"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 58: NĂM CẢNH ĐỨC THỨ NHẤT (GIÁP THÌN, 1004)

Từ tháng 10 năm Cảnh Đức thứ nhất đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Nhâm Ngọ: Lấy Thứ sử Châu Từ, Bố trí trú bạc Châu Bân là Hứa Quân kiêm chức Bố trí trú bạc Vĩnh Hưng, cùng với Tri phủ Hướng Mẫn Trung và Lương Đỉnh ở Phượng Tường cùng quản lý việc tuần tra bắt trộm cướp ở các châu thuộc Thiểm Tây. Hoàng đế đã quyết định chinh phạt phương Bắc, nghĩ đến việc quân trọng yếu ở Quan, Lũng phần lớn đóng ở các quận biên giới, từ Thiểm Tây trở về tây thẳng đến Lưỡng Xuyên cũng cần phải phòng bị cẩn thận, nên có mệnh lệnh này.

[2] Khởi cư xá nhân, Trực Chiêu Văn quán là Chủng Phóng từ núi Chung Nam đến triều kiến, tâu rằng đã về núi lâu ngày, xin không nhận bổng lộc theo tháng, nhưng Hoàng đế đặc biệt ban cho.

[3] Chiếu rằng các lăng mộ của thánh hiền các đời bị hư hỏng thì quan phụ trách tu sửa, nghiêm cấm việc chặt củi.

[4] Châu Phượng tâu rằng Giám quân Lý Lãng vì việc nhỏ mà đánh Tiểu hiệu Vũ Định quân là Lương Phúc ở bản thành. Phúc tập hợp sáu người, đêm vào nha của Lãng, giết Lãng rồi bỏ trốn. Sai sứ đốc thúc Tuần kiểm sứ bắt giữ.

[5] Ngày Quý Mùi, Lấy Dẫn tiến sứ, Thứ sử Châu Phan là Hà Thừa Củ kiêm chức Đoàn luyện sứ Châu Anh. Ban đầu bàn việc thăng chức, Hoàng đế nói với tể tướng: “Thừa Củ biết chữ, thích danh tiếng, tự cho mình có tài năng, nên chọn chức vụ có danh tiếng tốt để ban cho.”

[6] Lấy Kiềm hạt lộ Hoàn Khánh, Cung bị khố sứ là Trương Hú kiêm chức Thứ sử Châu Hạ, làm Kiềm hạt lộ Kinh Nguyên, thay Tần Hàn về triều.

[7] Lệnh các châu quân ở Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây giáp biên giới phải cẩn thận việc phòng hỏa, đề phòng gián điệp của giặc.

[8] Sai sứ đến thăm hỏi các quân ở phía Bắc, rồi tổ chức yến tiệc khao thưởng.

[9] Quần mục phán quan là Vương Thự tâu: “Theo chiếu, các châu có ruộng bỏ hoang không thể thả ngựa, chiêu mộ dân chăn nuôi để canh tác, không cho phép những hộ có ruộng đóng thuế bỏ nghề chia nhà để xin chiếm. Lại vì hộ khách trôi nổi phần nhiều nghèo khó, người ứng mộ ít, xin theo lệ ruộng chức, chiêu mộ chủ hộ và khách hộ trồng trọt, chia làm ba hạng tốt xấu để nộp thuế. Các quan lại sứ thần ở châu huyện, nếu chiêu mộ được dân, theo chiếu cũ ghi vào sổ làm thành tích.” Được chấp thuận.

[10] Ngày Giáp Thân, Hàn Thủ Anh và Trương Chí, hai viên kiềm hạt của lộ Lân Phủ, tâu rằng: “Tri phủ châu Chiết Duy Xương bẩm: Vâng chiếu chỉ, dẫn quân bản bộ từ quân Hỏa Sơn tiến vào địa giới châu Sóc của Khiết Đan, tiền quân phá được trại Đại Lang Thủy, giết hại rất nhiều, bắt sống hơn bốn trăm người, thu được ngựa, trâu, dê cùng khí giới, áo giáp số lượng lên đến hàng vạn.” Triều đình ban chiếu khen thưởng, ban cho áo gấm, đai vàng, tiền cho tướng sĩ có sai biệt. Lúc đó, quân Khiết Đan đang vây quân Khả Lam, nghe tin bại trận liền rút lui.

[11] Trương Bỉnh, tri châu Thiền Châu, tâu rằng đã điều động dân đinh tu sửa thành trì. Vua cho rằng giặc đang ở biên giới mà trong nội địa vội vàng tu sửa thành trì sẽ làm dao động lòng dân, liền hạ lệnh dừng việc này. Sau đó, Trương Bỉnh được điều làm tri châu Hoạt Châu, còn Hà Thừa Củ, chức Dẫn tiến sứ, Đoàn luyện sứ châu Anh, được bổ làm tri châu Thiền Châu.

[12] Ngày Ất Dậu, ban chiếu cho các quan trưởng châu quân nơi đường vận tải qua lại kiêm quản việc vận chuyển, theo lời thỉnh cầu của Thiệu Diệp, Chuyển vận sứ Hoài Nam.

[13] Ngày Bính Tuất, sai An Thủ Trung, chức Cung bị khố phó sứ, đi kiểm tra các trạm dịch phía bắc châu Thiền[1].

[14] Lệnh cho một viên kiềm hạt binh mã châu Thiền kiêm quản quân đội dọc sông. Lúc đó, các châu quân dọc sông tăng cường binh lực để phòng bị quân Khiết Đan.

[15] Trước đó, có chiếu lệnh cho Lôi Hữu Chung và các tướng lấy đường Thổ Môn để hội quân. Đến lúc này, vì quân Khiết Đan tiến về phía đông, uy hiếp huyện Vũ Cường, lại ban chiếu cho Lôi Hữu Chung và các tướng dẫn quân đến châu Trấn.

[16] Vương Siêu tâu rằng quân Khiết Đan dẫn quân men theo sông Hồ Lô tiến về phía đông. Triều đình ban chiếu cho các tướng chỉnh bị binh mã, đồng thời lệnh cho các tướng ở quân Khả Lam, Uy Lỗ, châu Bảo, trại Bắc Bình tiến sâu vào địa giới giặc, đánh từ trước sau để phân tán thế lực của chúng.

(Các lộ tiến sâu để phân tán thế giặc, 《Thực lục》 không ghi chép về quân Khả Lam, nay theo 《Hội yếu》. Ngày Ất Tỵ 25 tháng này, quân Khả Lam cũng tâu thắng trận, có lẽ 《Thực lục》 bỏ sót việc này.)

[17] Ngày Mậu Tý, đưa thần chủ của Minh Đức hoàng hậu vào thờ phụng ở Thái Miếu. Trước đó, Vua ban chiếu cho các quan bàn định kỹ lưỡng về lễ thăng phụ. Có tấu trình rằng: “Thời Đường Duệ Tông, hai hoàng hậu Chiêu Thành và Túc Minh, lúc đầu chỉ có Chiêu Thành được thờ phối, đến cuối niên hiệu Khai Nguyên mới đưa Túc Minh vào thờ phụ. Ôn Kiệu, Phiêu Kỵ tướng quân nhà Tấn, có ba phu nhân. Khi Kiều mất, Vua hỏi học quan Trần Thư, ông cho rằng từ thời Tần, Hán trở đi, đã bỏ chế độ một người cưới chín vợ, vợ chết thì cưới lại, không có chuyện kế thất. Khi sống đã được hưởng lễ, khi chết không nên giảm bớt. Triều đình cho rằng Lý thị mất khi Kiệu còn hàn vi, không được hưởng tặng điển, còn Vương thị và Hà thị đều được truy tặng chương thụ. Trịnh Dư Khánh, Thái tử Thiếu phó nhà Đường, muốn lập gia miếu, tổ tiên có hai phu nhân, lễ quan Vi Công Túc bàn nghị giống như Trần Thư.” Lại nói: “Phủ quân Nam Xương nhà Tấn có Tuân thị và Tiết thị, miếu Cảnh Đế có Hạ Hầu thị và Dương thị, miếu Lỗ công Nhan Chân Khanh có phu nhân Thương thị và kế phu nhân Liễu thị. Xét qua lễ văn, tham khảo các điển cố, việc thờ phụng hai phu nhân là hợp lý. Kính nghĩ rằng Ý Đức hoàng hậu đã lâu được thờ phối, không thể thay đổi, Minh Đức hoàng hậu kế thừa danh hiệu cao quý, cũng nên được thờ phối. Tuy có trước sau khác nhau, nhưng đều là tôn kính người thân, xin cùng thờ phụng ở Thái Tông thất, theo thứ tự trước sau.” Vua ban chiếu cho Thượng thư tỉnh tập hợp các quan bàn định, đều theo lời tấu của lễ quan. Từ đó, hai hoàng hậu cùng được thờ phối.

[18] Bảo Châu tấu trình công trạng của Tôn Mật phá giặc. Vua nói: “Quân sĩ và dân biên cương đều coi thường giặc như vậy. Chỉ cần tướng lĩnh có tài, thì tiêu diệt giặc không khó.” Vua ban chiếu phong Tôn Mật làm Hiệu úy Chấn Vũ quân, ban cho áo gấm, đai bạc, và thăng thưởng cho quân sĩ đi theo.

[19] Vua sai sứ đến các châu Tân, Lệ, Đức, Bác để an định dân lưu tán.

[20] Vua ban chiếu cho các châu Thanh, Tề khuyên bảo dân chúng không được hoảng loạn, vì lo ngại việc di chuyển ở biên giới sẽ gây xáo trộn.

[21] Lệnh cho Đô giám Vương Đinh của lộ Thạch Thấp dẫn quân bản bộ đóng ở Hiến Châu, nếu quân địch từ Tây Cốc xâm nhập, thì hội quân với bộ thự Đại Châu và quân trú bạc Hãn Châu để chống cự; nếu từ Khả Lam, Ninh Hóa Quân xâm nhập, thì lệnh cho Kiềm hạt Lân Phủ Hàn Thủ Anh dẫn quân đến ứng phó.

[22] Ngày Canh Dần, lệnh cho Thượng thư Binh bộ, Tri Thanh Châu Trương Tề Hiền kiêm chức An phủ sứ Thanh, Truy, Duy; Tri chế cáo, Tri Vận Châu Đinh Vị kiêm chức An phủ sứ Vận, Tề, Bộc, cùng đề cử việc chuyển vận và binh mã. Lại lệnh cho Tề Hiền và Đinh Vị vẽ bản đồ hình thế sông núi, đường sá rộng hẹp trong khu vực quản lý để tâu lên. Sau đó, quân địch kỵ binh tiến về phía nam, dân chúng hoảng loạn, đổ xô đến bến Dương Lưu, người chèo thuyền vì lợi mà không chịu chở ngay. Đinh Vị bèn lấy tội nhân tử hình chém ở bờ sông, người chèo thuyền sợ hãi, dân chúng mới được qua sông. Sau đó, ông chia quân, bố trí cầm cờ hiệu dọc sông, đánh điêu đẩu để làm quân địch sợ hãi, tiếng hô vang xa hàng trăm dặm. Quân địch bèn rút lui.

[23] Lúc đó, ở Tào, Bộc có nhiều trộm cướp, Tào lại thiếu quan cai trị, chiếu cho Viên ngoại lang Đồn điền Tạ Đào làm Tri châu sự. Thuế má của các huyện thuộc quyền vốn chia gửi về kho Thư Dương để cung cấp lương thực cho quân đội. Gặp lúc mưa lũ, dân chúng khổ cực vì việc vận chuyển, Tạ Đào bèn giữ lại không gửi đi, tâu rằng: “Vận tải từ Giang, Hoài hàng ngày qua Thư Dương, có thể lấy để cấp cho quân đội. Xin giữ lại phần này để chuyển về kinh sư bằng đường Quảng Tế Hà.” Chuyển vận sứ bàn là không nên, nhưng chiếu theo lời tâu của Tạ Đào.

(Tạ Đào lúc đó được ghi trong chiếu. Xét ngày tháng ông làm Tri châu, trong bài hành trạng của Doãn Chu viết là năm Cảnh Đức thứ hai, có lẽ là nhầm.)

[24] Ngày Tân Mão, chiếu cho các quan ở Quảng Nam đã mãn ba năm nhiệm kỳ mà vẫn muốn ở lại thì được phép.

[25] Ngày Ất Mùi, chiếu cho Vương Siêu và các tướng dẫn quân đến hành tại.

[26] Lệnh cho Tri Vĩnh Hưng Quân phủ Hướng Mẫn Trung kiêm quản binh mã trú bạc ở Phượng Châu, được tùy nghi hành sự. Vua sắp Bắc chinh, lo lắng về biên giới phía tây, nên có chiếu này. Mẫn Trung nhận chiếu, giấu đi không công bố, xử lý công việc như thường ngày, biên giới được yên ổn. Vua từ đó biết ông có thể đảm đương trọng trách, có ý định trọng dụng lại.

[27] Ngày Bính Thân, chiếu cho quân sĩ theo hầu Vua trước tiên đến Thiền Châu, quân Thiên Hùng và quân trú bạc dọc sông đều được cấp tiền trang bị.

[28] Ngày Đinh Dậu, Vua xuống chiếu cho Uy Lỗ quân Ngụy Năng, Bảo Châu Trương Ngưng, Bắc Bình trại Điền Mẫn đem quân bản bộ đóng ở Định Châu. Trước đó, Vua đã ra chiếu cho Ngụy Năng, Trương Ngưng, Điền Mẫn và Duyên Biên đô tuần kiểm Dương Diên Lãng[2] chia nhau nắm giữ kỵ binh tinh nhuệ, đợi khi quân địch đến thì tiến sâu vào để kéo giãn thế trận. Vương Siêu từng xin để bốn người này đều thuộc quyền chỉ huy của mình, nhưng Vua cho rằng vốn đặt ra kỳ binh là để quấy rối tâm phúc địch, nếu lại để đại tướng chỉ huy thì bốn người này không thể phát huy được tác dụng, nên ra lệnh không cho họ chịu sự điều động của Vương Siêu. Vương Siêu đã đi đến nơi hành tại, Vua bèn hạ chiếu cho Điền Mẫn và những người khác dời quân đóng trại.

(Bốn người này căn cứ theo truyện Trương Ngưng. 《Thực Lục》 chỉ không nhắc đến Dương Diên Lãng. Xét chiếu tháng giêng năm sau, Diên Lãng thực sự là Duyên Biên đô tuần kiểm, nhưng bản truyện lại bỏ sót, nay phụ chép vào đây.)

[29] Vua vừa nghe tin Phan La Chi chết, liền hạ chiếu truy tặng ông ta làm Vũ Uy quận vương, sai sứ đến viếng và cấp tiền tuất cho gia đình. Phong Tư Đạc Đốc làm Diêm Châu phòng ngự sứ, Linh Châu Tây diện Duyên Biên đô tuần kiểm sứ.

[30] Ngày Kỷ Hợi, tước bổng lộc nửa tháng của Cấp sự trung Lã Hữu Chi, Giám sát ngự sử Chu Bác phạt thục đồng 40 cân, Thái bộc khanh trực Bí các Tiền Duy Diễn và Hữu Kiêu vệ tướng quân Tiền Duy Tế mỗi người phạt thục đồng 30 cân. Đêm trước ngày phát dẫn Minh Đức hoàng hậu, bá quan đến viếng, Lã Hữu Chi đến khi đã xếp hàng xong, Chu Bác đến khi viếng xong, còn Tiền Duy Diễn và những người khác không đến, nên bị Ngự sử đàn hặc.

[31] Ngày Tân Sửu, ban cho con trai của Giám sát ngự sử Vương Thuần là Nguyên Nhụ được xuất thân đồng học cứu. Vương Thuần trước làm Thông phán Lân Châu, gặp lúc quân địch xâm phạm, đã chỉ huy quân sĩ giữ thành có công, nên ghi nhận công lao cho con cháu ông.

[32] Chiếu rằng: Từ khi Minh Châu đóng cửa thành đến nay, nghe nói củi và cỏ đắt đỏ, dân chúng rất khó khăn trong việc kiếm ăn, những người tránh giặc vào thành nên được cho phép đi kiếm củi.

[33] Ngày Nhâm Dần, chiếu rằng: “Việc binh giáp và trộm cướp ở bốn lộ Xuyên Hạp: trong đó hai lộ Ích và Lợi, giao cho Tây Xuyên Kiềm hạt ty đề cử; hai lộ Quỳ và Tử, giao cho Hạp Lộ Kiềm hạt ty đề cử; các Châu đô giám chỉ quản việc binh giáp và trộm cướp trong châu mình.”

[34] Sai Phó đô tri Nhập nội là Tần Hán đi ngựa trạm đến Thiền châu, quân Thiên Hùng và các nơi khác để xử lý các việc quân sự quan trọng, tùy nghi hành sự.

[35] Ngày Quý Mão, phong Tư Đạc Đốc làm Tiết độ sứ quân Sóc Phương, Tuần kiểm mặt tây Linh châu, Đại thủ lĩnh Lục Cốc phủ Tây Lương. Vua cho rằng bọn Thiên Đảng chưa dẹp yên, cần dựa vào sự hỗ trợ từ phía sau để kiểm soát, nên ban cho ông tất cả các chức vụ cũ của La Chi. Từ trước, các quan chức ngoại thần được bổ nhiệm đều do Viện Xá nhân soạn chiếu, việc Tư Đạc Đốc nhận chức Sóc Phương vẫn theo lệ cũ. Từ đây về sau, mới theo lệnh của Viện Học sĩ ban chiếu. (Theo 《Xuân Minh Lục》).

[36] Ra chiếu chỉ cho các châu quân ở Kinh Tây, những người thuê mướn dân đói khổ làm việc từ năm Thuần Hóa, phải trả lại con cái cho cha mẹ họ.

[37] Ngày Ất Tỵ, các nơi Bảo châu, Mạc châu, quân Uy Lỗ ở Khả Lam, trại Bắc Bình đều báo tin đánh bại quân Khiết Đan, quần thần chúc mừng. Trong trận này, Trương Ngưng và Điền Mẫn đều dẫn quân phụ đến phía nam Dịch châu, bắt được người, gia súc, khí giới tổng cộng hàng vạn, chỉ có Ngụy Năng do dự không lập được công. (Theo truyện của Ngưng, Mẫn ghi chép thêm. 《Thực lục》 đến ngày Tân Mão tháng 12 mới chép số lượng bắt được của Ngưng, nay gộp vào đây).

Hôm đó, mở yến tiệc ở điện Sùng Đức, không cử nhạc. Theo lệ cũ, các khanh, giám ngồi ở dãy đông, không lên điện. Lúc đó, Quang lộc khanh Trần Tỉnh Hoa đang quyền tri Khai Phong phủ, được đặc cách ngồi ở phía nam hàng ngũ phẩm của hai tỉnh, bố trí chỗ ngồi riêng.

[38] Trước đó, Vương Kế Trung nhận được chiếu chỉ của Vua, liền dâng tấu kèm theo thư của Thạch Phổ để tâu lên, nói rằng quân Khiết Đan đã dẫn quân bao vây đánh châu Doanh, vì đất Quan Nam vốn là lãnh thổ cũ của họ, e rằng khó giữ vững, xin sớm cử sứ giả đi nghị hòa. Ngày Bính Ngọ, Vua xem tấu chương, nói với các quan phụ tá: “Châu Doanh vốn có phòng bị, không phải lo lắng. Muốn cử sứ giả trước cũng không có hại gì.” Bèn ban chiếu chỉ cho Kế Trung, đồng ý việc này. Triệu mộ quân sĩ Thần Dũng là Lý Bân cầm tín tiễn đến trại địch, đồng thời lệnh cho Viện Xu mật chọn người có thể đi sứ Khiết Đan. Vương Kế Anh tâu rằng Điện trực Tào Lợi Dụng tự xin, nếu được phụng mệnh Vua thì dù chết cũng không tránh. Vua nói: “Khiết Đan trước đã bày tỏ thành ý, cầu kết hòa hảo, cử sứ giả trong lúc binh đao cũng không có gì khác. Nhưng kẻ tiểu thần nghe mệnh xin đi, đáng khen ngợi.” Bèn phong Lợi Dụng làm Các môn Chi hậu, tạm thụ chức Sùng nghi phó sứ, mang thư của chúa Khiết Đan đi, lại ban chiếu chỉ cho Kế Trung. Lợi Dụng là con của Gián, người châu Triệu.

(Bản truyện của Lợi Dụng chép rằng Chân Tông đến Thiền Châu, Lợi Dụng tâu việc ở hành tại, Vương Kế Anh tiến cử. Xét lần đầu cử Lợi Dụng[3], xa giá chưa rời kinh sư, bản truyện nhầm, coi lần cử sau là lần đầu.)

[39] Ngày Đinh Mùi, quần thần ba lần dâng biểu xin tấu nhạc, không được chấp thuận.

[40] Phong Ung vương Nguyên Phần làm Lưu thủ Đông Kinh. Nguyên Phần cố từ chối, không được, lại được chọn thêm nhiều tân khách phụ tá, mỗi tháng tăng thêm ba trăm vạn tiền, các vật khác tương ứng.

[41] Phó sứ Diêm thiết Lâm Đặc và Phó sứ Hộ bộ Thôi Đoan cùng làm Phán lưu ty Tam ty. Đặc xin theo lệ năm Hàm Bình thứ hai của Ngụy Vũ, không ghi vào điệp thiếp. Vua nói: “Ngụy Vũ kiêm quyền Tri Khai Phong, nên không ghi vào điệp thiếp. Nay hai người cùng quản, không cần theo lệ này.”

[42] Ngày Mậu Thân, phong Xu mật trực học sĩ, quyền Tam ty sứ Lưu Sư Đạo làm Tùy giá Tam ty sứ kiêm Đô chuyển vận sứ.

[43] Ngày Kỷ Dậu, lần đầu đặt chức Long đồ các Đãi chế, phong Đô quan lang trung, Trực bí các Đỗ Hạo và Hữu chánh ngôn, Bí các hiệu lí Thích Luân làm chức này.

[44] Lấy Lý Trọng Quý, Phòng ngự sứ châu Vệ[4] làm Đại nội đô bố trí.

[45] Ban đầu, quân Khiết Đan từ châu Định dẫn quân đóng ở phía đông Dương Thành Điện, rồi men theo sông Hồ Lô vượt qua cửa ải phía nam. Tháng đó, ngày Bính Tuất, tiến đến dưới thành châu Doanh. Thế lực rất mạnh, ngày đêm tấn công thành, tiếng trống và tiếng đốn cây vang khắp bốn phía. Họ bày nhiều công cụ tấn công, bắt người Hề vác ván cầm đuốc, leo lên tường thành. Tri châu, Tả tàng khố sứ Tây Kinh Lý Diên Ác chỉ huy quân châu và dân tráng, lại tập hợp quân của Tuần kiểm sứ châu Bối Ký Sử Phổ để cố thủ, bắn đá và gỗ lớn ra, quân địch rơi xuống liên tục. Hơn mười ngày sau, giết và làm bị thương nhiều quân địch[5]. Chúa Khiết Đan và mẹ ông ta đích thân thúc quân tấn công gấp, tên bắn lên thành như mưa, quân chết hơn ba vạn người[6], số bị thương gấp đôi, nhưng cuối cùng không thể hạ được thành, bèn rút lui. Quân triều thu được hàng trăm vạn áo giáp, tên và khiên, gửi thư báo tin về.

Tháng 11, ngày Tân Hợi mùng một, ban thưởng cho Diên Ác cùng các tướng sĩ áo gấm, đai vàng, tiền tùy theo thứ bậc. Lại đặc cách thăng Diên Ác làm Đoàn luyện sứ bản châu, Thông phán Mục Nguyên Khải, Suy quan Lý Tường, Lục sự tham quân Thái Hanh, Binh mã giám áp Vương Hối và Sử Phổ đều được thăng chức. Sử Phổ ban đầu từ Bối, Ký đến cứu viện Doanh châu, đường không thông, nghe tin Doanh châu đã thất thủ, Sử Phổ cũng bỏ trốn. Vua triệu Nội điện sùng ban, Đái ngự khí giới Vương Ứng Xương hỏi, đáp rằng: “Chúng dùng quân nhẹ đánh sâu, nghe quân triều đình đến cứu viện, tất nhiên phải rút lui. Sử Phổ không có lý do gì lại phản bội.” Quả nhiên sau đó đúng như vậy. Diên Ác là con của Tiến Khanh. Ứng Xương là người Đông Minh.

(Sử Phổ, Mục Nguyên Khải, Lý Tường, Thái Hanh, Vương Hối, chưa rõ quê quán.)

[46] Ngày Quý Sửu, Thạch châu xảy ra động đất.

[47] Chiếu chỉ cho quân sĩ đào ngũ ở Thiền châu, trong vòng hai tháng phải tự thú sẽ được tha tội, vẫn cho nhập ngạch như cũ.

[48] Ngày Ất Mão, sai Hộ bộ phán quan Hác Thái Xung đến Hình, Minh, Từ, Tương, Thiền, Hoạt, Hoài, Vệ, Hà Dương, Thông Lợi quân để an phủ.

[49] Bắc diện bộ thự tấu: “Khiết Đan từ Doanh châu rút lui, quân số vẫn còn hai mươi vạn. Dò biết được âm mưu của chúng, định nhân lúc ta sơ hở đánh vào Bối, Ký, Thiên Hùng quân.” Chiếu chỉ đốc thúc các lộ quân và quân đồn trú ở Thiền châu hội quân tại Thiên Hùng quân.

[50] Từ khi Khiết Đan xâm lược, Hà Sóc đều phòng thủ trong thành. Hữu tán thiện đại phu Vương Tự làm Tri châu Ký châu, thường có chí phá địch, ngày ngày duyệt binh, lại tập hợp trai tráng luyện tập, mở cửa thành đốn củi như ngày thường. Thường dâng sớ nói: “Giặc nếu đến, tất có thể đánh bại, xin đừng lo lắng cho một quận.” Khi quân Khiết Đan đến gần thành, Vương Tự đánh đuổi chúng, được chiếu khen thưởng.

(Vương Tự, chưa rõ lai lịch.)

[51] Điều quân ở Hãn, Đại châu đến các lộ hội hợp.

[52] Ngày Đinh Tỵ, chiếu chỉ cho Đức Thanh quân, nếu giặc phương Bắc nam tiến, không cần cố thủ, dẫn quân dân trong thành đến Thiền châu, lại lệnh cho Giá tiền bài trận sứ chia quân ứng tiếp. Vì quân này ở giữa Thiền châu và Ngụy châu, vốn không tu bổ, quân đồn trú ít ỏi.

[53] Ngày Mậu Ngọ, Vua hạ chiếu rằng các xe ngựa thuê của quan lại ở kinh kỳ đều phải ghi chép số lượng, mỗi xe được ban một nghìn tiền, vì trời lạnh có tuyết.

[54] Ngày Kỷ Mùi, sai Đô quan viên ngoại lang Khổng Quỹ đi an ủy các châu ở Hà Đông.

[55] Ngày Canh Thân, Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Nghe nói giặc đóng quân dọc sông, xâm phạm quấy nhiễu Bối Châu, Ký Châu, dòm ngó Thâm Châu, đều không thuận lợi mà rút lui, vì các nơi đó đều có phòng bị. Duy chỉ có quân Thông Lợi vốn không có thành lũy, binh giáp, nếu giặc tiến dần về phía nam, đại quân của Vương Siêu chưa đến, thì Hình Châu, Minh Châu sẽ đáng lo, nên chia quân tăng cường phòng bị.”

[56] Hơn trăm sĩ nhân bị đánh trượt ở Khai Phong phủ đánh trống Đăng Văn, tự trình bày rằng vốn quen võ nghệ, nguyện xin được phục vụ trước quân ngũ. Vua ngự ở điện Tiện Điện triệu đến thử, chỉ có ba người có thể kéo cung, mỗi người được ban tiền, lệnh đến Thiên Hùng làm chỉ sử.

[57] Ngày Tân Dậu, lệnh cho quân hộ giá từ ngày mai lần lượt lên đường đến Thiền Châu.

[58] Ngày Nhâm Tuất, hạ chiếu cho các lộ phía bắc, nếu có người tài dũng, có thể vào doanh trại giặc đốt trại chém đầu, thì báo tên lên, sẽ được ban thưởng đặc biệt.

[59] Hạ chiếu cho các châu quân vùng biên giới, nếu có người Khiết Đan, Bột Hải đến đầu hàng, lập tức cấp lương thực, sai người bảo vệ, đợi giặc rút lui rồi báo lên. Vì lo họ gian trá, các nơi không thể phân biệt được.

[60] Trước đó, Chu Oánh triệu tập 1.500 kỵ sĩ ở Minh Châu đến Thiên Hùng, trên đường gặp giặc, đánh nhau kịch liệt, có người chết và bị thương. Oánh cho rằng họ khinh địch, định giết hết. Gặp lúc sứ giả từ phương bắc đến báo việc ấy, Vua hạ chiếu ban vải lụa, rượu thuốc, dụ Oánh không trị tội họ.

[61] Ngày Giáp Tý, Vua đi săn ở vùng ngoại ô, đến thôn Đinh Cương, thấy nhà dân có tường đổ nát, nhà cửa thấp hèn, bèn đến thăm, đó là hộ thuế của Kiều Khiêm. Vua triệu gia đình họ, ban một vạn tiền, ba mươi bộ quần áo, miễn thuế dung điều ba năm.

[62] Ngày Ất Sửu, hạ chiếu cho các quan lại ở lại, nếu sau khi xa giá rời kinh thành, có kẻ vô lại gây rối nhân dân, tình lý khó tha, đều chém rồi báo lên.

[63] Ban bố các việc do thám về giặc cho các tướng xem.

[64] Chiếu cho các huyện ở kinh kỳ điều phát quân mã, các châu ở phía đông và tây kinh thành vận chuyển cỏ khô và lương thực, dân chúng năm nay được gia hạn nộp thuế mùa thu thêm một tháng.

[65] Chiếu cho những người đánh trống Đăng Văn, ngăn xa giá, các cử nhân và các hạng người ở Hà Bắc, xin đi theo hộ giá và xung phong làm việc, lệnh cho ty Quân đầu xét tài năng và dũng cảm, dẫn vào yết kiến xong, đưa đến các nơi để chỉ huy.

[66] Ngày Bính Dần, sai Đô quan viên ngoại lang Vương Lệ, Bí thư thừa Hứa Động, Điện trung thừa Hoàng Phủ Tuyển, Đại Lý tự thừa Lý Vị, đến châu Thiền để an định dân lưu vong ở Hà Bắc.

[67] Ngày Đinh Mão, chiếu cho các quân sĩ đào ngũ trước ngày hôm nay, đều được phép tự thú để được tha tội, vẫn ghi vào sổ quân, những người ở ngoài được thưởng thêm tiền trang bị.

[68] Ngày Mậu Thìn, lấy Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Lý Kế Long làm Giá tiền Đông diện bài trận sứ, Mã quân đô chỉ huy sứ Cát Bá làm phó, Tây thượng các môn sứ Tôn Toàn Chiếu làm Đô kiềm hạt, Nam tác phường sứ Trương Mân làm Kiềm hạt. Vũ Ninh tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Thạch Bảo Cát làm Giá tiền Tây diện bài trận sứ, Bộ quân đô ngu hậu Vương Ẩn làm phó, Nhập nội phó đô tri Tần Hàn làm Kiềm hạt.

[69] Vương Kế Trung đánh nhau với quân địch ở Vọng Đô, Trương Mân làm Kiềm hạt hành dinh ở Định Châu, dẫn các tướng đi theo đường tắt đến cứu viện. Khi đến nơi, thành đã bị hạ, Trương Mân giao chiến với quân địch, bị nhiều vết thương, giết được một tướng kiêu căng của địch. Đến sáng, lại giao chiến, nhưng Vương Kế Trung bị quân Khiết Đan bắt giữ. Trương Mân trở về, tâu rằng thiên thời đang thuận lợi cho quân khách, ai khởi binh trước sẽ thắng, nên đại cử binh Bắc phạt, và dâng lên ngày xuất quân ra khỏi biên giới. Vua hỏi ý các quan phụ tá, đều nói không nên, nên dừng lại. Lúc đó, Vua chuẩn bị thân chinh, Trương Mân đang trấn thủ ở Tịnh Đại, lại dâng tấu hơn mười việc biên cương, phần nhiều bàn về việc quân nên thận trọng và cách để giành thắng lợi. Vua triệu về, vào chầu, Vua nói: “Quân Khiết Đan vào cướp, đúng vào ngày khanh xin Bắc phạt, ta hối hận vì không nghe theo kế của khanh. Nay cần phải giữ Thiền Châu, chặn cầu nhưng chưa có người, làm thế nào?” Trương Mân xin đi, Vua mừng, nên phong làm Kiềm hạt mặt đông[7], trước hết lệnh đến Thiền Châu dò xét địch xa gần, Trương Mân lập tức phi ngựa đi. Tần Hán vừa nhận mệnh, gấp rút đốc thúc quân sĩ đào hào quanh thành để ngăn quân địch, công việc xong, quân địch quả nhiên ập đến, Tần Hán không cởi giáp trụ suốt hơn bảy mươi ngày.

[70] Ngày Kỷ Tỵ, điều động tám chỉ huy Long Vệ, Vân Kị đóng ở Vĩnh Hưng đến hành tại.

[71] Ngày Canh Ngọ, chiếu cho các châu quân dọc sông thuộc Kinh Đông, Kinh Tây lộ gia hạn thu thuế thêm hai tháng.

(Thực lục lại ghi vào ngày Nhâm Ngọ tháng mười hai, sợ trùng lặp, nay chỉ giữ lại một.)

[72] Hôm đó, Vua đi tuần thú phương Bắc, quan Thiên văn tâu rằng mặt trời có quầng sáng, khí vàng tràn đầy, nên không đánh mà lui, có tượng hòa giải.

[73] Tào Lợi Dụng đến Thiên Hùng, Tôn Toàn Chiếu nghi ngờ Khiết Đan không thành thật, khuyên Vương Khâm Nhược giữ lại. Khiết Đan đã nhiều lần thất bại, lại sai Vương Kế Trung dâng tấu xin hòa hảo, và nói rằng quân Bắc triều đóng quân, không dám cướp bóc, để đợi sứ giả triều đình. Kế Trung lại viết thư cho Cát Bá, bảo phải nhanh chóng chuyển tấu chương. Tối hôm đó, tấu chương dâng lên, Vua bèn ban chiếu thư cho Kế Trung, nói đã sai Lợi Dụng đi; lại ban chiếu thư thúc giục Lợi Dụng lên đường, và giao cho Kế Trung thông báo với Khiết Đan, sai người đến Thiên Hùng đón tiếp. Kế Trung nghe tin Lợi Dụng bị giữ lại Thiên Hùng không đi, lại dâng tấu, xin từ Thiền Châu cử sứ giả khác đến Bắc triều, để tránh chậm trễ. Ngày Tân Mùi, xa giá đến huyện Trường Viên, nhận được tấu chương, bèn trả lời theo ý trước.

[74] Ngày Nhâm Thân, đến huyện Vi Thành. Vua hạ chiếu cho Trương Bỉnh, tri châu Hoạt, Mã Ứng Xương, tri châu Tề, và Trương Thịnh, tri châu Bộc (chưa thấy), đi lại trên sông, chỉ huy dân phu đục băng, để phòng ngựa giặc vượt qua.

[75] Thiên Hùng quân nghe tin giặc sắp đến, cả thành đều hoảng hốt. Vương Khâm Nhược bàn với các tướng rút thăm phân chia giữ các cửa thành. Tôn Toàn Chiếu nói: “Toàn Chiếu là con nhà tướng, xin không rút thăm. Các tướng tự chọn chỗ thuận tiện, nếu không ai nhận giữ cửa nào, Toàn Chiếu xin nhận giữ cửa đó.” Sau đó không ai chịu giữ cửa Bắc, nên giao cho Toàn Chiếu. Khâm Nhược cũng tự nhận giữ cửa Nam. Toàn Chiếu nói: “Không được. Tham chính là chủ soái, nơi xuất phát hiệu lệnh, quyết định mưu lược, hai cửa Nam Bắc cách nhau hai mươi dặm, nếu chờ báo cáo lại sẽ mất cơ hội, chi bằng ở giữa phủ thự, bảo vệ trung tâm, chỉ huy bốn phía thì tốt hơn.” Khâm Nhược nghe theo.

Toàn Chiếu vốn huấn luyện cung thủ không phân biệt địa phận, đều cầm nỏ sơn đỏ, bắn xuyên ngựa người, xuyên thủng cả áo giáp nặng, theo sự chỉ huy, ứng biến linh hoạt. Bèn mở toang cửa Bắc, hạ cầu treo để đợi giặc. Giặc vốn sợ danh tiếng của ông, không dám đến gần cửa Bắc, bèn vòng qua đánh cửa Đông. Một lúc lâu, bỏ cửa Đông tiến về thành cũ. (Thành cũ, chưa rõ địa điểm, cần tra cứu.) Đêm đó, giặc lại từ thành cũ lén qua phía nam thành, đặt phục binh ở đền Địch Tướng, rồi đánh về phía nam quân Đức Thanh. Khâm Nhược nghe tin, sai tướng dẫn quân tinh nhuệ đuổi đánh, phục binh nổi dậy chặn đường rút lui, quân Thiên Hùng không thể tiến thoái. Toàn Chiếu thỉnh cầu Khâm Nhược: “Nếu mất quân này, là mất Thiên Hùng. Cửa Bắc không cần giữ, Toàn Chiếu xin đi cứu.” Bèn dẫn quân dưới trướng ra cửa Nam giao chiến ác liệt, giết gần hết phục binh, quân Thiên Hùng được rút về, còn lại ba bốn phần mười. Giặc bèn hãm được Đức Thanh, Tri quân, Thượng thực sứ Trương Đán cùng con là Tam ban tá chức Lợi Thiệp, Hổ Dực đô ngu hậu Hồ Phúc và mười bốn người khác đều tử trận.

[76] Trước đó, Vua ban chiếu cho Vương Siêu và các tướng dẫn quân đến chỗ Vua đóng, nhưng hơn một tháng vẫn chưa đến. Giặc càng lấn sâu về phía nam, Vua đóng quân ở thành Vi, các quan lại có người khuyên Vua nên tạm lánh nơi khác để tránh thế mạnh của giặc. Vua hơi dao động, bèn triệu Khấu Chuẩn vào hỏi. Khi Chuẩn sắp vào, nghe người hầu trong cung nói với Vua: “Các quan muốn đưa bệ hạ đi đâu? Sao không mau về kinh sư!” Chuẩn vào chầu, Vua hỏi: “Đi về phía nam thế nào?” Chuẩn đáp: “Các quan nhút nhát ngu muội, chẳng khác gì lời của bà già thôn quê. Nay giặc đã áp sát, bốn phương lo sợ, bệ hạ chỉ có thể tiến từng tấc, không thể lùi một phân. Quân sĩ Hà Bắc ngày đêm mong xa giá đến, sĩ khí sẽ tăng gấp trăm lần. Nếu xa giá lùi vài bước, thì quân sĩ sẽ tan rã, giặc thừa cơ đánh tới, đến Kim Lăng cũng không thể đến được.” Vua vẫn chưa quyết.

Chuẩn ra, gặp Điện tiền đô chỉ huy sứ Cao Quỳnh ở cửa, bèn nói: “Thái úy được nước ơn sâu, hôm nay có gì để báo đáp không?” Quỳnh đáp: “Quỳnh là võ tướng, thật lòng nguyện hiến thân.” Chuẩn lại vào chầu, Quỳnh theo vào, đứng dưới sân. Chuẩn nói: “Bệ hạ không tin lời thần, sao không thử hỏi Quỳnh?” Rồi trình bày lại ý kiến trước, lời lẽ khảng khái. Quỳnh ngẩng đầu tâu: “Khấu Chuẩn nói đúng.” Và nói thêm: “Cha mẹ vợ con của quân sĩ hộ giá đều ở kinh sư, họ chắc chắn không chịu bỏ mà đi về phía nam, giữa đường sẽ bỏ trốn. Xin bệ hạ gấp đến Thiền Châu, thần nguyện hi sinh, giặc không khó đánh bại.” Chuẩn lại nói: “Cơ hội không thể bỏ lỡ, nên gấp rút lên đường.” Lúc đó, Vương Ứng Xương mang khí giới hộ giá đứng bên, Vua nhìn ông, Ứng Xương nói: “Bệ hạ phụng mệnh trời đánh giặc, đi đâu cũng thắng, nếu chần chừ không tiến, e rằng thế giặc càng mạnh. Hoặc tạm đóng quân ở Hà Nam, ban chiếu thúc Vương Siêu tiến quân, giặc sẽ tự lui.” Vua bèn quyết định.

[77] Ngày Giáp Tuất, buổi sáng khởi hành, tả hữu thấy trời rất lạnh, dâng áo lông chồn và mũ bông, Vua từ chối, nói: “Bề tôi phơi mình trong giá lạnh khổ cực, Trẫm sao có thể yên lòng dùng những thứ này?” Buổi tối dừng chân ở huyện Vệ Nam, sai Hàn lâm thị độc học sĩ Phan Cẩn Tu đi trước đến châu Thiền, hạ chiếu cho tướng súy trại phía bắc châu Thiền và tri châu không được tự ý rời khỏi nơi đóng quân để đón xa giá.

(Sách 《Ký văn》 chép: Vương Khâm Nhược và Trần Nghiêu Tẩu dâng mật tấu bàn kế đến Kim Lăng. Xét rằng lúc đó Khâm Nhược đã ở Thiên Hùng[8], chắc chắn không có tấu này. Nghiêu Tẩu vốn bàn nên đến Thục, nhưng Vua đã đi về phía bắc, nên Nghiêu Tẩu cũng không dám nói lại, mà đổi ý. Đây hẳn là do có quần thần nhút nhát khác xin đến phương nam, tình cờ trùng với kế trước của Khâm Nhược, nên bị nhầm là Khâm Nhược dâng mật tấu. Khấu Chuẩn trước đó đã bác bỏ hai kế sách ở triều, nói rằng không thể xa đến Sở, Thục, lần này chỉ nói Kim Lăng không thể đến, nên cũng không nhắc đến Thục. Các sách khác chép lời Chuẩn nhiều chỗ sai lầm, vì không biết rằng Chuẩn trước bàn ở triều, sau bàn ở Vi Thành[9], tổng cộng hai lần, nên thường gộp lại nói rằng khi Vua đến Thiền Uyên, vì thế đa phần không đáng tin. Nay lược lấy những gì 《Ký văn》 chép, sửa chữa và làm rõ thêm.)

[78] Vua ban chiếu cho Vương Kế Trung, cho phép cử sứ giả, Kế Trung lại dâng tấu phụ theo Thạch Phổ để trình lên. Phổ từ Bối Châu sai Chỉ huy sứ, Tán trực Trương Hạo mang chiếu đến hành cung, đi qua trại địch, bị bắt. Chúa Khiết Đan và mẹ ông ta dẫn Hạo đến trước xe trướng, hỏi han lâu, rồi sai đến Thiên Hùng, mang chiếu thúc giục Tào Lợi Dụng. Vương Khâm Nhược nghi ngờ không dám cử, Hạo một mình trở về. Chúa Khiết Đan và mẹ ông ta ban cho Hạo áo bào, đai lưng, tiếp đãi trọng hậu, sai Kế Trung dâng tấu, xin từ Thiền Châu cử sứ giả khác để nhanh chóng bàn việc hòa hiếu. Hạo mang tấu vào, Vua lại ban chiếu cho Khâm Nhược, sai Tham tri chính sự Vương Đán viết thư tay cho Khâm Nhược, bảo Hạo mang đến Thiên Hùng, đốc thúc Lợi Dụng cùng đi về phía bắc, và ban chiếu dụ Kế Trung.

Vua bảo các phụ thần: “Họ tuy có thiện ý, nhưng quốc gia lấy việc an dân ngừng chiến làm trọng, nên đã đồng ý. Tuy nhiên, họ vẫn dẫn quân sâu vào đất ta, lại thêm sông đóng băng, ngựa giặc có thể vượt qua, cũng nên đề phòng cẩn thận. Trẫm đã quyết định kế hoạch, thân chinh chỉ huy toàn quân[10]. Nếu khi ký kết minh ước, họ còn đòi hỏi thêm, sẽ quyết một trận, tiêu diệt giặc này. Trời cao linh thiêng, chắc chắn sẽ giúp thuận. Có thể lại đốc thúc các tướng soái, chỉnh đốn quân ngũ, tùy nghi hành sự.”

Hạo là người Thiền Châu. (Thẩm Quát trong 《Bút đàm》 nói rằng quốc sử chép việc giảng hòa, đầu đuôi không rõ, nên ghi chép việc Trương Hạo đi lại và báo mưu giặc cho Kế Long, thực lục có chép, xem năm Cảnh Đức thứ hai, tháng giêng, ngày Giáp Tuất. Chỗ nói Thiên Hùng bị vây, không biết Tào Lợi Dụng ở đâu, tuyển cử Hạo và triệu con Hạo, thì e rằng không đúng. Hạo là người Thạch Phổ từ Bối Châu cử đi, bị giặc bắt, mới gặp Vua, Vua nhân đó sai đến Thiên Hùng, đốc thúc Lợi Dụng cùng đi[11]. Con ông ta đang ở Bối Châu, hoặc nơi khác, sao có thể theo Hạo ở Vệ Nam được? Quát lại nói hòa nghị định xong, mới đổi niên hiệu Cảnh Đức. Đây là do sai lầm trong bút lục của Vương Tăng. Đổi niên hiệu đã sai, chỗ khác nói tháng tư năm Hàm Bình thứ sáu, Thạch Phổ nhận được thư của Kế Trung, cũng không đáng tin. Nay đều không lấy. Quát lại viết mộ chí cho con Hạo, chép việc Hạo rất chi tiết, lại nói rằng tra cứu quốc sử mà tin, thực ra là lời tô vẽ. Dù như Quát chép, Hạo thực sự do Vua cử đi, thì lúc đó Vua đã đến quân, Khiết Đan đã tiến sâu vào Thiền, Ngụy. Hạo chỉ nên đến chỗ giặc đóng quân, lại nói “Thần không mang vật chất trở về, chết cũng không vào Bạch Câu[12], càng thấy chép đều không đúng. Quát là cháu rể của Hạo, trực tiếp lấy lời cha vợ, lại thêm tô vẽ, để khoe khoang với đời, không thể tin được.)

[79] Khiết Đan đã chiếm được Đức Thanh, hôm đó, dẫn quân đến phía bắc Thiền Châu, trực tiếp tấn công đại trận, bao vây ba mặt, kỵ binh nhẹ từ góc tây bắc xông vào. Lý Kế Long và các tướng chỉnh đốn quân ngũ thành hàng để chống cự, bố trí cung nỏ mạnh mai phục, khống chế các vị trí then chốt. Thống quân Thuận Quốc vương Thát Lãm có mưu lược và dũng cảm, quân lính dưới quyền đều là tinh nhuệ, đang làm tiên phong, cầm cờ hiệu riêng, thân chinh ra trận đốc chiến. Đầu quân Uy Hổ là Trương Côi giữ cung nỏ sàng tử, cung nỏ bắn trúng trán Thát Lãm, ông ta ngã xuống, bộ hạ vài chục người tranh nhau khiêng xác về trại[13]. Đêm đó, Thát Lãm chết. Quân địch đại bại, rút lui không dám động, chỉ thỉnh thoảng phái kỵ binh nhẹ đến do thám quân châu. Trương Côi là người Thọ Quang.

(Thát Lãm chết lúc Vua chưa đến Thiền Châu. Sách truyện Khấu Chuẩn của Lưu Ban và các sách khác đều sai, nay không theo.)

[80] Ngày Ất Hợi, trong cung đưa ra hai bản đồ trận, một bản hành quân, một bản dừng lại, giao cho Điện tiền đô chỉ huy sứ Cao Quỳnh và các tướng. Cấp phát giáp trụ cho các quân, và ban tiền lụa có mức độ khác nhau.

[81] Ngày Bính Tý, xa giá từ Vệ Nam xuất phát, Lý Kế Long và các tướng sai người báo tin thắng trận[14], lại tâu rằng cửa thành phía bắc Thiền Châu chật hẹp, xin tạm đóng quân ở thành phía nam. Hôm đó, xa giá dừng ở thành phía nam, lấy nhà dịch làm hành cung, định ở lại đó. Khấu Chuẩn khẩn thiết xin Vua đến thành phía bắc, nói: “Bệ hạ nếu không qua sông, thì lòng người lo sợ, khí thế địch chưa bị khuất phục, không phải là cách để lấy uy quyết thắng. Các trấn tứ phương đang ngày đêm kéo quân đến cứu viện, còn do dự gì mà không đi?” Cao Quỳnh cũng khẩn thiết xin[15], lại nói: “Bệ hạ nếu không đến thành phía bắc, trăm họ sẽ như mất cha mẹ.”

Thiêm thư Xu mật viện sự Phùng Chửng đứng bên quát mắng, Quỳnh tức giận nói: “Ông nhờ văn chương mà lên đến chức vị hai phủ, nay quân địch kỵ binh đông đúc như thế, còn trách ta vô lễ, sao ông không làm một bài thơ để đuổi quân địch đi?” Liền hô vệ sĩ đẩy xe, Vua bèn đến thành phía bắc. Đến cầu phao, xe vẫn dừng chưa tiến, Quỳnh liền cầm roi đánh vào lưng người đẩy xe[16] nói: “Sao không đi nhanh lên! Đã đến đây rồi, còn do dự gì nữa?” Vua bèn ra lệnh đẩy xe tiến lên. Đến nơi, lên lầu cửa thành phía bắc, treo cờ rồng vàng, các quân đều hô vạn tuế, tiếng vang xa mười dặm, khí thế tăng gấp trăm lần, quân địch nhìn nhau càng thêm kinh hãi. Vua xem xét doanh trại, triệu kiến Lý Kế Long và các tướng dưới quyền, an ủi hồi lâu, ban rượu thịt và tiền cho các quân sĩ.

[82] Ngày Mậu Dần, dời ngự đến hành dinh ở thành phía bắc.

(Ngày 26 đã qua sông đến thành phía bắc, đáng lẽ phải ở lại đó. Ngày 28 mới bắt đầu dời ngự đến hành dinh ở thành phía bắc, không rõ vì sao? Hay là ngày 26 lại trở về nghỉ ở phía nam thành? Cần xem xét thêm.)

[83] Tào Lợi Dụng từ Thiên Hùng đến trại Khiết Đan, gặp quốc chủ, quần thần cùng tể tướng Hàn Đức Nhượng ngồi chung một xe, quần thần và quốc chủ ngồi riêng ở hai hàng, lễ nghi rất đơn giản. Dùng gỗ đặt ngang trên xe, bày đồ ăn, mời Lợi Dụng ngồi dưới xe để dùng bữa. Cùng bàn việc hòa hiếu, nhưng chưa quyết định, bèn sai Tả Phi Long sứ Hàn Kỷ mang thư của quốc chủ cùng Lợi Dụng trở về. Chiếu cho Tri châu Thiền, Dẫn tiến sứ Hà Thừa Củ ra ngoài thành đón tiếp, Hàn lâm học sĩ Triệu An Nhân làm người tiếp đón, mọi nghi thức yết kiến đều do An Nhân quyết định.

[84] Tháng 12, ngày Canh Thìn mùng một, Hàn Kỉ vào chầu ở điện trước hành cung, quỳ trao thư hàm cho các môn sứ, các môn sứ bưng lên điện, Phó đô tri Nội thị tỉnh Diêm Thừa Hàn nhận rồi mở niêm phong, tể tướng đọc xong, sai Hàn Kỉ lên điện[17], quỳ tâu rằng: “Quốc mẫu sai thần lên hỏi thăm hoàng đế.” Thư lại xin đất Quan Nam[18]. Vua bảo các phụ thần: “Trẫm vốn lo việc này, nay quả nhiên như vậy, biết làm sao đây?” Các phụ thần xin trả lời thư, nói: “Quan Nam từ lâu thuộc về triều đình[19], không thể bàn cãi, hoặc mỗi năm cấp vàng lụa, giúp quân phí, để giữ hòa hiếu, xin bệ hạ xét định.”

Vua nói: “Trẫm giữ cơ nghiệp tổ tông, không dám để mất. Việc đòi đất thật vô lý, nếu cứ đòi hỏi, Trẫm sẽ quyết chiến! Nhưng nghĩ đến dân chúng Hà Bắc, sợ phiền nhiễu, nếu mỗi năm lấy vàng lụa giúp họ chỗ thiếu, thể chế triều đình cũng không hại gì. Trả lời thư không cần nói rõ, chỉ sai Tào Lợi Dụng cùng Hàn Kỉ khẩu truyền việc này là được.” Triệu An Nhân duy nhất nhớ thể thức quốc thư thời Thái Tổ, bèn sai soạn thư trả lời. Ban cho Hàn Kỉ áo mặc, đai vàng, ngựa đẹp, đồ dùng. Hàn Kỉ hôm ấy vào từ biệt, bèn cùng Lợi Dụng đi. Hàn Kỉ đã nhận áo ban[20], đến khi từ biệt, lại mặc áo cũ, lấy cớ áo ban hơi dài. Triệu An Nhân nói: “Ông sắp lên điện nhận thư trả lời, mặt trời chỉ cách gang tấc, không mặc áo ban, được sao?” Hàn Kỉ liền thay áo vào. Vua lại dặn riêng Lợi Dụng đất nhất định không thể cho, nếu đòi của cải thì nên thuận. Lợi Dụng tâu: “Thần từng đi sứ, biết tiếng Khiết Đan. Lại nghe trộm Hàn Kỉ, nghe hắn nói với tả hữu: ‘Các ngươi thấy quân trại phía bắc Thiền Châu chưa? Quân mạnh khí tốt, khác hẳn lời đồn. Ôi, đáng sợ thay!’. Thần đi lần này sẽ xem xét kỹ, nếu họ đòi hỏi vô lý, xin hội quân đánh dẹp.”

[85] Hạ lệnh cho Phán quan Hộ bộ, Viên ngoại lang Lý Hàm Chương từ Thiền châu đến kinh đô để kiểm tra việc chuẩn bị tiếp đón.

[86] An phủ sứ các châu Vận, Tề là Đinh Vị tâu rằng: “Bắt được gián điệp của Khiết Đan là Mã Châu Lặc Cách, liền chém ngay. Khi tra hỏi, hắn khai rằng đồng bọn rất đông. Nay xin ghi rõ hình dáng, tuổi tác của chúng, xin hạ lệnh cho các lộ truy bắt.” Vua đồng ý.

[87] Hôm đó, có nhật thực.

[88] Các châu Đức, Bác đều tâu rằng quân Khiết Đan đã dời doanh trại đi về phía đông bắc.

(Tấn công nói: Năm Cảnh Đức, Khiết Đan xâm lược Thiền Uyên, quân địch ở phía bắc sông, xa giá ở phía nam sông, khi hai bên đối trận[21], bỗng nhiên mặt trời bị che khuất hoàn toàn, Chân Tông thấy vậy lo sợ. Quan Ty thiên giám tâu rằng: Theo sách 《Tinh kinh》 nói rằng điềm này chủ về “hai quân hòa giải”[22]. Chân Tông không tin, lại tra sách 《Tấn thư》 phần 《Thiên văn chí》, cũng nói là “hòa giải”. Một lúc sau[23], quân Khiết Đan quả nhiên tự rút lui, sau đó gửi thư đến, xin thông hiếu. Lúc đó Tấn công làm Tử vi Xá nhân, coi châu Vận. Việc này thấy trong sách 《Phan Nhữ Sĩ Tấn công đàm lục》. Xét rằng ngày hôm đó sứ giả của địch là Hàn Kỷ đã vào chầu ở hành dinh rồi, sách 《Đàm lục》 chép sai, nay không theo.)

[89] Ngày Tân Tỵ, sai Điện trung Thị ngự sử Lưu Ích, Điện trung Thừa Hoàng Phủ Tuyển đến các châu Bộc, Thanh, Truy, Tề, Duy để an ủi dân lưu tán ở Hà Bắc.

(Lưu Ích, người Tu Thành.)

[90] Hạ chiếu cho Tả Thần Vũ quân Đại tướng quân Vương Vinh, Ký ban Cung phụng quan Trịnh Hoài Đức dẫn quân Long Vệ, hội với Bộ thự châu Thương là Kinh Tự ở Thanh, Truy để phòng giặc vượt sông về phía nam.

[91] Hạ chiếu cho quân Vĩnh Hưng, trừ số đã điều động đến Hà Dương và số để lại ở bản châu, đều lệnh cho Bộ thự Hứa Quân dẫn đến hành tại.

[92] Ngày Nhâm Ngọ, Vua đến đình Lâm Hà ở phía nam thành, ban áo bông và tiền cho quân sĩ đào sông, số lượng khác nhau.

[93] Hạ chiếu cho các châu, quân ven sông ở Kinh Đông, Kinh Tây được gia hạn thu thuế mùa thu thêm hai tháng so với thời hạn thường lệ.

[94] Long Vệ tả đệ tứ quân đô ngu hậu Lý Kha cùng sáu người dưới quyền, được thăng chức quân vụ, ban thưởng áo gấm, đai bạc, vì có công chiến thắng ở trại phía bắc.

[95] Hà Thừa Củ tâu: “Dân huyện Lâm Hà, Quan Thành là Thạch Hưng cùng một số người từ trại địch trốn về, kể rằng Thát Lãm trúng tên chết[24]. Đêm đó, kỵ binh tuần tiễu từ Thiền Châu liên tiếp đến, giặc nghe tin xa giá khởi hành từ Vệ Nam, đều nhìn nhau biến sắc, lại có kỵ binh đi lại báo tin và đánh trống reo hò, rồi bỏ chạy hết. Dân bị bắt đi rất nhiều, không có người canh giữ, nên họ mới trốn thoát được.” Vua nói: “Thát Lãm là người cùng hạng với Vu Việt. Vu Việt vốn thích đánh trận ngoài đồng, rất khó đối phó. Thát Lãm mưu trí dũng cảm không kém, nhưng lại chú trọng phòng thủ thành trì, đó là lý do khiến hắn không bằng. Năm nay xâm phạm biên giới, đều do hắn chủ mưu. Nghe nói từ khi xâm lược đến nay, liên tiếp thất bại, nên hắn ra lệnh cho thuộc hạ, hễ bắt được đàn ông từ 15 tuổi trở lên đều giết hết. Nay hắn đã mất đi mưu sĩ, Trẫm thân chinh dẫn sáu quân, còn Vương Siêu cùng ba đạo quân lớn cũng hợp lực tiến về phía nam, chúng thua chạy là lẽ đương nhiên.”

[96] Châu Hoạt tâu rằng Khiết Đan dẫn quân đánh quân Thông Lợi, quan quân là Vương Cố bỏ thành chạy trốn ban đêm, Khiết Đan cướp bóc dân chúng trong thành rồi rút về phía đông. Vua hạ chiếu xét tội Vương Cố rồi tâu lên. Vương Cố đến Hà Dương, bị Triệu Xương Ngôn bắt trói, giải về kinh, giao cho ngục Ngự sử xét xử. Gặp lúc ân xá, bị giáng làm giám sát trường khai thác bạc, thiếc ở châu Hạ.

(Vương Cố, không rõ lai lịch.)

[97] Ngày Quý Mùi, Vua đến thăm trại phía bắc, rồi đến doanh trại của Lý Kế Long, sai tướng sĩ và quan tùy tùng uống rượu, ban thưởng cho các quân có sai biệt.

[98] Sai Cấp sự trung Lã Hữu Chi mang sắc thư và bảng cáo dụ hai kinh về việc sắp rút quân.

[99] Tào Lợi Dụng cùng Hàn Kỷ đến trại Khiết Đan, Khiết Đan lại đem việc đất Quan Nam ra nói, Lợi Dụng liền ngăn lại và nói: “Bắc triều đã khởi binh tìm kiếm minh ước, nếu mỗi năm mong nhận tiền bạc của Nam triều để giúp quân lữ, thì còn có thể bàn được.” Viên tiếp bạn Chính sự xá nhân là Cao Chính Thủy[25] vội nói: “Nay dẫn quân đến đây, vốn mưu tính đất Quan Nam, nếu không đạt được mục đích, thì người nước ta sẽ hổ thẹn lắm.” Lợi Dụng đáp: “Tôi vâng mệnh chuyên trách đối đáp, chỉ biết chết mà thôi. Nếu Bắc triều không nghĩ đến hậu quả, muốn gì đòi nấy, thì đất đai chắc chắn không thể được, chiến tranh cũng khó mà chấm dứt.” Quốc chủ và thái hậu Khiết Đan nghe vậy, ý định hơi nguôi, chỉ muốn mỗi năm lấy tiền bạc. Lợi Dụng đồng ý cấp 20 vạn xúc lụa, 10 vạn lạng bạc, việc nghị hòa bắt đầu định đoạt.

Khiết Đan lại sai Vương Kế Trung đến gặp Lợi Dụng, nói: “Nam Bắc thông hòa, thực là việc tốt. Quốc chủ còn trẻ, muốn coi Nam triều như anh[26].” Lại lo rằng Nam triều có thể ở biên giới khơi dòng sông, đào rộng hào lũy, có ý đồ khác. Nhân đó nhờ Lợi Dụng dâng mật tấu, xin lập thệ ước, và xin cử sứ thần cao cấp mang thệ thư đến đó.

[100] Ngày Giáp Thân, Tào Lợi Dụng cùng với Hữu Giám môn Vệ Đại tướng quân Diêu Giản Chi mang thư của quốc chủ trở về, đồng thời dâng lên áo ngự, thực phẩm. Việc đón tiếp và cung cấp lương thực đều theo nghi lễ như đối với Hàn Kỷ, sai Triệu An Nhân tiếp đón. Khi đàm luận, Giản Chi tỏ ra kiêu hãnh về việc binh mạnh chiến thắng. An Nhân nói: “Nghe nói ngài hiểu biết nhiều về lời xưa. Lão Tử nói: ‘Dùng binh giỏi là khí cụ không tốt, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến’. Thắng mà không cho là đẹp, mà cho là đẹp, đó là thích giết người. Kẻ thích giết người thì không thể đắc chí trong thiên hạ.” Từ đó, Giản Chi không dám bàn luận nữa. Giản Chi lại nhiều lần khen ngợi tài năng của Vương Kế Trung. An Nhân nói: “Kế Trung từng phục vụ sớm ở phủ phiên, nghe nói ông ấy khá cẩn thận, không biết gì khác.” An Nhân ứng đối nhanh nhẹn, đều hợp với thời cơ, người bàn luận đều khen ngợi ông biết cách xử sự.

[101] Ngày Ất Dậu, Giản Chi vào chầu ở hành cung, trung sứ nhận thư, trong thư vẫn nói rằng những điều Tào Lợi Dụng nói không phù hợp với nghị định trước của Vương Kế Trung. Tuy nhiên, Lợi Dụng vốn đã có thỏa thuận, tất cả đều ghi rõ trong tờ mật tấu của Kế Trung. Hôm đó, Vua ngự ở lầu phía nam hành cung, ngắm sông lớn, mở tiệc cho các quan tùy tùng, triệu Giản Chi đến dự.

[102] Ngày Bính Tuất, Giản Chi vào từ biệt, Vua sai Tây Kinh Tả Tàng Khố sứ, Thứ sử châu Tưởng là Lý Kế Xương giả làm Tả Vệ Đại tướng quân, cầm thư thề cùng Giản Chi đi báo đáp sứ mệnh. Số lượng vàng lụa như Lợi Dụng đã hứa, những thứ khác cũng theo như Kế Trung tâu. Trước đó, Vua nói với các quan phụ tá: “Hàn Kỷ và Giản Chi đến đều nói quốc mẫu gửi lời hỏi thăm, mà không nhắc đến chúa của họ. Điều này chứng tỏ mẹ chuyên quyền, người dân không sợ chúa. Trẫm hỏi Lợi Dụng, lời nói cũng giống, lại nghe nói chúa của họ không thông minh. Như vậy, việc Kế Xương đi cũng nên gửi thư cho mẹ họ. Có thể bí mật dùng ý này hỏi Giản Chi.” Sau đó, Lợi Dụng nói: “Giản Chi nói quốc mẫu muốn gửi thư, nhưng vì Nam triều chưa có đề thư nên tạm dừng. Nếu Nam triều cho phép gửi thư, rất thuận tiện.” Bèn gửi cả hai thư, lại gửi quần áo, trà thuốc, đồ vàng để đáp lại những gì Giản Chi dâng. Giản Chi lại nói: “Thu quân về bắc, sợ bị quân biên giới đánh úp.” Vua ra chiếu cho các lộ bố trí và các châu quân không được tự ý xuất binh đánh quân Khiết Đan về.

[103] Chiếu rằng: “Những xe dân kinh kỳ điều động trước đây chở cỏ khô và lương thực, đều cho chở đến châu Thiền rồi giải tán. Xe về kinh, các cơ quan lo liệu riêng.”

[104] Phái Tri chế cáo Trần Nghiêu Tư, Thị ngự sử tri tạp sự Lý Tuấn, Đô quan viên ngoại lang Vương Lệ, Bí thư thừa Hứa Động đi phủ dụ các châu Hoài, Mạnh, Trạch, Lộ, Hoạt, Trịnh, cho dân khỏe mạnh về làm ruộng.

(Tuấn là người Tín Đô.)

[105] Chiếu cho Kinh Tự vẫn đóng quân ở châu Vận, đều đề cử các châu Vận, Thanh, Truy, Duy, Tề, Tào, Đơn, Tế, Nghi, Duyễn, Mật, Bạc, Tống, Từ và quân Hoài Dương tuần kiểm.

[106] Ngày Đinh Hợi, sai Thị ngự sử Cao Di Khánh cùng bốn người khác đi các châu Hà Bắc, an ủi dân lưu tán, chôn cất hài cốt; bọn trộm cướp chưa bắt được thì đốc thúc bắt giữ.

[107] Dùng viên Điện trực, Cáp môn chi hậu là Tào Lợi Dụng làm Đông thượng Cáp môn sứ, Thứ sử Trung Châu. Khi Lợi Dụng đi sứ Khiết Đan lần thứ hai, ông đích thân xin chỉ thị về số lượng vàng lụa hàng năm phải cống nạp. Vua nói: “Nếu bất đắc dĩ, dù trăm vạn cũng được.” Lợi Dụng từ biệt ra đi, Khấu Chuẩn gọi ông vào trướng, bảo rằng: “Dù có chiếu chỉ, nhưng ngươi đi, không được hứa quá ba mươi vạn. Nếu quá ba mươi vạn, đừng về gặp ta, ta sẽ chém đầu ngươi.” Lợi Dụng quả nhiên chỉ hứa ba mươi vạn rồi ký kết xong trở về. Khi vào yết kiến ở hành cung, Vua đang dùng bữa, chưa tiếp ngay, sai thái giám hỏi số lượng cống nạp. Lợi Dụng nói: “Việc cơ mật này, phải tâu mặt đối mặt.” Vua lại sai hỏi, nói: “Hãy nói sơ lược.” Lợi Dụng vẫn không chịu nói, chỉ dùng ba ngón tay gõ lên má. Thái giám vào tâu: “Ba ngón tay gõ lên má, chẳng phải là ba trăm vạn sao?” Vua kêu lên: “Nhiều quá!” Rồi lại nói: “Thôi, xong việc cũng được.” Trong cung vách mỏng, Lợi Dụng nghe rõ lời ấy. Khi vào chầu, Vua gấp hỏi, Lợi Dụng liên tục xin tội, nói: “Thần hứa số lượng bạc lụa quá nhiều.” Vua hỏi: “Bao nhiêu?” Đáp: “Ba mươi vạn.” Vua không khỏi vui mừng, nên Lợi Dụng được ban thưởng rất hậu.

(Sách 《Ký văn》 chép rằng quân địch rút lui rồi đến cầu hòa, Vua sai Lưu Nhân Phạm đi nghị hòa, Nhân Phạm lấy cớ bệnh từ chối, bèn sai Tào Lợi Dụng. Lợi Dụng trước hẹn cống nạp hai mươi vạn mỗi năm, địch chê ít. Lợi Dụng về tâu lại, Vua cho phép dưới một trăm vạn. Xét ra, lúc địch mới cầu hòa, quân chưa từng rút. Lợi Dụng đi sứ lần đầu chưa nói đến cống nạp hàng năm, lần thứ hai liền hứa ba mươi vạn[27], cũng không phải vì về tâu lại mới tăng thêm. Sách 《Long Xuyên biệt chí》 lại chép: Thát Lãm chết, giặc mới cầu hòa. Đều là sai. Nay căn cứ chính sử mà sửa chữa, còn sự việc và lời lẽ thì vẫn dựa vào hai sách ấy. Lại không rõ Lưu Nhân Phạm là ai, cần khảo cứu thêm.)

[108] Sai Nội thị Tả ban Phó đô tri Diêm Thừa Hàn đến quân Đức Thanh để quy hoạch và đo đạc việc tu sửa thành trì[28].

[109] Ngày Mậu Tý, Vua làm thơ “Hồi loan”, sai các quan cận thần họa theo.

[110] Đến trại phía Bắc thăm hỏi quân sĩ, Vua triệu tập Bài trận sứ Lý Kế Long và Thạch Bảo Cát đến dự tiệc bắn cung ở hành cung, ban cho cả hai người áo mặc, đai vàng, ngựa có yên cương, rồi nâng chén mời.

Kế Long đều uống cạn, rồi quỳ lạy tâu rằng: “Khiết Đan vô cớ xâm phạm biên giới, đó là do tướng súy bất tài, khiến bệ hạ phải thân chinh, chịu khổ sở trong giá lạnh. Khi giặc đánh sâu vào, mọi người đều bàn nên cố thủ trong thành. Nếu không nhờ bệ hạ quyết đoán, điều hết quân tinh nhuệ trong cấm vệ bày trận ở phía bắc, ban cho kế sách, thì trước đây quân địch xông vào, chắc chắn không thể giết được tướng địch, ngăn chặn được thế mạnh của chúng. Lại khi giặc rút lui, nếu hội các tướng đuổi đánh, ắt lập được công lớn. Bệ hạ lại nghĩ đến việc chúng xin giảng hòa, cho phép chúng sửa sang quan hệ, yên dân ngừng chiến, tỏ lòng hiếu sinh, không cho đánh úp, mở đường cho chúng về. Chúng thần không thể phát huy được chút công lao nào.”

Vua nói: “Bắc Địch từ xưa vẫn là mối lo, nếu cứ nghĩ đến việc trả thù, bàn hết cách tiêu diệt, thì sẽ phải ngày ngày dấy binh, năm năm hao tốn. Nay chúng biết sợ uy phục nghĩa, ngừng chiến yên dân, khiến Trẫm rất vui lòng, đó cũng là nhờ sức của các khanh.”

Bảo Cát tâu rằng: “Thần vâng mệnh chống giặc, tuy trên nhờ mưu kế của bệ hạ, nhưng khi giặc đánh vào, bày trận, chỉ huy phương lược, đều là do Kế Long.”

Kế Long nói: “Khiết Đan thua trận, đều là nhờ thánh mưu. Nhưng ra sức dụng tâm, thân dẫn tướng sĩ, thần không bằng Bảo Cát.”

Vua nói: “Tướng súy hòa hợp như vậy, cùng nhau lập công, việc quân sự, Trẫm còn lo gì nữa.”

Trong trận này, Định Quốc tiết độ sứ, Phò mã đô úy Ngụy Hàm Tín không được giao việc gì, bèn tránh chỗ ngồi tự nói về tài mưu không được dùng, Vua cười an ủi, cùng nhau vui vẻ rồi thôi.

[111] Các châu quân phía bắc tâu: “Dò biết quân Khiết Đan đã rút về phía bắc, chưa ra khỏi biên giới, thường cho kỵ binh đi cướp phá làng mạc. Dân chúng ở Bối Châu và Thiên Hùng Quân hoảng sợ chạy vào thành.” Triều đình ra chiếu cho Phó Bố trí Cao Dương Quan là Tào Xán dẫn quân theo đường Bối Ký tiến đến Doanh Châu. Lấy Bố trí Bảo Châu Lộ, Ninh Châu Phòng ngự sứ là Trương Ngưng làm Duyên biên Tuần kiểm An phủ sứ, Lạc Uyển sứ, Bình Châu Thứ sử Lý Kế Hòa làm phó. Chọn hai vạn kỵ binh Thiên Hùng làm quân tiếp ứng cho Tào Xán, để đuổi theo giặc, nếu chúng dám cướp bóc[29], thì hợp lực tiêu diệt. Lại sai sứ dụ Khiết Đan rằng triều đình vì dân chúng còn hoảng loạn nên xuất quân tuần phủ. Lại ban chiếu tay cho Vương Kế Trung, lệnh báo Khiết Đan thả hết người già trẻ nhỏ bị bắt[30], sai Mã phố Tiểu hiệu ở Thiền Châu là Hoa Bân mang chiếu thư đến trại địch.

[112] Ngày Kỷ Sửu, miễn cho tướng hiệu ở Thiền Châu không phải chầu hầu hàng ngày, vì muốn dời quân về Hà Nội để tiện chỉ huy.

[113] Ban tiền cho 30 chỉ huy quân Quảng Nhuệ ở Hà Đông, rồi cho về doanh trại cũ.

[114] Ngày Canh Dần, ra chiếu rằng vùng Hà Bắc bị giặc cướp thiếu trâu cày, nên miễn thuế cho thương nhân buôn bán trâu.

[115] Lý Kế Long tâu rằng Long Vệ Chỉ huy sứ Lưu Phổ dẫn quân cướp được hơn một vạn xe, trâu và người của giặc.

[116] Ngày Tân Mão, sai Cấp sự trung Lã Hữu Chi đến Đông Kinh xem xét nghi trượng đón giá.

[117] Ra chiếu cho Chuyển vận sứ Hà Đông là Trịnh Văn Bảo dẫn quân Phiên Hán, sai sứ thần về nguyên đạo.

[118] Vương Siêu tâu rằng dẫn đại quân đến Thiên Hùng, có ba lính Hổ Dực tự ý vào làng chặt cây dâu, táo làm củi, đã xử theo quân pháp.

[119] Chiếu cho Vương Siêu chia ba đạo quân đóng ở Hà Nam, gồm một vạn bộ binh và kỵ binh, tiến đến Thiền Châu, lệnh cho Lý Kế Long và Thạch Bảo Cát chỉ huy. Thiên Hùng Quân vừa nghe tin Vương Siêu đem đại quân đến, rất nghi ngờ và lo sợ. Tôn Toàn Chiếu muốn đóng cổng thành để ngăn cản, nhưng Vương Khâm Nhược không đồng ý, nói: “Nếu làm như vậy, sẽ gây ra hiềm khích, khiến họ nảy sinh ý phản loạn.” Bèn ra lệnh dựng lều trang trí cách thành mười dặm để đón tiếp. Khi quân đến, đón chào và tổ chức yến tiệc liên tục mấy ngày. Sau khi yến tiệc kết thúc, các đạo quân đã được phân tán đi các nơi, quân thân tín cũng không biết gì.

(Theo《Ký Văn》: Việc này có lẽ không chắc chắn, nay tạm ghi lại, cần xem xét thêm.)

[120] Sai Lôi Hữu Chung dẫn quân về đồn trú ở Tịnh Châu. Lúc đó, Vương Siêu và các tướng khác do dự không lập công, chỉ có Lôi Hữu Chung kịp thời ứng cứu, uy danh vang dội, các thành ở Hà Bắc nhờ đó mà được củng cố.

[121] Ngày Nhâm Thìn, tha tội chết cho các châu ở Hà Bắc, dân chúng bị giặc cướp tàn phá được miễn thuế hai năm, con cháu của quan lại tử trận được truy phong.

[122] Sai năm sứ thần đến các đồn trú của Tào Xán và Trương Ngưng, mỗi ngày một người cưỡi ngựa trạm vào tâu báo.

[123] Lệnh cho Hàn lâm học sĩ Hình Bính làm lễ tế sông.

[124] Ngày Quý Tỵ, tổ chức đại yến ở hành cung. Tể tướng Tất Sĩ An trước đó vì bệnh ở lại kinh thành, hôm này đến chầu. Nhiều người bàn rằng việc hàng năm cống nạp cho Khiết Đan ba mươi vạn là quá nhiều, Tất Sĩ An nói: “Nếu không như vậy, Khiết Đan sẽ không coi trọng, việc hòa đàm e rằng không thể kéo dài.”

[125] Ở Đông Kinh có bọn cướp, bị giam ở ngục quân hữu tuần, tình hình nghi ngờ chưa rõ ràng, sau đó bắt được đồng bọn. Khi chúng đến, thấy đồng bọn bị xiềng xích, bèn cùng đánh ngục tốt để mưu đồ bỏ trốn. Ngục lại không ngăn được, vội báo cho lưu thủ Ung Vương Nguyên Phần. Nguyên Phần liền sai người đi bắt gửi về phủ. Chủ lại sợ chúng lại bỏ trốn, vội chặt chân chúng. Nguyên Phần nghe lời khai trong ngục, rất sợ hãi, lại không nỡ dùng hình phạt tàn khốc, nên kinh hãi, đột nhiên mắc bệnh. Vua xuống chiếu cho Tham tri chính sự Vương Đán tạm quyền lưu thủ Đông Kinh, ngay hôm đó đi xe trạm về trước. Lúc đó, dân hai bên sông có nhiều người bị giặc bắt, Vương Đán tâu: “Nhà nước nắm giữ của cải bốn biển, chi phí không cần thiết lên đến hàng ức vạn, xin xuất vài chục vạn vàng lụa để chuộc người.” Có người ngăn cản, nên việc này dừng lại.

(Trần Quán cũng có đề nghị này, xem năm sau.)

[126] Dùng Cung bị khố sứ, Đái ngự khí giới Kỳ Chính Mẫn làm Kiềm hạt quân Uy Lỗ. Trước đó, giặc áp sát thành quân, Bộ thự Ngụy Năng cùng Trương Ngưng ở Bảo Châu đem quân ra chống cự, thua nhỏ, Ngụy Năng liền dẫn quân về trước, Trương Ngưng đánh lui giặc. Mọi người đều tức giận, trách móc Ngụy Năng. Chỉ có Trương Ngưng im lặng, có người hỏi, Ngưng nói: “Ngụy Năng là kẻ thô bỉ, ngoan cố, đã không được mọi người dung thứ, ta lại trách móc, khiến lòng hắn không yên, không phải là kế hay.” Vua nghe vậy khen ngợi Trương Ngưng. Khi chia đường đến U, Dịch, Ngụy Năng lại nhút nhát, không dám tiến sâu, lại không kiềm chế được bộ hạ, cướp bóc nhiều người và gia súc. Sau đó cùng đóng quân ở Định Châu, Trương Ngưng một mình nhận chiếu đuổi giặc, Ngụy Năng tự xấu hổ vì không có công, lời nói oán hận, có ý phỉ báng. Triều đình bàn rằng Ngụy Năng cứng đầu, ít kiềm chế, không thể giao trọng trách, nên sai Kỳ Chính Mẫn cùng quản lý quân chính.

[127] Hà Dương tu sửa thành trì, Vua xuống chiếu bãi bỏ, lo làm phiền dân.

[128] Ngày Giáp Ngọ[31], xa giá rời Thiền Châu, trời rất lạnh, ban áo ấm cho dân nghèo bên đường.

[129] Trương Ngưng và các tướng khác tâu rằng đã dẫn quân đến Bối Châu, Ký Châu, quân địch thấy kỵ binh của ta đều tập hợp rút về phía bắc, không dám xâm phạm. Điều tra được rằng thủ lĩnh quân địch cùng mẹ của hắn đã qua khỏi quân Định Viễn.

[130] Ngày Ất Mùi, sứ thần tuần tra trại quân tâu rằng: “Quân địch cướp phá Tương Châu, Thông phán, Thái thường thừa Dương Tự Mục dẫn quân châu và trai tráng đuổi đánh chúng, trong cõi được yên ổn.” Vua ban chiếu cho Tự Mục làm Tri châu sự.

(Dương Tự Mục, chưa rõ lai lịch.)

[131] Lệnh cho các lộ trú bạc kiềm hạt, đô giám của quân Thiên Hùng dẫn quân đến Từ Châu, Tương Châu, Minh Châu để chiêu dụ bọn cướp, an định dân lưu tán.

[132] Hoa Bân từ trại địch trở về, Vương Kế Trung tâu rõ rằng triều đình phương bắc đã nghiêm cấm việc chặt củi, lại xin chiếu cho Trương Ngưng và các tướng không được giết hại người và ngựa của triều đình phương bắc. Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Trước đây nếu nghe theo ý kiến của mọi người, phát đại quân hội với quân của Thạch Phổ, Dương Diên Lãng đóng ở các châu dọc sông, chặn đường về của địch, dùng quân tinh nhuệ truy kích, đánh giáp công từ trước sau, thì chúng tất sẽ đại bại. Trẫm nghĩ rằng dưới tên đá, sát thương sẽ nhiều, tuy có thành công nhưng không thể tiêu diệt hết địch, từ đó biên giới phía bắc sẽ phải tăng thêm quân, dân chúng Hà Sóc không ngày nào được nghỉ ngơi. Huống chi đã bàn việc kết minh ước, đã đồng ý, nếu chúng tự phá vỡ minh ước, lại dấy binh đao, khi đó sẽ thề với quân dân, trong ngoài cùng căm phẫn, khiến chúng bị diệt vong, cũng chưa muộn. Nay Trương Ngưng và các tướng xuất quân đánh đuổi, chỉ muốn ngăn chặn sự xâm nhiễu của chúng mà thôi.” Các quan tả hữu đều hô vạn tuế.

Diên Lãng từng nói: “Quân địch đóng ở Thiền Uyên, cách biên giới phía bắc hơn nghìn dặm, người ngựa mệt mỏi, tuy đông nhưng dễ đánh bại, những gì chúng cướp bóc đều chất trên ngựa. Xin hạ lệnh cho các quân chặn các đường hiểm yếu để đánh úp, tiêu diệt quân địch, thì các châu U, Dịch có thể đánh chiếm được.” Tấu chương dâng lên, không được trả lời. Diên Lãng một mình dẫn quân của mình tiến vào đất Khiết Đan, phá thành cổ, bắt sống và chém đầu rất nhiều quân địch.

(Điều này căn cứ theo truyện của Diên Lãng. Xét chiếu tháng giêng năm sau, Diên Lãng thực sự lại được bổ nhiệm làm Duyên biên đô tuần kiểm, nhưng bản truyện bỏ sót, nay phụ chép vào.)

[133] Lý Kế Xương đến trướng địch, mọi người đều vui mừng, lễ tiếp đãi càng thêm hậu hĩ, liền sai Tây thượng các môn sứ Đinh Chấn mang thệ thư đến dâng. Ngày Đinh Dậu, xa giá dừng ở Trần Kiều, Chấn vào yết kiến tại hành tại, được ban yến, lệnh từ biệt trở về, sai Tào Lợi Dụng tiễn đến biên giới. Kế Xương nói rằng người Khiết Đan khá tuân theo nghi lễ nhà Hán, nhưng vẫn pha tạp nhiều phong tục của nước họ, người trên tuy muốn thay đổi, nhưng tục lệ không dễ đổi được.

[134] Trương Ngưng và những người khác tâu rằng quân Khiết Đan đã rút khỏi biên giới, Ngưng và những người khác đều trở về nơi đồn trú.

[135] Ngày Mậu Tuất, xa giá từ Thiền Châu trở về.

[136] Ban đầu, Vua vì kỵ ngày giỗ của Ý Đức Hoàng thái hậu, muốn bỏ nghi trượng và nhạc cụ, không cử nhạc. Lúc đó, Long đồ các đãi chế Đỗ Hạo đã về trước, chuẩn bị nghi trượng, Vua sai người cưỡi ngựa đến hỏi, Hạo nói: “Vũ Vương mang bài vị gỗ đi đánh Trụ, trước ca sau múa. Xuân Thu không lấy việc nhà từ chối việc Vua, khi khải hoàn dùng nhạc, theo lễ không có gì đáng ngại.” Vua lại triệu tập các quan bàn bạc, mọi người đều cố xin, Vua bèn nghe theo.

[137] Khấu Chuẩn ở Thiền Châu, mỗi tối cùng Tri chế cáo Dương Ức uống rượu say sưa, ca hát đùa giỡn, ồn ào đến sáng, Vua sai người dò xét biết được, vui mừng nói: “Có hắn như thế, ta còn lo gì nữa!” Người đời so sánh ông với Tạ An.

Sau đó, Tào Lợi Dụng và Hàn Kỷ đến nơi ở của Vua để bàn việc hòa nghị. Khấu Chuẩn ban đầu không muốn đồng ý, bèn vạch kế sách tiến lên, nói: “Nếu làm như vậy, có thể bảo đảm trăm năm không có việc gì. Nếu không, vài chục năm sau, giặc phương Bắc sẽ sinh lòng khác.” Vua nói: “Vài chục năm sau, ắt sẽ có người có thể chống cự được. Trẫm không nỡ để dân chúng chịu khổ cực thêm, tạm nghe theo việc hòa nghị vậy.” Khấu Chuẩn xử lý việc quân sự, có lúc trái ý Vua, đến lúc này, tạ lỗi rằng: “Nếu bề tôi làm hết theo chiếu lệnh, việc này há có thể thành công nhanh chóng được sao!” Vua cười và an ủi ông.

(Sách 《Tống sử toàn văn》 của Trần Oánh Trung chép: Lúc bấy giờ nếu không có Khấu Chuẩn, thiên hạ đã chia thành Nam Bắc rồi. Nhưng Khấu Lại công há lại dùng kế đánh cược sao! Xem việc Khiết Đan vào cướp, cướp Uy Lỗ, An Thuận quân thì Ngụy Năng, Thạch Phổ đánh bại chúng, đánh Bắc Bình trại thì Điền Mẫn đánh đuổi chúng, đánh Định châu thì Vương Siêu chống cự chúng, vây Khả Lam quân thì Giả Tông đuổi chúng, cướp Doanh châu thì Lý Diên Ác[32] đánh bại chúng, đánh Thiên Hùng thì Tôn Toàn Chiếu đẩy lui chúng, đến Thiền châu thì Lý Kế Long chống cự chúng.

Quân tướng như thế, thì việc thân chinh là để khích lệ tướng sĩ dốc sức. Nhưng việc thân chinh thực hiện vào năm Cảnh Đức thì được, còn người bàn luận vào thời Tĩnh Khang xin dùng chuyện cũ của Chân Tông thì không được. Bởi việc thân chinh, ắt phải binh mạnh, của cải dồi dào, tướng giỏi bắt được giặc. Như thế, thì kế hoạch rõ ràng, kỷ cương tu chỉnh, pháp độ ngay thẳng. Một khi không được như vậy, thì đem việc nguy hiểm giao cho Vua. Nói rằng chỗ thiên tử ở, quân không thể không thắng, đó là lời nói suông của kẻ sách vở, có thể nói mà không thể làm được. Công lao của Khấu Chuẩn không phải ở chỗ chủ trương thân chinh, mà ở chỗ vạch kế sách muốn trăm năm không có việc gì. Nếu lời nói của ông được dùng, thì không chỉ không có sự nhục nhã năm Khánh Lịch[33], mà cũng không có họa Tĩnh Khang nữa.

Sự yên ổn của Tống là nhờ chiến dịch Cảnh Đức. Chiến dịch Tĩnh Khang, cũng là do chiến dịch Cảnh Đức gây ra. Chiến dịch Cảnh Đức, quân vương động binh một lần mà giết được Thát Lãm, Khiết Đan không thể vượt sông, khiến Tĩnh Khang ngồi giữ kinh thành, mà dò xét giặc không vượt sông. Cảnh Đức không đánh mà hòa, muốn hòa là địch, khiến Tĩnh Khang ngồi nhìn giặc vào sâu, mà chỉ nghĩ hòa hảo có thể lâu dài. Cảnh Đức đã hòa, chiếu cho các quận biên giới không chặn đường về của chúng, để tỏ lòng tin lớn, khiến Tĩnh Khang địch nhân bàn cắt ba trấn của ta, mà còn thả chúng không đuổi. Sự phòng thủ không đủ để làm mưu, sự hòa nghị không đủ để làm tin, sự thả không đủ để làm đức, lời nói của Khấu Chuẩn, đến lúc này đã ứng nghiệm. Phạm Trọng Yêm nói: Văn Chính công Vương Đán làm tể tướng 20 năm, người ta không thấy dấu vết yêu ghét, thiên hạ gọi là bậc đại nhã. Khấu Lại công trong chiến dịch Thiền châu, mà có thể khiến thiên tử không lay động như núi, thiên hạ gọi là bậc đại trung. Xu mật sứ Phù Phong Mã Công Tri Tiết khảng khái ở triều, có gì nói nấy, thiên hạ gọi là bậc chí trực.)

[138] Ngày Tân Sửu, sao chép thư thề của Khiết Đan, ban bố cho các châu quân ở Hà Bắc, Hà Đông. Trước đây, thư từ trong việc thông hảo đều lấy Nam triều, Bắc triều đặt trên quốc hiệu. Tướng tác giám thừa Vương Tăng tâu: “Như vậy là ngang hàng với họ, mất mát còn gì lớn hơn, xin chỉ gọi quốc hiệu của họ là Khiết Đan là đủ[34].” Vua khen ngợi và tiếp nhận ý kiến, nhưng việc đã làm rồi, không thể sửa đổi.

(Theo sách thệ ước của hai triều, trong đó có bản thệ ước năm Cảnh Đức nguyên niên, không rõ vì sao 《Chân Tông thực lục》 lại không ghi chép, nay xin phụ lục như sau:

“Vào năm Cảnh Đức nguyên niên, năm Giáp Thìn, tháng 12, ngày Canh Thìn mùng một, ngày Bính Tuất mồng 7, Hoàng đế Đại Tống kính cẩn gửi thệ thư đến Hoàng đế Đại Khiết Đan: Cùng tuân thủ lòng thành tín, kính cẩn giữ gìn minh ước, dựa vào phong thổ phù hợp, hỗ trợ chi phí quân đội, mỗi năm cống nạp 20 vạn tấm lụa và 10 vạn lạng bạc, không cần phái sứ thần đặc biệt đến Bắc triều[35], chỉ sai người của Tam ty chuyển đến Hùng Châu để giao nhận. Các châu quân dọc biên giới, mỗi bên giữ vững cương giới, dân chúng hai nơi không được xâm phạm lẫn nhau. Nếu có trộm cướp trốn chạy, hai bên không được chứa chấp. Ruộng đồng canh tác, hai bên nam bắc không được gây náo động. Tất cả thành trì của hai triều đều được giữ nguyên như cũ, đào hào tu sửa, mọi việc như thường, không được xây dựng thêm thành lũy, đào kênh đắp sông[36]. Ngoài thệ ước này, không yêu cầu gì thêm. Phải cùng nhau hợp tác, để duy trì lâu dài. Từ nay bảo vệ dân chúng, cẩn thận giữ gìn biên cương, lấy trời đất thần linh làm chứng, cáo với tông miếu xã tắc, con cháu cùng giữ, truyền mãi không dứt, nếu vi phạm lời thề này, sẽ không được hưởng quốc. Trời cao sáng suốt, sẽ cùng trừng phạt. Kính cẩn trình bày, chờ đợi hồi âm, không dám nói nhiều, kính bạch.”

“Năm thứ 22 niên hiệu Thống Hòa[37], năm Giáp Thìn, tháng 12 ngày Canh Thìn mùng một, ngày 12 Tân Mão, Hoàng đế Đại Khiết Đan kính cẩn gửi thư thề đến Hoàng đế Đại Tống: Cùng bàn việc ngừng binh, lại bàn việc thông hảo, đồng thời nhận được sự quan tâm, đặc biệt gửi thư thề, nói rằng: “Do phong thổ thích hợp, giúp chi phí quân đội, mỗi năm cung nạp 20 vạn tấm lụa, 10 vạn lạng bạc, không cần phái sứ thần đặc biệt đến Bắc triều[38], chỉ lệnh Tam ty cử người chuyển đến Hùng Châu để giao nhận. Các châu quân dọc biên giới, mỗi bên giữ vững cương giới, dân hai nơi không được xâm phạm lẫn nhau. Nếu có trộm cướp trốn chạy, hai bên không được chứa chấp. Ruộng đồng canh tác, nam bắc không được gây náo động. Tất cả thành trì của hai triều, đều có thể giữ nguyên như cũ, đào hào sửa chữa, mọi việc như thường, không được xây dựng thêm thành lũy, đào kênh mương. Ngoài thư thề, không có yêu cầu gì khác, nhất định phải hợp tác, để duy trì lâu dài. Từ nay bảo vệ dân chúng, cẩn thận giữ gìn biên giới, thề trước trời đất thần linh, cáo với tông miếu xã tắc, con cháu cùng giữ, truyền mãi không dứt, nếu vi phạm lời thề này, sẽ không được hưởng quốc. Trời cao sáng suốt, sẽ cùng trừng phạt.” Tuy ta không tài giỏi, nhưng dám tuân theo ước này, kính cẩn cáo với trời đất, thề với con cháu, nếu vi phạm lời thề này, thần minh sẽ trừng phạt. Chuyên gửi lời tâu, không nói thêm, kính cẩn bạch.”

Ngày 1 tháng 2 năm Cảnh Hữu thứ 2, phụng chỉ lệnh khắc lên đá. Lại theo “Nhân Tông thực lục”: Ngày Ất Sửu tháng 9 năm Khánh Lịch thứ 2, chép thư thề của Khiết Đan, nội dung thư thề ngày 7 tháng 12 năm Cảnh Đức nguyên niên giống với thư này, chỉ khác một hai chữ. Thư thề này đều không xưng Nam triều, Bắc triều, không rõ Vương Tăng vì sao nói “việc đã làm, không sửa được”, cần xem xét thêm.)

[139] Ngày Nhâm Dần, Vua đến viện Khải Thánh bái yết thần vị của Thái Tông.

[140] Ngày Quý Mão, sai Tri chế cáo Lý Tông Ngạc, Dương Ức và Trực sử quán Trần Bành Niên xem xét và định lại sách 《Chính Từ Lục》[39], đồng thời ra lệnh từ nay các bản chúc văn cần phải trình lên để ký tên, đều do lại viên của Bí các chép. Vua xem chúc văn của các đế vương đời trước, thấy có chỗ viết “Thương vương Thang” bèn hỏi, Tông Ngạc và các quan tâu rằng: “Trong kinh điển, các Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, có khi gọi bằng tên, có khi gọi bằng thụy hiệu. Nay sách 《Chính Từ Lục》 gọi Nghiêu, Thuấn là Đào Đường, Hữu Ngu thị, nếu theo cách này mà đổi đi, đủ tỏ lòng thành kính. Còn Vũ, Thang xin chỉ gọi là Hạ vương, Thương vương; Trung Tông Thái Mậu, Cao Tông Vũ Đinh chỉ gọi bằng miếu hiệu.” Vua chuẩn tấu.

[141] Quan Bộ thự châu Bân tâu rằng Khổng mục quan Hà Hiến, con của Lý Kế Thiên là A Di đến quy phụ, Vua hạ chiếu cho họ đi ngựa trạm về kinh.

[142] Sai Nội điện Sùng ban Dương Bảo Dụng và ba người khác chia nhau đi các lộ Hà Bắc Đông, Hà Bắc Tây[40] để thăm hỏi quan lại, tướng sĩ, xem xét công trạng. (《Thực lục》 nhầm ghi là Hà Bắc, Hà Đông, Thiểm Tây lộ, nay theo bản kỷ.) Bảo Dụng là người thân cận trong cung, không rõ quê quán.

(Xem 《Vương Kế Trung truyền》.)

[143] Hạ chiếu dụ quan lại, quân dân các nơi Thiểm Tây, Xuyên Hạp, báo tin việc Khiết Đan đã kết hòa ước xong, Vua đã về kinh.

[144] Ngày Giáp Thìn, Vua bảo các quan phụ tá rằng: “Hôm qua giặc vào cướp quân Đức Thanh, Đô ngu hậu Hổ Dực là Hồ Phúc dẫn quân ra sức chiến đấu. Bị thương khắp người, vẫn cầm kiếm xông pha, tên bắn không trượt phát nào, thuộc hạ chết hết, một mình cầm đao giết được mấy chục người. Phó chỉ huy sứ là Thượng Tộ cũng dùng chùy lớn, chém đầu và đánh gãy xương sườn của hơn trăm người. Vì ít không địch nổi nhiều, đều tử trận, tiết tháo trung dũng thật đáng khen ngợi. Trẫm sai sứ tìm thi hài của họ, chỉ tìm được xác Hồ Phúc, đã sai chôn cất tử tế, nên thưởng cho con cháu họ.”

[145] Đổi quân Uy Lỗ thành Quảng Tín, Tĩnh Nhung thành An Túc, Phá Lỗ thành Tín An, Bình Nhung thành Bảo Định, Ninh Biên thành Vĩnh Định, Định Viễn thành Vĩnh Tĩnh, Định Khương thành Bảo Đức, thành Bình Lỗ thành Túc Ninh.

[146] Ngày Ất Tỵ, lấy Thiên Hùng quân Kiềm hạt, Tây thượng các môn sứ là Tôn Toàn Chiếu làm Tri quân phủ sự, triệu Vương Khâm Nhược về kinh.

[147] Ngày Đinh Mùi, bỏ chức Bộ thứ ở châu Thạch, châu Thấp, đặt chức Đô tuần kiểm sứ vùng biên giới châu Thạch, châu Thấp, lại sai Nhữ Châu phòng ngự sứ là Cao Văn Tùng đảm nhiệm, Tây thượng các môn sứ là Trương Thủ Ân làm Đô giám, thống lĩnh quân đồn trú, đợi khi sông đóng băng thì đi tuần tra.

[148] Ngày Mậu Thân, Vua xem tờ tấu từ Hà Bắc, các châu phần nhiều bị giày xéo, quân Thông Lợi bị thiệt hại nặng nề nhất, vẻ mặt đau buồn, bèn hạ chiếu tự trách mình, cho dân chúng nghỉ ngơi. Tất Sĩ An và các quan dâng biểu chịu tội, Vua ban chiếu an ủi. Hàn lâm học sĩ là Lương Chu Hàn soạn chiếu đáp không vừa ý Vua, sai Triệu An Nhân viết lại, rồi bảo An Nhân rằng: “Đừng để Chu Hàn biết, sợ ông ấy hổ thẹn và hối hận.”

[149] Dời Chuyển vận sứ Hà Đông là Trịnh Văn Bảo làm Chuyển vận sứ Kinh Tây, ban chiếu khen ngợi, vì trong lúc giặc cướp, ông đã an định được bộ hạ.

[150] Chiếu cho Ty Thị vệ Điện tiền: Từ nay, các chức quan từ Khổng mục trở xuống nếu có khuyết, không được tự ý chuyển bổ hoặc đổi tên, mà phải tâu xin ý chỉ triều đình. Trước đây, các lại viên trong Ty Điện tiền không có quy định cụ thể, chỉ do bản ty tự tăng giảm, bổ nhiệm. Đến nay, Vua sai Chỉ huy sứ Cao Quỳnh cùng các quan định lại số lượng rồi tâu lên, nên có chiếu này. (Theo《Hội yếu》, việc này xảy ra tháng 11 năm đầu tiên, nay ghi vào cuối năm).


  1. Nguyên bản chép 'Quân', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15, mục 'Thân chinh Khiết Đan' sửa lại
  2. Chữ 'duyên' trong 'Duyên Biên đô tuần kiểm Dương Diên Lãng' nguyên bản bị thiếu, căn cứ theo các bản khác, chú thích gốc của bản này và 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 cùng 《Tống Sử》 quyển 272, truyện Dương Diên Chiêu bổ sung.
  3. Chữ 'thời' trong 'án sơ khiển lợi dụng thời' vốn thiếu, theo bản Tống và bản Tống toát yếu bổ sung.
  4. Phòng ngự sứ châu Vệ Lý Trọng Quý, 'Phòng ngự sứ' nguyên là 'Phòng ngự sử', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và truyện quyển 279 sách Tống sử sửa lại.
  5. 'Giết' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 15 'Thân chinh Khiết Đan', sách Trị tích thống loại quyển 4 'Chân Tông Thiền Uyên thông hảo' bổ sung.
  6. 'Hơn' nguyên bản thiếu, căn cứ theo sách trên bổ sung.
  7. 'Kiềm hạt mặt đông' nguyên bản là 'Kiềm hạt mặt đông tây', theo sách trên sửa lại.
  8. Chữ 'thời' trong câu 'Án khâm nhược thời dĩ tại thiên hùng' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15, mục 'Thân chinh Khiết Đan' để bổ sung.
  9. Chữ 'hậu' trong câu 'hậu nghị ư vi thành' vốn viết là 'phục', nay căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 dẫn trên để sửa.
  10. thân chinh chỉ huy toàn quân: theo bản Tống, bản Tống toát yếu, Tống hội yếu binh 7/12 và Phiên di 1/30, cùng Trường biên kỷ sự bản mạt đều có thêm câu 'Huống địch nhân tham lam, không nghĩ đến đức nghĩa' chín chữ.
  11. đốc thúc Lợi Dụng cùng đi: chữ 'cùng' nguyên là 'đều', theo Trường biên kỷ sự bản mạt sửa.
  12. Bạch Câu nguyên là 'Bạch giảng', theo các bản và 《Tam tiên sinh văn tập》 quyển 35

    (Thẩm Quát 《Trường hưng tập》) 《Trương Trung Doãn mộ chí minh》, cùng Trường biên kỷ sự bản mạt sửa.

  13. bộ hạ vài chục người tranh nhau khiêng xác về trại, chữ 'bách' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và Tống hội yếu Phiên di nhất chi tam nhất, cùng Trường biên kỷ sự bản mạt sửa lại.
  14. 'Người' nguyên bản viết là 'Nhập', căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trị tích thống loại》 quyển 4 'Chân Tông Thiền Uyên thông hảo' sửa lại.
  15. 'Dĩ' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15 'Thân chinh Khiết Đan' bổ sung.
  16. 'Bối' nguyên bản viết là 'Bối', căn cứ theo bản Tống, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 sửa lại.
  17. 'Lên' nguyên bản là 'ngoài', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu Phiên di nhất chi 31, Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 15 Thân chinh Khiết Đan sửa.
  18. Chữ 'lại' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống sử toàn văn quyển 5 hạ, Trị tích thống loại quyển 4 Chân Tông Thiền Uyên thông hảo bổ.
  19. Dưới 'Quan Nam' nguyên bản có chữ 'cố địa', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu Phiên di nhất chi 31, Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 15 Thân chinh Khiết Đan bỏ.
  20. Chữ 'đã' nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Trường biên kỷ sự bản mạt bổ.
  21. 'Đối trận' theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và sách 《Tả thị Bách Xuyên học hải》 quyển Quý, tập 《Đinh Tấn công đàm lục》 đều chép là 'Địch trận'.
  22. 'Hai quân hòa giải' thiếu chữ 'hai', căn cứ theo sách trên bổ sung.
  23. 'Một lúc sau' nguyên bản chép là 'Đổi giờ', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  24. Bản Tống ghi: 'Lỗ sư Thát Lãm trúng tên chết' (sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15, chương 'Thân chinh Khiết Đan' ghi là 'Lỗ suý', có lẽ đúng), bản Tống toát yếu ghi là 'Lỗ tướng'.
  25. Cao Chính Thủy, sách 《Tống hội yếu》 phần Phiên di nhất chi tam nhị chép là 'Cao Chính'. Xét Cao Chính có truyện trong 《Liêu sử》 quyển 88, nhưng không nói đến việc ông giữ chức Tiếp bạn Chính sự xá nhân. 《Tục thông giám》 quyển 25 căn cứ vào 《Liêu sử》 chép là 'Cao Chính'.
  26. Nguyên văn chép là 'nguyện huynh đệ Nam triều', căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15 phần Thân chinh Khiết Đan sửa lại.
  27. Lần thứ hai liền hứa ba mươi vạn, chữ 'sứ' nguyên bản viết 'hoàn', căn cứ bản Tống và văn nghĩa trong sách này mà sửa.
  28. Sai Nội thị Tả ban Phó đô tri Diêm Thừa Hàn đến quân Đức Thanh để quy hoạch và đo đạc việc tu sửa thành trì. 'Tả ban Phó đô tri' nguyên bản là 'Tam ban Phó đô tri', căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15 'Thân chinh Khiết Đan' và 《Tống sử》 quyển 466 truyện Diêm Thừa Hàn sửa lại. Xét rằng Nội thị tỉnh triều Tống có chức Tả ban Đô tri, Phó đô tri và Hữu ban Đô tri, Phó đô tri, tham khảo 《Tống hội yếu》 Chức quan 36/1 và 《Tống sử》 quyển 166 Chức quan chí.
  29. Chữ 'tứ' trong 'cảm tứ kiếp lược' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và 《Trị tích thống loại》 bổ sung.
  30. Chữ 'phóng' trong 'lệnh cáo khiết đan tất phóng sở lược lão ấu' nguyên bản là 'phỏng', căn cứ theo sách trên sửa lại.
  31. Nguyên bản là 'Giáp Tý', căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ sửa lại.
  32. Nguyên bản chép là 'Lý Ác', theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ bổ sung chữ 'Diên'. Xét đoạn văn trên tháng 10 ngày Bính Tuất, Khiết Đan đến dưới thành Doanh châu, Tri châu Lý Diên Ác đem quân chống giữ, Khiết Đan thua chạy. 《Tống sử》 quyển 273 truyện Lý Diên Ác chép giống với đoạn văn này. Ở đây chép là 'Lý Diên Ác' là đúng.
  33. Nguyên bản chép là 'hối', theo 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ sửa lại. Xét câu này chỉ việc năm Khánh Lịch thứ 2, Tống hứa với Khiết Đan mỗi năm tăng thêm 10 vạn xấp lụa, 10 vạn lạng bạc và trong thư thề gọi là 'nạp', chép là 'vũ' là đúng.
  34. Xin chỉ gọi quốc hiệu của họ là Khiết Đan là đủ: Theo bản Tống và bản Tống toát yếu, đoạn văn này viết: 'Xưa kia tôn trọng Trung Quốc, khinh rẻ Di Địch, coi như đầu với chân. Đến thời Hán mới mất, bàn việc hòa thân, nhưng lễ cũng chưa đến mức ngang nhau. Nay như thế này, là ngang hàng với họ, đầu chân cùng đặt, mất mát còn gì lớn hơn. Di Địch vốn không thể khơi mào, thần e rằng lâu ngày không chỉ cùng đặt, lại còn đảo ngược, xin chỉ gọi quốc hiệu của họ là Khiết Đan là đủ.' 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 15, phần 'Thân chinh Khiết Đan' cũng ghi tương tự. Bản in nguyên khắc có lược bớt, có lẽ do người Thanh kiêng kỵ mà xóa bỏ.
  35. Chữ 'sứ' trong câu 'không cần phái sứ thần đặc biệt đến Bắc triều' nguyên bản bị thiếu, nay căn cứ 《Khiết Đan quốc chí》 quyển 20 bổ sung.
  36. Câu 'đào kênh đắp sông' trong sách trên viết là 'đào kênh đắp sông', có lẽ đúng.
  37. Năm thứ 22 niên hiệu Thống Hòa, nguyên bản ghi là 'năm thứ 20'. Theo sách Tống Cảnh Đức nguyên niên, tương ứng với năm thứ 22 của Khiết Đan, chữ 'nhị' trên chữ 'niên' bị thiếu, nay căn cứ vào sách trên để bổ sung.
  38. Chữ 'canh' bị thiếu, tham khảo phần hiệu đính trong quyển này; Chữ 'sứ' bị thiếu, căn cứ vào sách 'Khiết Đan quốc chí' quyển 20 để bổ sung.
  39. Nguyên bản là 'Chính Từ Duyên', theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống, bản các và văn bản dưới đây mà sửa.
  40. Chữ 'Bắc' nguyên bản thiếu, theo 《Tống sử》 quyển 7, kỷ Chân Tông mà bổ sung. Xét rằng đời Tống không có 'Hà Đông Tây lộ', đầu niên hiệu Cảnh Đức đời Chân Tông, Hà Bắc chia làm Đông lộ và Tây lộ, lúc quân Khiết Đan xâm lược, quân đội đang ở Hà Bắc. Nên theo bản kỷ.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.