quyết định số người được lưu lại. Ba bộ cùng các ty quyết định lưu lại 890 người, những người kế toán không giỏi hoặc từng phạm tội thì liệt kê tên tâu lên. Vua nghĩ họ đã phục vụ lâu năm, xét tình hình công việc, đều bổ nhiệm vào chức Tam ban và Trấn chức[3].
[38] Ngày Bính Thân, Kỳ châu Đoàn luyện sứ Lưu Dụng được bổ nhiệm làm Phó đô bố trí Hình, Minh châu.
[39] Chiếu cho các lộ Hà Bắc, Hà Đông phải cẩn thận phòng bị biên giới, lại điều động năm chỉ huy quân Quảng Tiệp đến Hãn Châu, lệnh cho Tri quân Hoả Sơn là Lý Dư ý (Lý Dư ý, chưa rõ lai lịch) dẫn quân tiếp viện các trại Hãn, Đại và chia quân giữ các nơi hiểm yếu để ngăn chặn sự xâm nhập của quân địch.
[40] Ngày Đinh Dậu, Vua nói với các đại thần: “Liên tiếp nhận được biên báo, quân Khiết Đan đã có ý định xâm lược phương Nam. Trọng binh của quốc gia phần nhiều đóng ở Hà Bắc, quân địch không thể coi thường, Trẫm sẽ thân chinh để quyết thắng, các khanh hãy cùng bàn bạc xem nên xuất quân vào thời điểm nào?” Tất Sĩ An và các đại thần tâu: “Bệ hạ đã phái tướng xuất quân, giao phó trách nhiệm là được rồi. Nếu ngự giá thân chinh, nên tạm đóng quân ở Thiền Uyên. Tuy nhiên, thành Thiền Uyên không rộng, đóng quân lâu ngày e rằng không tiện. Hơn nữa, mùa đông còn xa, việc xuất quân nên từ từ tính toán.” Khấu Chuẩn tâu: “Đại quân đã ra ngoài, xin thánh giá tạm đến Thiền Uyên, thời điểm xuất quân không thể chậm trễ.” Vương Kế Anh và các đại thần tâu: “Cấm vệ trọng binh phần nhiều đóng ở Hà Bắc, nên xuất quân để tăng thêm uy thế, lại đốc thúc các lộ tiến quân, khi có việc thì có thể tùy cơ ứng biến. Tuy nhiên, không nên vượt quá Thiền Châu, như vậy mới hợp cơ nghi, không thiếu sự thận trọng. Việc xuất quân nên từ từ tính toán. Nếu vội đến Thiền Châu, chắc chắn không thể đóng quân lâu dài.” Vua hạ chiếu cho Tất Sĩ An và các đại thần trình bày ý kiến, viết thành văn bản dâng lên.
Mỗi khi nhận được tấu chương từ biên giới, Vua đều gửi ngay đến Trung thư, rồi bảo với Bật Sĩ An và Khấu Chuẩn rằng: “Việc quân sự tuy thuộc về Xu mật viện, nhưng Trung thư nắm tổng quát chính sự lớn về văn võ, là nơi ban ra hiệu lệnh. Trước đây, Lý Hãng thường có những kiến giải riêng, thường đưa ra những cơ mưu thích hợp. Các khanh nên xem xét kỹ các tấu chương biên giới, cùng bàn bạc lợi hại, đừng vì việc liên quan đến Xu mật viện mà giấu giếm.” Vua lại nói: “Nơi Xu mật càng cần phải cẩn mật, việc lộ lời nói trong cung cấm, người xưa rất cảnh giác. Nếu để lộ sự bất hòa với đồng liêu hoặc Xu mật viện, thì trong ngoài sẽ lợi dụng kẽ hở, thật không tiện. Các khanh hãy ghi nhớ điều đó.”
[41] Ngày Kỷ Hợi, Vua ban chiếu rằng: “Triều trước rất cẩn trọng trong việc hình pháp, đặt ra cơ quan chuyên trách, giao cho nhiệm vụ xét xử, đặt trong khuôn khổ cấm cung, để ngục tù không oan uổng, việc nghị án phải đúng đắn. Nhưng tất cả đều phải tự tay trình bày án đã xong, quỳ tâu trước điện cấm, sau khi có chỉ dụ, mới niêm phong gửi Trung thư. Nhưng các quan tể tướng lại lấy việc đã tâu mà ban hành ngay, trong đó tình hình không giống nhau, có khi theo tỷ phụ, không tham khảo thêm, thật không phải là ý cẩn trọng. Ta nghĩ đến những người làm quan, vô tình dính vào sách hình danh, dù cố gắng xử nhẹ, cũng khó tự biện minh. Từ nay, các án từ Thẩm hình viện trình lên, vẫn theo lệ cũ, phê chỉ dụ gửi Trung thư xem xét kỹ, nếu hình danh thích đáng, thì dùng sắc văn xử lý, không cần nói là do Thẩm hình viện nhận chỉ dụ; nếu chưa thích đáng, thì lại tâu lên, cốt sao cho công bằng, hợp với ý thương xót của Trẫm.”
[42] Tam ty tâu rằng quan chuyên trách ở Phượng Tường là Tống Phúc, nợ thuế thủy ngân hơn ba trăm cân, tịch thu gia sản của ông ta và quan giám là Vương Hựu Chi, truy thu được hơn một trăm hai mươi vạn tiền. Vua ban chiếu miễn thuế, trả lại số tiền đã nộp trước.
[43] Vua ban chiếu cho phép quân Vĩnh Hưng, các châu Đồng, Hoa, Diệu được thông thương muối giải, lấy số tiền mua muối theo hộ khẩu phân phối cho dân, thu cùng thuế hạ, mỗi bốn mươi bốn đồng được một cân muối, theo đề nghị của Chuyển vận sứ Chu Đài Phù.
[44] Đô giám Ban Tế khố của Khiết Đan là Gia Luật Ngô Dục đến đầu hàng, được bổ làm Tam ban phụng chức.
[45] Ngày Canh Tý, xuống chiếu cho các châu Thiểm Tây năm nay thuế thu đổi lấy cỏ khô 1.102 vạn bó, nên đặc biệt miễn 400 vạn bó. Các châu quân Bân, Ninh, v.v., tổng cộng 19 châu, thuế thu mỗi đấu tăng thêm giá bán của quan, tổng cộng hơn 65 vạn thạch, nên đặc biệt miễn ba phần mười. Thuế cỏ khô của các châu Càn, Ninh, Hoa, v.v., tổng cộng 13 châu, muốn chi trả bằng tiền nộp ở các châu Hoàn, Khánh, thì quan mua bán đều bãi bỏ.
[46] Đồn điền lang trung Dương Đàm và Công bộ viên ngoại lang trực Sử quán Chu Đài Phù cùng làm Thiểm Tây chuyển vận sứ. Đài Phù thông minh, giỏi mưu lược, thường thay đổi nhiều việc. Đàm chỉ muốn giữ nguyên như cũ, nên sinh ra hiềm khích, cùng nhau dâng tấu tố cáo. Trước đây, Khấu Chuẩn làm Tri châu Thanh Châu, Đài Phù làm Thông phán, đến lúc này, Chuẩn làm Tể tướng, Đàm cho rằng Đài Phù dựa vào mối quan hệ cũ, lại bí mật tâu lên. Vua sai Ngự sử xem xét tình hình, Đàm và Đài Phù đều bị kết tội bàn việc trái lệnh, bãi chức. Ngày Tân Sửu, Đàm bị giáng làm Tri châu Tùy Châu, Đài Phù làm Tri châu Dĩnh Châu. Điều chuyển Kinh Hồ Bắc lộ chuyển vận sứ, Độ chi viên ngoại lang Lý Sĩ Hoành và Hà Bắc chuyển vận sứ, Điện trung Thị ngự sử Câu Khắc Kiệm thay thế Đàm và Đài Phù, lại lệnh Ngự sử đáy đem việc này truyền cáo các lộ, thêm răn dạy.
[47] Châu Tống tâu rằng sông Biện vỡ đê, phá hủy ruộng đất và nhà cửa. Sai Nội thị Vương Hoài Chiêu đốc suất binh lính và thợ thuyền đắp đê, hơn một tháng thì xong việc.
[48] Ngày Nhâm Dần, Tam lộ bộ thự Vương Siêu tâu: “Hàng ngày cùng Tri châu, Thông phán, quân chức hội họp ăn uống, uống rượu đến tối, e ngại cản trở công việc. Xin cách ngày họp một lần.” Vua nói: “Quân trung theo chế độ cũ, đột ngột thay đổi, sợ mọi người bàn tán không đồng ý.” Lệnh cho Siêu làm theo lệ cũ.
[49] Ngày Quý Mão, sứ Lâm nha Khiết Đan là Nhiếp suy quan Lưu Thủ Ích cùng anh là Thứ đến hàng.
[50] Ngày Ất Tỵ, đặt châu Kỳ ở huyện Bồ Âm.
[51] Ngày Bính Ngọ, Lỗ Quốc công chúa tâu, sai người mua gỗ ở châu Hoa, xin miễn thuế. Vua nói: “Tiên triều nghiêm cấm thân thích không được mua gỗ ở Tây lộ, vì lo ngại lợi dụng buôn bán, xâm phạm phá hoại pháp chế. Lỗ Quốc công chúa xin, nay tạm đồng ý.” Rồi triệu Phò mã đô úy Sài Tông Khánh để răn dạy, từ nay không được làm như vậy nữa.
[52] Ngày Kỷ Dậu, nước Chiêm Thành sai sứ đến cống vật địa phương. Vua ban chiếu ban tặng ngựa tốt, áo giáp và vũ khí, theo lời thỉnh cầu của họ.
[53] Ngày Canh Tuất, Vua ban chiếu dụ các quan ở Quán các, Đài tỉnh rằng, nếu có ai nhận thư từ xin xét duyệt cử nhân, thì phải bí mật tâu lên, nếu giấu giếm không báo sẽ bị luận tội.
[54] Sông Hoàng Hà vỡ đê ở đập Hoành Ngô, châu Thiền. Vua sai Tri chế cáo Lý Tông Ngạc đến làm lễ tế, quan lại chuẩn bị thuyền bè cứu dân, phát chẩn cho những người thiếu ăn.
[55] Ngày Tân Hợi, Vua bổ nhiệm Vĩnh Thanh tiết độ sứ Chu Oánh làm Thiên Hùng quân đô bộ thự, coi việc quân phủ, thay thế Hà Dương tam thành tiết độ sứ Vương Hiển. Vua sai Hiển trở về trấn cũ. Hiển dâng sớ trình bày ba kế sách, cho rằng: “Đại quân hiện đang ở Trấn, Định, địch chắc chưa dám dẫn quân nam tiến. Nếu xa giá thân chinh, xin hãy tạm dừng ở Thiền Uyên, ban chiếu cho Trấn, Định xuất quân hội với đại quân Hà Nam hợp lực tấn công. Hoặc nếu chúa Khiết Đan cùng mẹ giả vờ uy hiếp, chống lại quân ta, bí mật phái quân tinh nhuệ nam hạ, áp sát sông Hoàng Hà đối đầu với các quân tiền phong, thì xin lệnh cho quân Trấn, Định thẳng tiến đến doanh trại địch, tấn công trại của chúng, như vậy quân địch dọc sông sẽ tự rút lui, đó gọi là không đánh mà khuất phục được quân địch. Hoặc chia quân kỵ binh một nghìn, bộ binh ba nghìn vượt sông ở châu Bộc[4], đánh chiếm châu Thiền[5], sau đó đại quân truy kích tiêu diệt địch, đó cũng là kế bất ngờ.”
[56] Vua ban chiếu rằng các quan trong ngoài tiến cử người, có người giữa đường thay đổi, nếu không cho họ tâu lên, e rằng sẽ gây nhiều hệ lụy, nên từ nay cho phép những người này được tự tâu, sẽ trừng phạt người đó, đặc cách miễn liên đới tội.
[57] Trước đó, Lạc uyển phó sứ Lý Doãn Tắc làm Tri châu Thương Châu, đi tuần tra các con đường trong châu, đào sông Phù Dương, sửa chữa doanh trại và nhà cửa quan lại, đào giếng trong thành, dân chúng đều chán nản vì phiền phức. Đến tháng này, ông được triệu về. Khi quân Khiết Đan đến đánh, già trẻ đều vào thành phòng thủ mà nước không thiếu, lại lấy băng thay đá bắn để chống cự, quân địch bèn rút lui. Vua bảo Doãn Tắc rằng: “Trước đây có người nói khanh đào giếng sửa nhà là làm phiền dân, nay mới biết khanh giỏi việc phòng thủ.” Ông được thăng làm Tây thượng các môn phó sứ, Trấn Định Cao Dương tam lộ hành dinh binh mã đô giám, chỉ huy mặt đông đại trận. (Việc tam lộ đô giám, chỉ huy mặt đông đại trận, trong thực lục không có, nay theo bản truyện.) Ông xin được đối đáp, tự nhận võ nghệ không phải sở trường, không thể đảm đương việc biên cương khó khăn. Vua nói: “Khanh hãy vì Trẫm mưu tính kế sách, không cần phải xông pha tên đá.” Ban cho 2000 lạng bạc, cùng các vật dụng như màn trướng, đồ dùng. Mọi chiếu chỉ xuống các lộ đều giao cho Doãn Tắc xem xét rồi mới thi hành.
Doãn Tắc từng xin chọn võ tướng làm Tri châu Kỳ Châu, thay cho Đại Lý tự thừa Cao Doãn[6]. Vua nói: “Doãn làm Thông phán Chân Định, có tiếng là người có tài, Trẫm thấy Kỳ Châu mới lập, cần người an dân, nên điều ông đến đó. Sau này nghe nói thành trì dần hoàn thiện, việc châu cũng tạm ổn. Biên quận cần dùng võ tướng, không phải là lý luận chung.”
(Việc Cao Doãn theo Bảo huấn chép thêm, cần xem xét.)
[58] Tháng 9 nhuận, ngày Quý Sửu, sai sứ đi khao thưởng các quân ở mặt bắc, ban tiền có mức khác nhau.
[59] Minh Châu đoàn luyện sứ Thượng Quan Chính làm Tri châu Thương Châu kiêm Bộ thự.
[60] Xuống chiếu chia quân biên giới phía tây đến Ninh Châu và Khánh Châu, đợi giặc đến mới điều động.
[61] Châu Tống báo việc đắp đê ngăn sông đã xong, nước trở lại dòng cũ.
[62] Ngày Ất Mão, lệnh cho Phó bộ thự Đại Châu là Nguyên Trừng, khi quân địch tiến xuống phía nam, lập tức dẫn quân đến biên giới phòng thủ để kiềm chế. Lại lệnh cho Phó bộ thự Tịnh Châu, Đại Châu là Lôi Hữu Chung đến lúc đó dẫn quân theo đường Thổ Môn đến Trấn Châu, hợp với đại quân, đóng trại ở Bình Định quân.
[63] Chiếu cho quan lại và dân chúng ở Hà Bắc, nếu có ai tập hợp người mạnh khỏe giết được quân Khiết Đan, thì nơi đó phải hỗ trợ, đồng thời ban thưởng theo quy định.
[64] Trước đây, Đô úy Khai Phong là Trương Dịch bắt được tám tên trộm cướp, đưa đến quân Tuần Tả, kết án lưu đày. Sau khi thi hành án, mới bắt được tên trộm thật. Ngự sử đài điều tra xác minh sự việc. Tri phủ trước là Lương Hạo đã mất, Phán quan, Đồn điền viên ngoại lang, Trực sử quán Thịnh Huyền bị giáng làm Giám thuế Hồng Châu, Suy quan, Tán thiện đại phu Lý Tương bị giáng làm Giám thuế Vĩnh Phong.
(Lý Tương, không rõ lai lịch.)
[65] Ngày Đinh Tỵ, trong cung xuất ba mươi vạn lạng bạc giao cho Ty Chuyển vận Hà Bắc để mua lương thực quân đội, lệnh cho Quốc tử bác sĩ Trương Thân, Bí thư thừa Trần Cương, Đại Lý bình sự, Bí các hiệu lý Lưu Quân cùng lo việc này.
(Trương Thân, không rõ lai lịch. Trần Cương, người Tuyền Châu.)
[66] Ngày Kỷ Mùi, người Hồi Cốt ở Cam Châu sai sứ đến cống nạp sản vật địa phương. Lúc đó có chiếu cấm các bộ tộc ngoại biên mua bán các loại hương liệu cấm. Người Hồi Cốt có kẻ vi phạm, Tam ty xin xử tử ngay. Vua nói: “Họ từ phương xa đến, chưa biết luật nước ta, nếu vội áp dụng hình phạt, e rằng sẽ làm mất đạo nghĩa chiêu an.” Bèn lệnh trước hết phải tường trình tội trạng.
[67] Ngày Canh Thân, lệnh cho Bắc diện duyên giới hà Bộ thự Khang Tiến và Lộ Hình Châu là Lưu Dụng đều dẫn quân bản bộ đến đóng giữ ở Thương Châu và Hình Châu, nếu quân địch xâm phạm thì chặn đánh ngay.
[68] Ngày Quý Hợi, lệnh cho các châu Thiên Hùng quân phía bắc cùng các châu Tân, Lệ, Đức, Bác cảnh giác trong địa phận, nếu có kẻ nhân quân địch xâm phạm mà cướp bóc tài sản của dân, gây hại nghiêm trọng, thì không kể có tang vật hay không, cả chủ mưu và đồng phạm đều xử chém rồi tâu lên, còn lại thì giam giữ chờ xét xử.
[69] Chuyển vận sứ Lộ Quỳ Châu là Tiết Nhan tâu rằng, quân lính đóng giữ ở Xuyên Hạp vốn không được tập luyện, trong đó Quỳ, Thi là gần biên giới man di nhất, xin cấp vũ khí và thường xuyên luyện tập. Vua đồng ý.
[70] Ngày Bính Dần, lấy Mã quân đô chỉ huy sứ, Tiết độ sứ Cảm Đức là Cát Bá làm Đô bộ thự tu sửa sông ở Thiền Châu, Sùng nghi sứ Trương Lợi Thiệp, Nội điện sùng ban Vương Hoài Chiêu làm phó.
(Cát Bá, người Chân Định. Trương Lợi Thiệp, không rõ lai lịch.)
[71] Ngày Đinh Mão, sai Nội thị Tả ban Phó đô tri Diêm Thừa Hàn cùng lo việc chế trí ở các lộ Hà Bắc Đông, Hà Bắc Tây dọc biên giới.
[72] Ngày Mậu Thìn, sai Khảo công lang, Trực bí các Phan Cẩn Tu đến châu Hình làm lễ tế tiếu, cầu phúc cho dân, vì việc sửa thành đã hoàn thành.
[73] Xuống chiếu cho Hộ bộ Phán quan, Công bộ Viên ngoại lang Lý Phòng, Hữu chánh ngôn, Trực sử quán Trương Tri Bạch, v.v., phân đi các lộ Giang Nam Đông, Giang Nam Tây xét xử tù nhân, thăm hỏi dân tình khổ cực, tế lễ các núi sông trong vùng, do hạn hán.
[74] Ngày Kỷ Tỵ, lệnh cho các binh sĩ các châu đang làm việc ở kinh thành được cấp tiền mỗi hai tháng một lần.
[75] Ngày Tân Mùi, Bắc diện Đô bộ thự Vương Siêu dẫn đại quân đóng ở sông Đường, dựng doanh trại để phòng giặc.
(Tân Mùi là ngày 19. Ngày 23 tấu đến.)
[76] Trước đó, quan phán Thái thường lễ viện là Tôn Hà cùng các quan tâu rằng: “Theo chiếu chỉ, cùng với các quan ở Sùng văn viện kiểm thảo và tường định việc Ty thiên tâu về ngày tháng xây lăng cho Minh Đức hoàng hậu. Chúng thần cho rằng, nghi lễ tông miếu, việc tế tự là quan trọng nhất, nếu ba năm không tế, thì sự thiếu sót còn gì lớn hơn. Nay Ty thiên nói năm Bính Ngọ mới thuận lợi để làm đại tang, năm nay chỉ có thể tạm quàn ở đất Nhâm, nhưng không được động thổ. Chúng thần đã nhiều lần hỏi kỹ, lại có bàn luận, sao dám lấy ý kiến của quan lễ và bác sĩ để bác bỏ lời nói của Phùng tướng và Bảo chương? Huống chi việc này liên quan đến lăng tẩm, lý lẽ cần phải thuận tiện.
Nay tham khảo ý nghĩa của tang táng, xưa có biến lễ, hợp táng bắt đầu từ Chu Công Đán, bắt đầu dùng màu đen từ Tấn Tương công, chép trong sách vở, cũng không bị chê cười. Theo lễ nói: ‘Táng là chôn giấu, muốn người ta không thấy được.’ Đã không muốn đào huyệt động thổ, thì không gì bằng theo đất Ty thiên đã chọn, theo lễ tang ghi chép về việc quàn của vương hậu, đặt quan tài trên long xa, dùng gỗ xếp chồng lên nhau, làm tượng cờ bốn phía, như nhà để che, phủ kín bằng đất, hợp với việc chôn giấu. Nếu không muốn chôn xuống đất, thì đến lúc đó đốt đi. Như vậy, là dùng lễ quàn mà có tên là táng, hy vọng hơi hợp với kinh điển, có thể làm lễ ngu, đưa thần chủ lên tông miếu, dâng hưởng tế tự.”
Vua nói: “Việc âm dương kiêng kỵ, đời trước không theo. Nay chỉ theo điển lễ mà làm, không cần bàn định.” Tể tướng Lý Hãng cùng các quan tâu: “Những năm gần đây, hoàng tộc liên tiếp có chuyện buồn thảm. Lại thêm mẹ hoàng hậu băng hà, lòng thánh thượng quá đau buồn. Lời nói về âm dương, cũng có chỗ đáng nghi, e rằng cần phải kiêng kỵ. Nếu như lời xin của quan lễ, thì đối với lễ quốc gia, được thuận tiện, việc tế tự tông miếu, cũng không bị bỏ trống.”
Sau khi bàn bạc xong, Tông chính khanh Triệu An Dịch tâu: “Sách Lễ có nói: ‘Sau khi làm lễ Ngu thì lập chủ’. Ngu là lễ tế cát sau khi đã chôn cất. Như vậy, chưa chôn thì chưa lập chủ Ngu và thần chủ, nên theo chế độ nhà Chu chỉ đục gỗ làm huyền trọng để thờ thần linh. Vương hậu bảy tháng sau mới chôn, thì chôn huyền trọng, đóng cửa nguyên cung, đốt các đồ hung trượng, xe uân lương, long xuân ở Bách Thành xong, mới có thể lập chủ Ngu. Cát trượng trở về kinh, chuẩn bị chín lễ tế, lại chôn chủ Ngu, sau đó mới lập thần chủ, đưa lên miếu thất. Từ xưa đến nay, triều đình phụng thờ tổ tiên ở lăng miếu, tuân theo lễ này, sao hôm nay lại trái điển chương, vội vàng đưa lên phối thờ. Nay tạm thời lập thần chủ, chưa đại táng đã chôn huyền trọng, trong khi quan tài chưa về viên lăng, thì thần linh làm sao vào thái miếu, hung trượng chưa đốt ở Bách Thành, thì hung uế xúc phạm tổ tiên. Mong noi theo lệ gần đây của Hiếu Chương, tạm thời chôn ở đất Nhâm[7], chưa lập thần chủ, nghi lễ phối thờ hung nghi, tất cả đều tạm thời phụng thờ, đợi đến năm Bính Ngọ, linh giá đi về phía tây đến viên lăng, rồi trở về phía đông phối thờ vào miếu. Như vậy thì tránh được sự đảo lộn, không có lợi cho quốc gia.”
An Dịch lại xin hạ lệnh cho các đài, tỉnh tập hợp trăm quan phân tích, bèn hạ chiếu cho các cơ quan hữu ty xem xét lại.
Tôn Hà và các quan tâu rằng: “Xét sách 《Tấn thư》 chép: Khi Dương Thái hậu băng hà, bãi bỏ việc tế tự một thời, tế trời đất và minh đường, bỏ nhạc, không dâng lễ vật. Lại xét lễ chép: Khi Vương hậu băng hà, việc tế ngũ tự không tiến hành, chỉ tế sau khi đã nhập quan. Nhưng nói ngũ tự không tiến hành, thì việc tế trời đất không bị bãi bỏ. Vì thế bàn rằng do thời gian xây dựng lăng tẩm không thuận tiện, cần phải thay đổi lễ nghi cho phù hợp. Lại vì trước đây đã theo lễ văn, đợi thần chủ được thăng phụ xong mới tiến hành tế tự, nếu đợi đến năm Bính Ngọ thì ba năm không tế tự ở tông miếu, lễ văn có chỗ thiếu sót. Huống chi Minh Đức Hoàng thái hậu đức hợp với tiên triều, lễ nên được thăng phụ. Bèn cùng với các quan ở Sử quán kiểm thảo cùng nhau tham khảo, cho rằng miếu chưa thăng phụ thì thần linh không đến, e rằng việc tế tự khó tiến hành; còn việc tạm quàn đã xong, linh cữu ở ngoài giao, có thể so sánh với lễ an táng.
An Dịch vốn không hiểu sách vở, chỉ cho rằng trong thời gian chưa thăng phụ, các miếu đã đến tháng bảy thì nên theo thời mà tiến hành tế tự, nên mới dám nói lời mù quáng, coi nghi trượng tang lễ là điềm xấu, xem các quan là đảo lộn, chỉ trích linh cữu gọi thẳng là quan tài, khiến trăm quan phân tích việc xây lăng, làm nhơ bẩn thánh thông, lừa dối bề tôi.
An Dịch lại nói: ‘Xưa thấy các quan hết lòng phụng sự hai Vua và các hoàng hậu, đều làm lăng tẩm trước rồi mới thăng phụ vào miếu. Nay thấy các quan đảo lộn, phụng sự Minh Đức Hoàng thái hậu, lại thăng phụ vào miếu trước rồi mới làm lăng tẩm.’ Nay xét thời xưa làm lăng tẩm trước rồi mới thăng phụ vào miếu, là vì thời gian thuận tiện, không có gì kiêng kỵ về âm dương; còn nay thời gian không thuận tiện, nên theo lẽ mà thay đổi. Chưa chôn cất thì lễ văn chưa đủ, chưa thăng phụ thì tế tự ở miếu còn thiếu, cần phải thay đổi lễ nghi để hợp với thánh ý. Lại nữa, Minh Đức Hoàng thái hậu sắp được tạm quàn, mà An Dịch nói ‘Bách thành chưa đốt nghi trượng tang lễ, thì điềm xấu xúc phạm tổ tông.’
Xét sách 《Đàn cung》 chép: ‘Việc triều kiến trong tang lễ là thuận theo tấm lòng hiếu thảo của người chết.’ Trịnh Huyền chú rằng: ‘Là đưa linh cữu vào miếu.’ Lại chép: ‘Vì lòng thương xót, phải rời khỏi nhà, nên phải đến miếu tổ tiên rồi mới tiến hành. Nhà Thương triều kiến rồi mới nhập quan, nhà Chu triều kiến rồi mới chôn cất.’ Nay cũng từ xa cáo từ tông miếu, há có thể coi việc xuất phát từ lễ kinh là đảo lộn, đầy đủ nghi thức cát hung là xúc phạm?
Lại nói: ‘Hiếu Chương Hoàng hậu băng hà năm Chí Đạo nguyên niên, cũng vì có điều kiêng kỵ, chưa đến lăng tẩm, khi xuất kinh tạm quàn, không lập thần chủ vào miếu, mãi đến năm Chí Đạo thứ ba, sau khi làm lễ ở lăng tẩm phía tây xong, mới rước ngu chủ về kinh, đổi thần chủ thăng phụ vào miếu, để hợp với kinh điển.’
Nay xét văn tịch thời đó, vì Hiếu Chương là chị dâu của Thái Tông, khi băng hà, chỉ ngừng triều chính năm ngày, trăm quan không mặc tang phục, khác với nay, từ đầu cũng không có chiếu lệnh ngừng tế tự ở miếu. Nay Minh Đức Hoàng thái hậu là mẹ cả thiên hạ, chúa thượng hiếu thảo như Tăng Sâm, Nhan Hồi, huống chi khi băng hà đã có di mệnh tạm ngừng tế tự.
Nay xét lễ văn, vốn nên như vậy. An Dịch hoang đường ngu muội, dám viện dẫn bậy bạ, lấy thân đại công so sánh với chế độ ba năm, lừa dối quân thượng, đến mức như thế. Huống chi An Dịch vốn thiếu tài năng, thực không có công lao, tự cho mình là thẳng thắn, chê bai toàn những người lương thiện, tự cho mình là thanh cao, chuộng toàn những điều tầm thường. Chí làm quan, càng già càng kiên định, văn chương 《Thi》, 《Thư》 thì mù tịt. Việc bàn luận của bản viện, đều dẫn rõ điển cố, xét kỹ thời nghi, tuy là tùy thời, nhưng cũng dựa vào cổ lễ, xin theo nghị định cũ mà thi hành.”
Vua nghe theo.
[77] Ngày Quý Dậu, linh giá của Minh Đức Hoàng thái hậu được đưa đến toàn cung ở ngoài cửa An Túc, tại xã Tinh Hiếu, huyện Sa Đài. Các quan tâu: “Sau khi lễ từ biệt hoàn tất, xin mặc áo lành trở về trong cung. Hoàng đế và các vương cùng lục cung mặc áo tang, đeo dây điệt, cầm gậy trượng, tất cả đều đốt đi. Đến năm Bính Ngọ sẽ cải táng, theo lệ lễ sẽ mặc áo ti.” Hoàng đế lúc đầu xem tấu, thấy việc này rất khó khăn, nhưng tể tướng cố xin, bèn ban chiếu cho hoàng tộc để tang trong lòng đủ ba năm theo chế độ.
[78] Chúa Khiết Đan cùng mẹ đem cả nước sang xâm lược. Thống quân Thuận Quốc vương Thát Lãm dẫn quân cướp phá quân Uy Lỗ và Thuận An. Ngụy Năng, Thạch Phổ đem quân chống cự. Ngụy Năng đánh bại tiền quân của địch, chém được tướng lĩnh, thu được ấn tín, cờ trống và quân nhu. Lại đánh trại Bắc Bình, Điền Mẫn đánh đuổi được. Lại tiến về phía đông đến Bảo Châu. Tiểu hiệu Chấn Vũ là Tôn Mật dẫn mười lính đi do thám, giữa đường gặp tiền quân địch. Tôn Mật và đồng đội dựa vào rừng cây giương cung nỏ chờ đợi. Quân địch xuống ngựa dùng vũ khí ngắn đánh nhau. Tôn Mật bắn chết mười mấy người, lại giết được hiệu úy địch, thu được ấn của Hữu Vũ Lâm quân sứ mà họ đeo. Tiến công thành châu, không thuận lợi nên rút về phía bắc.
[79] Ngày hôm đó (tức ngày 22), Thát Lãm cùng với chúa Khiết Đan và mẹ của ông ta hợp lực tấn công Định Châu. Vương Siêu bày trận ở sông Đường, cầm chiếu thư giữ quân không ra đánh, thế giặc càng mạnh. Kỵ binh nhẹ của địch bị tướng dưới quyền [Siêu] ra đánh, bèn dẫn quân về phía đông đóng ở Dương Thành Điện[8].
(Khiết Đan đến sông Đường vào ngày 22 tháng nhuận, gặp đại quân, đến ngày 6 tháng 10 tấu của Vương Siêu mới tới. Thư của Vương Kế Trung cũng nói ngày 22 đến sông Đường, tấu của Vương Siêu nói ngày 24 lại đến, nhưng thư của Kế Trung không nhắc đến, có lẽ Kế Trung không nói hết sự việc chăng?
Thực lục vào ngày 24 tháng nhuận chép “Bắc diện tấu Kế Trung gửi thư cho Thạch Phổ”, chữ “Bắc diện” ở đây có lẽ chỉ Vương Siêu. Nhưng tấu của Siêu đến muộn hơn hơn 10 ngày, e rằng không phải tấu của Siêu. Hơn nữa, giặc đến sông Đường ngày 22, hai ngày sau triều đình đã nhận được thư của Kế Trung, có vẻ quá sớm, nghi rằng Thực lục là ghi chép sau sự việc, không nhất thiết phải dựa vào tấu của Bắc diện. Từ Uy Lỗ đến kinh thành 21 ngày đường, Thuận An 19 ngày đường, Bắc Bình 19 ngày đường, Định Châu 18 ngày đường. Thực lục, bản kỷ và truyện Khiết Đan chép các chiến thắng ở Uy Lỗ, Thuận An, Bắc Bình đều trùng lặp, kỳ thực chỉ là một sự việc. Do Bắc diện đô bố trí sứ và các lộ đô bố trí sứ đều dâng tấu, mà tấu lại đến không cùng lúc, nên sử quan chép nhầm, nay không theo.
Lại xét truyện Ngụy Năng chép: Vua thấy Năng dũng cảm, lại cho giữ chức Uy Lỗ, cấp quân tinh nhuệ, theo dõi động tĩnh của giặc. Giặc hơn trăm người cướp bóc dân, lập một tăng người Phiên làm tướng. Năng cùng Điền Mẫn, Dương Huân hợp binh, đặt phục binh đánh, bắt sống tướng giặc. Giặc áp sát thành, Năng cùng Trương Ngưng xuất quân chống cự, quân ta hơi thua, Năng liền dẫn quân vào thành, Ngưng đánh đuổi giặc. Truyện Điền Mẫn chép: “Mẫn làm Bắc Bình bố trí sứ, được ban kiếm ngự, cho tùy nghi hành sự. Giặc lại xâm phạm, Mẫn đánh nhau ở Dương Thôn, đánh bại chúng. Mẫn do thám biết chúa Khiết Đan cách Bắc Bình 10 dặm đóng trại ở Bồ Âm, định ngày mai đánh Bắc Bình, Mẫn đêm đem quân tinh nhuệ tập kích phá trại, chúa Khiết Đan kinh hãi, hỏi Thát Lãm: “Người đánh ta là ai?” Thát Lãm đáp: “Là Điền Sương sứ.” Chúa Khiết Đan nói: “Hắn mạnh không thể địch nổi.” Bèn dẫn quân rút.
Trận Dương Thôn, các truyện khác không có gì khác. Năng do dự không lập công, xem truyện Trương Ngưng, nay theo ngày Ất Tỵ tháng 10 và ngày Quý Tỵ tháng 2 sau chép riêng. Chiến thắng ở Thuận An, bố trí sứ có lẽ là Thạch Phổ, nhưng truyện Phổ lại không nói rõ. Thực lục ngày 22 tháng nhuận Quý Dậu chép chiến thắng ở Bắc Bình, cũng nhắc đến Điền Mẫn, Dương Huân, không rõ lúc đó Dương Huân giữ chức gì. Người làm bố trí sứ ở Bảo Châu cũng không thấy tên. Đều cần xét kỹ.)
[80] Khấu Chuẩn tâu: “Biên giới tấu rằng quân địch đã đến vùng sâu, phía đông Kỳ Châu, do ba đạo quân lớn đang ở Định Châu, Ngụy Năng, Trương Ngưng, Dương Diên Lãng, Điền Mẫn lại đang ở Uy Lỗ Quân, phía đông không có quân đồn trú, xin trước hết điều một vạn quân bộ và kỵ của Thiên Hùng Quân đóng ở Bối Châu, giao cho Chu Oánh, Đỗ Ngạn Quân, Tôn Toàn Chiếu phân bố, nếu không đủ thì chỉ điều năm nghìn người, giao riêng cho Tôn Toàn Chiếu. Nếu quân địch ở gần, xin cho tùy cơ đánh úp, lại sai người đi đường tắt hẹn với Thạch Phổ, Diêm Thừa Hàn cùng ứng phó tiêu diệt, rồi chiêu mộ tráng sĩ vào địch cảnh, đốt phá trại địch, tiêu diệt sinh lực, thường xuyên cử người do thám, báo cáo tình hình địch, đồng thời báo cho Thiên Hùng Quân. Một là để an lòng dân, hai là phô trương thanh thế quân đội khiến địch nghi ngờ, ba là để chấn động uy thế quân đội của Thạch Phổ, Diêm Thừa Hàn, bốn là cùng với Hình Châu, Minh Châu tương ứng, đủ để tạo thế ỷ giốc[9].”
Lại nói: “Quân sĩ hộ giá không nên đối đầu với quân địch ngoài đồng bằng để quyết thắng bại. Nay Thiên Hùng Quân đến Bối Châu, quân đồn trú không quá ba vạn người, nếu quân địch đã đóng trại phía nam Bối Châu, thì từ Định Châu điều hơn ba vạn người, sai Tang Tán kết trận tiến về phía nam đến Trấn Châu, và lệnh cho quân của Lôi Hữu Chung ở Hà Đông từ Thổ Môn hội quân ở Định Châu. Xem xét tình hình, dời đến giữa Hình Châu, Minh Châu, xa giá mới có thể tiến lên. Lại sai Vương Siêu ở Định Châu dàn trận ở Dực Thành để ứng phó với Ngụy Năng, tạo thế hội quân, đợi khi điều động quân Định Châu, Hà Đông đến gần, mới nên đến Đại Danh.”
Lại nói: “Nếu quân địch đóng trại ở vùng ngoại ô Trấn Châu, Định Châu, quân Định Châu không thể đến, phía bắc Hình Châu, Minh Châu dần bị xâm lược, cần chia ba đạo quân tinh nhuệ, sai tướng soái hội quân, và lệnh cho Ngụy Năng tiến về phía đông, kìm chế quân địch, địch ắt lo ngại phía sau, không dám khinh suất tiến sâu. Nếu xa giá không đi, càng sợ giặc phương bắc hại dân, hoặc nếu ngự giá thân chinh, cũng phải vượt sông lớn, tạm đến Thiền Uyên, dễ bề chế ngự, hội quân khống chế.”
(Vương Đắc Thần trong 《Trần sử》 chép sớ này, nói là tháng nhuận chín, nay phụ chép.)
Trước đó, Khấu Chuẩn đã quyết định kế hoạch thân chinh. Tham tri chính sự Vương Khâm Nhược thấy giặc đã tiến sâu vào, bèn bí mật tâu với Vua, xin dời đến Kim Lăng. Thiêm thư xu mật viện sự Trần Nghiêu Tẩu xin dời đến Thành Đô. Vua lại hỏi ý Khấu Chuẩn. Lúc đó, Khâm Nhược và Nghiêu Tẩu đang ở bên cạnh. Chuẩn biết Khâm Nhược là người Giang Nam nên xin dời về phía nam, còn Nghiêu Tẩu là người Thục nên xin dời về phía tây, bèn giả vờ không biết, nói: “Ai là người vạch kế sách này cho bệ hạ? Tội đáng chém. Nay thiên tử thần vũ, tướng sĩ hòa hợp, nếu xa giá thân chinh, giặc tự nhiên sẽ rút lui. Nếu không, ta sẽ dùng kế lạ để phá mưu giặc, kiên cố phòng thủ để làm suy yếu quân địch. Thế lực lao nhọc và nhàn rỗi, ta đã nắm chắc phần thắng. Sao lại muốn bỏ xã tắc mà chạy xa đến Sở, Thục?” Vua bèn thôi, hai người từ đó oán Chuẩn.
Khâm Nhược nhiều mưu trí, Chuẩn sợ ông ta tùy tiện can gián, ngăn trở việc lớn, nên tìm cách loại bỏ. Khi Vua muốn chọn đại thần đi trấn thủ Đại Danh, Chuẩn bèn nói Khâm Nhược có thể đảm nhiệm, Khâm Nhược cũng tự xin đi. Ngày Ất Hợi, Vua lấy Khâm Nhược làm phán Thiên Hùng quân phủ kiêm đô bộ thự, đề cử Hà Bắc chuyển vận ty, cùng Chu Oánh bàn việc phòng thủ.
(Sách 《Ký văn》 chép lời Vương Khâm Nhược và Trần Nghiêu Tẩu, và nói rằng xa giá lúc đó đang ở Thiền Uyên. Xét Khâm Nhược được bổ nhiệm làm tri Đại Danh vào ngày 24 tháng 9 nhuận, ngày mồng 2 tháng 10 lên đường, xa giá đến ngày 20 tháng 11 mới thân chinh, sách 《Ký văn》 có lẽ nhầm. Sách 《Đông Hiên lục》 của Ngụy Thái chép rằng Chuẩn triệu Khâm Nhược đến hành phủ dặn dò, rót rượu tiễn, bảo Khâm Nhược ngay hôm đó lên ngựa đi trấn thủ, điều này càng sai lầm. Nay căn cứ vào 《Nhân Tông thực lục》, truyện của Chuẩn và Khâm Nhược để sửa chữa. Thực ra Chuẩn đã quyết định kế hoạch Thiền Uyên, Khâm Nhược và Nghiêu Tẩu âm thầm ngăn trở, Chuẩn bèn chỉ trích lỗi lầm của họ, tuy chỉ trích lỗi lầm, nhưng chưa từng trực tiếp chỉ trích Khâm Nhược[10], vốn cũng không dâng kế sách này trước mặt Vua, bản truyện nói rằng Chuẩn chỉ trích Khâm Nhược, e rằng chưa chắc đã như vậy.
Trương Đường Anh viết truyện của Chuẩn, lại có câu người Giang Nam khuyên dời đến Kim Lăng, người Thục khuyên dời đến Thành Đô, nếu nói Chuẩn riêng tư cho là đúng thì được, chứ chắc chắn không chỉ trích trước mặt Vua. Hơn nữa, Đường Anh kể chuyện Chuẩn, nhiều chỗ không đúng sự thật, nay đều không dùng. Khâm Nhược đã không thể ngăn trở Chuẩn, bèn xin trấn thủ Ngụy để tự cứu, kẻ gian tà vì mình, phần nhiều như thế, bản truyện nên ghi nhận điều này. Lưu Ban viết truyện Thừa tướng Lai công, cũng nói Vua tuần thú phương bắc đến Thiền Châu, không muốn vượt sông[11], Chuẩn mới xin chém người đề nghị dời đến Kim Lăng và Thục, cùng với 《Ký văn》 của Tư Mã Quang đều sai, nay không dùng.)
[81] Ban đầu, Điện tiền đô ngu hầu, Vân Châu quan sát sứ Vương Kế Trung bị thua trận, bị địch bắt giữ, liền được phong chức quan, dần được tin dùng. Kế Trung nhân cơ hội nói về lợi ích của việc hòa hảo. Lúc đó, mẹ của Khiết Đan quốc chủ đã già, có ý chán ghét chiến tranh, tuy đại quân tiến sâu vào, nhưng cũng nghe theo lời Kế Trung, bèn sai tiểu hiệu Lý Hưng cùng ba người khác cầm tín tiễn và thư của Kế Trung đến Mạc Châu bộ thự Thạch Phổ, đồng thời gửi một bản mật tấu, mong sớm đưa đến triều đình, lời lẽ rất khẩn thiết. Hưng nói rằng Khiết Đan chủ và mẹ gọi đến trước xe trướng, trao thư này, dặn phải nhanh chóng đến Mạc Châu giao cho Thạch Phổ, nhận được hồi âm thì lập tức trở về.
Ngày hôm đó, Phổ sai sứ mang bản tấu đến. Vua mở xem, chính là bản tường trình của Kế Trung, nói rõ: “Thần trước đây vâng chiếu sung chức Phó đô bộ thự lộ Định Châu, trong trận Vọng Đô, từ sáng đến chiều, doanh trại chưa kịp dựng, lương thảo chưa đến, quân sĩ không cởi giáp, ngựa không được ăn uống suốt hai ngày, thêm vào đó binh sĩ thiếu nước, liều mạng tranh nhau lấy nước. Hôm sau, thần chỉnh đốn quân ngũ tiến lên, đánh cánh quân địch, tuy thắng bại ngang nhau, nhưng viện binh không đến, nên bị Bắc triều bắt giữ. Đây không chỉ là do Vương Siêu khinh địch thiếu mưu lược, mà cũng là lỗi của thần. Bắc triều vì thần từng phục vụ trong cung, từng gánh vác việc biên cương, nên ban cho ân sủng đặc biệt, xếp vào hàng các quan. Thần thường nhớ lại năm xưa từ biệt, được nghe lời dạy bảo, chỉ mong dân được yên, chiến tranh chấm dứt. Huống chi Bắc triều kính ngưỡng thánh đức, muốn khôi phục quan hệ hòa hảo cũ, mong bệ hạ rủ lòng nghe theo lời thần ngu muội.”
[82] Vua nói với các đại thần phụ tá rằng: “Trẫm nghĩ đến thời kỳ toàn thịnh trước đây, cũng lấy việc hòa hoãn với rợ làm lợi. Khi Trẫm mới lên ngôi, Lữ Đoan và các người khác đã đề nghị nhân việc Thái Tông băng hà, sai sứ đi báo tang. Sau đó, Hà Thừa Củ xin nhân sau khi chuyển chiến, truyền đạt ý chỉ đến các tướng biên cương. Trẫm cho rằng chưa có sự giao thiệp chân thành, không thể ép buộc được. Lại nghĩ từ xưa, giặc Hung Nô là kẻ thù mạnh của Trung Nguyên, nếu không dùng đức lớn để cảm hóa, dùng binh lực hùng mạnh để uy hiếp, thì tính hung hãn của chúng sao có thể khuất phục được. Tấu chương này tuy đã đến, nhưng cốt yếu là chưa thể tin được.”
Bật Sĩ An và các người khác nói: “Những năm gần đây, những người Khiết Đan quy thuận đều nói trong nước họ sợ uy thần vũ của bệ hạ, nước ta hùng mạnh giàu có, thường lo sợ một ngày nào đó sẽ cử binh đánh chiếm lại U Châu, nên mới dám xâm phạm sâu vào. Nay quân ta đã nhiều lần đánh bại chúng, chúng cũng xấu hổ không dám tự rút lui, nên mới nhân Vương Kế Trung để xin hòa, chắc cũng không phải là lời nói dối.”
Vua nói: “Các khanh nói như vậy, chỉ biết một mà chưa biết hai. Chúng vì không thành công nên xin kết minh, đó là điều đương nhiên. Nhưng sau khi được chấp thuận, ắt sẽ có những yêu cầu. Nếu ta chịu nhún mình để yên dân, đặc biệt sai sứ đi, tặng chúng của cải, như vậy cũng được. Điều đáng lo là đất Quan Nam từng thuộc về chúng, nếu chúng lấy đó làm cớ, thì ta phải kiên quyết từ chối, Trẫm sẽ chỉnh đốn quân ngũ, thề với quân sĩ, thân chinh đi đánh dẹp.”
Rồi sai Thạch Phổ đem chiếu thư ban cho Vương Kế Trung rằng: “Trẫm kế thừa ngôi báu, nuôi dưỡng muôn dân, thường nghĩ đến việc ngừng chiến để yên dân, đâu muốn dùng binh đến cùng để phô trương vũ lực. Nay xem tờ tấu, rất khen ngợi lòng thành khẩn. Trẫm giàu có bốn bể, là cha mẹ dân, nếu có thể ngừng chiến, cũng hợp với ý nguyện của Trẫm. Khi chiếu thư đến, khanh hãy bí mật truyền đạt ý này, cùng bàn bạc việc cần làm, nếu có lời nào xác thực, hãy nhờ các tướng biên cương tâu lên.” Vương Kế Trung muốn triều đình sai sứ đi trước, nhưng Vua chưa cho phép.
(Quốc sử Khiết Đan truyền đổi chữ “bắc triều” thành “bỉ trung”, và bỏ đi câu “Vương Siêu và các người khác khinh địch ít mưu” cùng đoạn Vua nói với tể thần “chưa biết hai” trở xuống, nay theo thực lục chép đủ, để không mất sự thật.)
[83] Ngày Bính Tý, lấy Thiên Hùng quân Đô bộ thự Chu Oánh làm Giá tiền Đông diện Bối Ký lộ Đô bộ thự, Dĩnh châu Phòng ngự sứ Đỗ Ngạn Quân làm phó, Cung bị khố sứ Kỳ Chính Mẫn (Chính Mẫn, chưa rõ lai lịch) làm Kiềm hạt; Mã quân Đô chỉ huy sứ Cát Bá làm Giá tiền Tây diện Hình Minh lộ Đô bộ thự, Bộ quân Đô ngu hậu Trung Mâu Vương Ẩn làm phó, Tây thượng các môn sứ Tôn Toàn Chiếu làm Kiềm hạt. Vua triệu Toàn Chiếu đến nói chuyện, lệnh kiêm chức Thiên Hùng quân và Bối, Ký các châu Kiềm hạt, lại sai xem xét việc cơ mật phía bắc. Toàn Chiếu tâu rằng, nếu giặc tiến sát thành Ngụy, chỉ cần vài nghìn kỵ binh, ắt có thể dùng kế lạ để thắng. Vua khen ngợi lòng trung dũng của ông, đủ để phô trương uy vũ quân đội, bèn hạ chiếu cho Đô bộ thự Chu Oánh nếu Toàn Chiếu muốn đánh giặc thì lập tức chia quân cho ông[12].
[84] Cùng ngày, lệnh cho dân chúng các châu huyện phía nam Hà Bắc vào trú trong thành trại, vì giặc đã tiến sát.
[85] Ngày Đinh Sửu, lệnh cho Phủ châu từ nay không được tự ý phát binh vào khu vực quản hạt của Đường Long trấn để cướp bóc, nếu có người Hán hoặc người Phiên trốn tránh ở đó cần truy cứu thì phải tâu lên, sẽ ban chiếu đưa về.
[86] Ngày Kỷ Mão, Khả Lam quân sứ Khai Phong Cổ Tông tâu rằng kỵ binh giặc mấy vạn người xâm phạm Thảo Thành Xuyên, ông đem quân đánh bại chúng, ngày hôm sau chúng lại đến, lại đánh bại chúng lần nữa, rồi đuổi chúng ra khỏi biên giới phía bắc. Có chiếu khen thưởng, lệnh cho Ty chuyển vận và Ty bộ thự trình bày công trạng của tướng sĩ để tâu lên. Bính Đại Kiềm hạt Cao Kế Huân thực sự đã đem quân đến cứu viện, lên cao nhìn về Thảo Thành Xuyên, nói với Tông rằng: “Quân địch đông nhưng trận thế không chỉnh tề, tướng lĩnh bất tài. Quân ta tuy ít, nhưng có thể dùng kế lạ để thắng. Trước hết hãy đặt phục binh dưới núi, khi giao chiến, chúng ắt sẽ rút về phía nam, ngươi hãy đem quân đánh úp, ắt sẽ đại phá.” Khi giao chiến, đến Hàn Quang Lĩnh thì phục binh xuất hiện, quân địch quả nhiên thua to, tự giày xéo lên nhau hơn một vạn người, thu được rất nhiều ngựa, trâu và lạc đà. Sau đó, Tông từ chức Cung phụng quan, Các môn chi hậu được thăng làm Nghi loan phó sứ, Kế Huân từ chức Lạc uyển sứ được thăng làm Cung tiễn khố sứ.
(Kế Huân được thăng chức vào tháng 11 ngày Kỷ Mùi, Tông được thăng vào tháng 11 ngày Đinh Tỵ, nay ghi chung lại.)
- Sai Thái thường bác sĩ, Trực sử quán Hà Lượng... đi ngựa trạm đến hai lộ Quảng Nam Đông và Tây để xét xử các tù nhân bị giam giữ. Chữ 'Hà Lượng' dưới nguyên có chữ 'Đẳng', căn cứ theo các bản và 《Tống hội yếu》 Hình pháp 5/20 bỏ; chữ 'Vãng' nguyên thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》 bổ sung. ↵
- Chữ 'dĩ hạ' trong câu 'từ quan triều đình ở kinh đô và các chức sứ, phó sứ trở xuống đến các chức Cáp môn chi hậu trở lên' vốn bị thiếu, nay theo 《Tống hội yếu》 quyển 27, mục 8 bổ sung. ↵
- Câu 'đều bổ nhiệm vào chức Tam ban và Trấn chức' trong 《Chức quan phân kỷ》 quyển 13, mục 'Tam bộ chư ty thuộc lại' viết là 'đều bổ nhiệm vào chức Tam ban và Tá chức', có lẽ đúng. ↵
- chữ 'binh' nguyên bản thiếu, theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15, mục Thân chinh Khiết Đan bổ sung. ↵
- nguyên bản là 'Thiền Uyên', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống sử》 quyển 268, truyện Vương Hiển sửa lại. ↵
- Chữ 'tự' trong 'Đại Lý tự thừa Cao Doãn' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác bổ sung. ↵
- 'Kính' nguyên là 'Tổ', theo Tống hội yếu lễ 37-51 sửa lại. ↵
- 'Trú' nguyên bản viết là 'Chú', căn cứ theo Tống bản, Tống Toát Yếu bản và Tống Hội Yếu phần Phiên Di nhất chi nhị bát, Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt quyển 15 phần Thân Chinh Khiết Đan, Tống Sử Toàn Văn quyển 5 hạ sửa lại. ↵
- đủ để tạo thế ỷ giốc 'đủ' nguyên bản là 'định', theo bản Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 sửa lại. ↵
- chữ 'Khâm Nhược đẳng' ba chữ nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung. ↵
- chữ 'Hà' nguyên bản thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15 bổ sung. ↵
- Chữ 'cấp' nguyên bản là 'kích', căn cứ theo sách trên mà sửa lại. ↵