"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 65: NĂM CẢNH ĐỨC THỨ 4 (ĐINH MÙI, 1007)

Từ tháng giêng năm Cảnh Đức thứ 4 đời Chân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ Hợi mùng một, Vua ngự triều ở điện Triều Nguyên nhận lễ chầu, ban ân xá giảm tội cho tù nhân trong kinh kỳ từ tội lưu trở xuống.

[2] Sai Công bộ Thượng thư Vương Hóa Cơ đi ngựa trạm đến Hà Trung tế miếu Hậu Thổ, dùng lễ đại tế, để báo việc sắp đi bái yết lăng tẩm.

(Theo《Hội yếu》ghi vào tháng giêng, nhưng《Thực lục》không chép, nay phụ chép ở đây.)

[3] Ngày Giáp Thìn, lấy Tri Xu mật viện sự Trần Nghiêu Tẩu làm Đông Kinh Lưu thủ.

[4] Ngày Ất Tỵ, lấy Quyền Tam ty sứ sự Đinh Vị làm Tùy giá Tam ty sứ, Diêm thiết phó sứ Lâm Đặc làm phó.

[5] Ngày Đinh Mùi, lấy Hoàng thành sứ, Thắng châu Thứ sử Lưu Thừa Khuê làm Câu đương Hoàng thành Đại nội công sự.

[6] Ngày Quý Sửu, tặng chức Hà châu Quan sát sứ, An Hương hầu Đức Quân (con thứ năm của Đình Mỹ) mất. Đêm đó là đêm Thượng nguyên, Trung cung định triệu các mệnh phụ vào xem đèn, bèn bãi bỏ việc này.

[7] Ngày Giáp Dần, xuống chiếu cho Vũ Tín Tiết độ sứ Duy Cát xếp hàng trên Thạch Bảo Cát, Tiết độ sứ Trấn An. Duy Cát và Bảo Cát đều kiêm chức Đồng bình chương sự, nhưng Bảo Cát được phong trước. Vua sai sử quan tra cứu điển cố, thấy rằng vào niên hiệu Vũ Đức đời Đường có chiếu cho người họ tông thất đứng trên quan cùng phẩm, nên làm theo.

[8] Ngày Đinh Tỵ, lấy Công bộ Viên ngoại lang Thiệu Diệp làm Binh bộ Viên ngoại lang, vì Diệp đã hoàn thành việc an phủ Giao Châu, nên được khen thưởng. Ban đầu Diệp đi sứ, mượn 80 vạn quan tiền công để mua vật phẩm riêng, đến khi được cải mệnh làm an phủ, đã trả được một nửa, phần còn lại được chiếu miễn.

[9] Ngày Kỷ Mùi, xa giá rời kinh sư.

[10] Ngày Canh Thân, dừng ở huyện Trung Mâu, xóa nợ cũ, thả tù nhân, ban áo và tiền cho các bậc phụ lão, những nơi đi qua đều làm như vậy.

[11] Ngày Nhâm Tuất, Hà Dương Tiết độ sứ, Đồng bình chương sự Vương Hiển mất, được tặng chức Trung thư lệnh, sai nội thần lo việc tang lễ, vì đang trên đường nên không bãi triều.

[12] Ngày Giáp Tí, dừng chân ở huyện Củng. Bãi bỏ việc đánh roi (bãi minh tiên, chữ “minh” nguyên là “Minh”, theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và quyển 123 chí Lễ trong 《Tống sử》 sửa lại) cùng việc Thái thường tấu nghiêm và Kim ngô truyền hô. Có người dâng cá chép sông Lạc, Vua nói: “Trẫm không nỡ ăn.” Rồi sai thả đi.

[13] Ngày Bính Dần, trai giới ở hành cung trấn Vĩnh An, Thái quan dâng cơm chay.

[14] Ngày Đinh Mão, đêm chưa hết canh ba, Vua cưỡi ngựa, bỏ kiệu lọng, đến nơi ở tạm bên ngoài lăng An, đổi sang áo trắng, đi bộ vào cửa Tư Mã, làm lễ dâng tế. Sau đó đến lăng Vĩnh Xương, Vĩnh Hi, lại đến các cung dưới. Phàm ở cung trên dùng trâu dê và sách chúc, các quan phụng sự; cung dưới chuẩn bị đồ ăn, thái giám làm lễ, bá quan đều đứng hầu. Lại đến lăng Nguyên Đức Hoàng thái hậu dâng tế, lại ở phía nam lăng dựng trại, tế như lễ cung dưới. Mỗi lần đến lăng tẩm, Vua nhìn cửa mà khóc.

Ban đầu, các quan định nghi lễ chỉ mặc thường phục, Vua đặc biệt chế ra áo trắng. Lễ xong, đến khắp các lăng Hiếu Minh, Hiếu Huệ, Hiếu Chương, Ý Đức, Thục Đức, Minh Đức hoàng hậu, lại đến lăng Trang Hoài hoàng hậu, rồi một mình cưỡi ngựa xem xét lăng tẩm, có thái giám đi theo; lại thân hành tế các mộ Quỳ vương, Ngụy vương, Kì vương, Cung Hiếu thái tử, Vận vương, Chu vương, An vương. Sau giờ Thìn, tạm đến trại thay áo, lại đến lăng cáo từ. Các quan cho rằng lễ triều bái không có nghi thức cáo từ, nhưng Vua cảm thương đau xót, không nỡ rời đi ngay, nên lại đến. Đến giờ Ngọ mới về, tả hữu dâng lọng, Vua từ chối, qua sông Chiêu Ứng mới cho dâng, đến hành cung mới dùng cơm thường. Lại sai quan tế các mộ nhất phẩm và mộ thân thích hoàng tộc.

[15] Ban đức âm xuống Tây Kinh và các lộ, tha tù tội lưu trở xuống, miễn nợ cũ, ban thuế ruộng cho dân các huyện kinh thành có mức khác nhau. Các quan lại phụng sự thì do các cơ quan khảo xét thành tích. Đặt trấn Vĩnh An làm huyện, đổi chức Phó sứ lăng Vĩnh Hi và Thủ đương đô giám làm Tam lăng phó sứ, đô giám. Xét tăng đạo ở hai kinh và châu Mạnh, châu Trịnh, những người có danh tiếng thì cứ năm người tha một người, không đủ thì mỗi viện cho một người.

[16] Tháng hai, ngày Mậu Thìn mùng một, xa giá đi đến Tây Kinh, chiều tối dừng lại ở huyện Yển Sư, bắt đầu lại tấu nhạc nghiêm. Vua vẫn mặc áo bào đi ủng, không cử nhạc. Trước đó, mấy ngày liền trời u ám, đến khi lễ xong, trời đất trong sáng, khí hậu ấm áp, mọi người đều cho là do lòng nhân hiếu của Vua cảm động đến trời đất. Long Đồ các đãi chế Trần Bành Niên xin đem việc này giao cho sử quan ghi chép và ban bố trong ngoài, Vua nghe theo.

[17] Trần Nghiêu Tẩu tâu rằng nhà ngục trống không, Vua xuống chiếu khen thưởng. Nghiêu Tẩu ở lại giữ kinh thành, dù là tội đại hình cũng chỉ hỏi qua mặt rồi lập tức xử quyết, chưa từng để tù nhân bị giam lâu. Vua nói: “Nghiêu Tẩu vốn có tài quyết đoán, nhưng việc quan trọng nên giao cho hữu ty xét hỏi kỹ càng.” Nhân đó ban chiếu bí mật dặn dò.

[18] Ngày Kỷ Tỵ, đến Tây Kinh, bắt đầu tấu nhạc, đi qua mộ tướng quân nhà Hán là Kỷ Tín và miếu Tư đồ Lỗ Cung, xuống chiếu truy tặng Kỷ Tín làm Thái uý, Lỗ Cung làm Thái sư.

[19] Ngày Tân Mùi, sai Lại bộ thượng thư Trương Tề Hiền tế lục miếu nhà Chu.

[20] Xuống chiếu cho các quan có phần mộ tổ tiên ở Lạc được nghỉ phép về tế bái.

[21] Ngày Nhâm Thân, Vua nói với các quan phụ chính rằng: “Các hoạn quan đời trước ỷ thế lộng quyền, làm hại chính sự và gây tai họa cho dân, Trẫm thường lấy đó làm điều răn. Về việc ban thưởng, Trẫm không để quá mức, nếu có tội thì không bao giờ dung thứ, nên bọn họ thường cũng biết sợ.” Vương Đán và các quan tâu rằng: “Sự việc đời trước rõ ràng, đủ làm gương, bệ hạ nói đến điều này, thật là phúc của xã tắc.”

Nội thị Sử Sùng Quý từng đi sứ ở Gia Châu trở về[1], tâu rằng: “Có một tri huyện họ Vương tham nhũng, còn một tá quan tên là Chiêu Độ thanh liêm và có năng lực, xin bệ hạ thăng ông ta làm tri huyện.” Vua nói: “Hoạn quan đi sứ, biết phân biệt thiện ác, đáng khen, nhưng vì họ là người thân cận trong cung, nếu vội ban thưởng hay trừng phạt, người ngoài sẽ không phục, nên để chuyển vận sứ xem xét kỹ.”

(Sách 《Bảo Huấn》 chép rằng tri huyện Bình Khương Chiêu Độ thanh liêm có năng lực, còn tri huyện Kiền Vi Vương Cố tham nhũng. Chuyện này khác với 《Cố Sự》, nay theo 《Cố Sự》. 《Tống sử toàn văn》 chép lời Phú Bật và các quan giải thích rằng: Vua nghe lời tâu không thể không thận trọng, nếu để lọt một lời dối trá, nhỏ thì liên quan đến vinh nhục của hai người[2], lớn thì liên quan đến lợi hại an nguy của thiên hạ, há không thận trọng sao! Cách thận trọng, tuy là phòng ngừa từ nhỏ, nhưng cách phòng ngừa tốt nhất là không để lời nói của tả hữu ảnh hưởng. Chân Tông không vì lời một hoạn quan mà thăng giáng quan lại, cách nghe lời tâu thật là thận trọng vậy.)

[22] Ngày Quý Dậu, cho xây dựng Thần Ngự Điện thờ Thái Tổ ở Tây Kinh, lại lập Quốc Tử Giám và miếu Vũ Thành Vương.

[23] Ngày Giáp Tuất, ban chiếu cho phép dân được uống rượu ba ngày.

[24] Ngày Ất Hợi, ban chiếu bãi bỏ việc độc quyền bán rượu ở Tây Kinh, cho phép quan phủ bán men rượu như chế độ ở Đông Kinh.

[25] Lệnh cho Hàn lâm Thị giảng học sĩ Hình Bính và các quan biên tập các di tích lịch sử mà xa giá đã đi qua.

[26] Ngày Bính Tý, phong thêm hiệu cho Liệt Tử là Xung Hư Chí Đức Chân Nhân.

[27] Ngày Mậu Dần, Hình bộ thượng thư, Tri châu Thiểm Khấu Chuẩn đến triều, là do được triệu về. Lưu lại mười ngày, rồi trở về nhiệm sở.

[28] Ngày Kỷ Mão, Vua đến Long Môn, thấy trên vách núi có rất nhiều tượng Phật bằng đá, đã bị hủy hoại từ thời Hội Xương. Tả hữu tâu: “Nếu không do quan phụ trách tu sửa, thì không thể giữ được thắng tích này.” Vua nói: “Chi dụng quân quốc, không muốn dùng để phụng sự ngoại giáo, sợ hao phí quá nhiều.”

[29] Vua nhân xem 《Tây Kinh Đồ Kinh》, thấy có nhiều chỗ sơ sót. Ngày Canh Thìn, sai các đạo, châu, phủ, quân, giám chọn quan văn học hiệu chính lại bản đồ, bổ sung những chỗ thiếu sót rồi dâng lên, lệnh cho Tri chế cáo Tôn Cận đứng đầu việc hiệu đính. Tôn Cận tâu rằng các bản dâng lên từ các đạo thể thức không thống nhất, bèn xin lập thể lệ mới để tu sửa lại, được chuẩn tấu.

[30] Ngày Tân Tỵ, cho cháu của Bạch Cư Dị, nguyên Hình bộ thượng thư đời Đường đã về hưu, là Lợi Dụng làm Trợ giáo phủ Hà Nam, thường sai tu sửa phần mộ và ảnh đường.

[31] Khi Vua dừng ở huyện Củng, Thái tử Thái sư Lữ Mông Chính đang ốm vẫn cố đến yết kiến, không thể lạy, Vua sai trung sứ đỡ vào, ban cho ngồi, hỏi han rất lâu. Ngày Nhâm Ngọ, Vua đến phủ đệ của ông, ban cho áo mặc, đai vàng, đồ dùng, thuốc men, rượu quý, đều theo lệ dành cho tể tướng.

[32] Ngày Ất Dậu, sai Tể thần Vương Đán làm lễ tế cáo ở ba lăng, Lại bộ thượng thư Trương Tề Hiền làm lễ cáo ở các lăng của các hoàng hậu, vì xa giá sắp trở về Đông Kinh.

[33] Trước đó, các bậc phụ lão ở Tây Kinh khẩn khoản xin Vua lưu lại. Vua bảo các tể thần: “Chu Công là bậc đại thánh, xây dựng kinh đô ở nơi địa thế hiểm yếu, được chính giữa trời đất, nên hàng ngàn năm không thể bỏ, chỉ nay việc vận chuyển lương thực khó khăn mà thôi.”

[34] Ngày Đinh Hợi, xuống chiếu rằng quân mã theo hầu về kinh không được làm hại lúa má.

[35] Ngày Mậu Tý, xuống chiếu cho các quan tu sửa sáu miếu nhà Chu.

[36] Gia phong mộ của Phan Lương Ngọc, người hiếu tử thời Đại Lịch nhà Đường, và con trai là Quý Thông, vẫn cấm chặt củi.

[37] Ngày Canh Dần, xuống chiếu cho phủ Hà Nam lập miếu thờ Hán Cao Tổ thời Ngũ Đại.

[38] Ngày Tân Mão, xa giá từ Tây Kinh khởi hành, Vua nói với các quan phụ tá: “Trên đường về, lăng tẩm đã ở trong tầm mắt, tuy đã sai quan đi tế cáo, nhưng Trẫm sao có thể an nhiên đi qua được?” Ngày Nhâm Thìn, Vua cưỡi ngựa đến thôn Đông Tỉ, trấn Hiếu Nghĩa, dựng trại, cùng các thân vương hướng về lăng tẩm tế điện, các quan cận thần ở phía đông điện trại vái lạy. Mỗi lần dâng rượu và thức ăn, Vua cầm chén và đũa, lòng đau xót rơi lệ.

[39] Ngày Giáp Ngọ, dừng chân ở Trịnh Châu.

[40] Ngày Ất Mùi, sai sứ đi tế Trung Nhạc và các lăng Chu Tung, Khánh, Ý.

[41] Ngày Đinh Dậu, rời Trịnh Châu, sai sứ ban tặng lụa là cho ẩn sĩ Dương Phác[3], lệnh Lại bộ bổ nhiệm con trai ông làm quan gần để tiện phụng dưỡng.

[42] Tháng 3, ngày Kỷ Hợi, Vua từ Tây Kinh trở về.

[43] Ngày Tân Sửu, ra chiếu rằng các quân cấm binh trước đây chia đóng ở các quận gần do việc triều bái, nay đều triệu về.

[44] Ngày Nhâm Dần, ra chiếu rằng các con đường nhỏ dọc biên giới phía bắc dẫn ra ngoài, nếu không phải là nơi qua lại của các trường mậu dịch, đều lệnh cho Chuyển vận sứ nhân dịp đi tuần tra mà quy hoạch cắt đứt.

[45] Tần Hàn, Đô Kiềm hạt Kinh Nguyên, xin lệnh cho Vương Khắc Nhượng, Nhập nội cao ban, người chịu trách nhiệm ở lộ này, đến Trấn Nhung quân cùng lo việc quân. Vua nói: “Người chịu trách nhiệm chỉ nên tâu việc, nếu tham dự vào chính sự quân đội thì không thích hợp.” Bãi bỏ lời tâu. Sau đó có chiếu: “Các sứ thần chịu trách nhiệm dọc biên giới không được nhận sự sai phái của Bộ thự, Kiềm hạt để chỉ huy quân mã nhằm mưu cầu công lao và ban thưởng.”

(Sự việc này trong 《Thực lục》 chép vào tháng 10, nay dời vào đây.)

[46] Ngày Ất Tỵ, lấy Thôi Đoan, Hộ bộ phó sứ, Thủy bộ viên ngoại lang, làm Quốc tín sứ sang chúc mừng sinh thần Quốc mẫu nước Khiết Đan, Trương Lợi Dụng, Thị cấm, Cáp môn kỳ hậu, làm phó sứ.

[47] Ban cho Tiền Thục ba hộ giữ mộ, miễn thuế dịch cho họ.

[48] Thái Thanh lâu chứa 934 quyển sách và cuộn giấy ghi chép ngự chế và bút tích của Thái Tông, cùng 33.725 quyển sách thuộc bốn bộ. Hôm đó, Vua triệu tập các quan phụ chính đến vườn ngự, rồi lên lâu xem xét. Sau đó, Vua đến điện Cảnh Phúc Ngọc Thần và các gác Tường Loan, Nghi Phượng, đặt tiệc rượu và làm thơ. Vương Đán và các quan đều họa thơ, riêng Mã Tri Tiết từ chối vì không biết làm thơ, nhưng Vua không cho phép, nên ông cũng phải họa, rồi được ban tiệc dưới lầu.

Điện Ngọc Thần là nơi Vua nghỉ ngơi, giữa điện đặt long sàng, màn trướng đều làm bằng lụa vàng, không có hoa văn trang trí. Hai bên đông tây điện chứa hơn 8.000 quyển sách, Vua nói: “Đây chỉ là các kinh sách và sử sách chính thống đã được hiệu đính nhiều lần, tiểu thuyết và các sách khác không được đưa vào.” Sau đó, số sách tăng lên đến 11.293 quyển, cùng 753 quyển ngự tập và ngự thư của Thái Tông.

[49] Ngày Bính Ngọ, Đô chỉ huy sứ Nhan Sĩ Long của bộ tộc La Ổng Tỉnh thuộc tây nam man đến cống nạp đan sa. Sĩ Long thuộc bộ lạc xa xôi, chưa từng vào triều, nay mới đến lần đầu, được chiếu chỉ ban thưởng như các châu Cao, Khê.

[50] Ngày Đinh Mùi, Vua nói với các quan phụ chính: “Gần đây, khi đi thăm lăng tẩm, xe cộ đi qua đều do quan cấp, nếu bất đắc dĩ mới mượn của châu huyện. Trẫm đã bí mật sai người hỏi dân chúng, đều nói không bị quấy nhiễu, điều này khiến Trẫm rất yên lòng.” Vương Đán nói: “Mỗi khi triều đình tổ chức đại lễ hoặc bàn việc tuần du, dân chúng đều bị xáo trộn. Gần đây nghe nói lòng dân yên ổn, quả là do không bị quấy nhiễu.” Vương Khâm Nhược nói: “Xa giá đến đâu, dân chúng chỉ vui mừng nghe tiếng xe ngựa, reo hò trên đường, há có bị lao dịch gì đâu.”

[51] Ngày Tân Hợi, chém hai tên lính là Trương Kiệt thuộc đội Tán chỉ huy và Vương Chính thuộc đội Tán viên tại sở của họ. Kiệt và Chính đánh nhau trọng thương vì cờ bạc, nên bị đặc lệnh xử tử để răn đe quân cấm vệ.

[52] Ngày Quý Sửu, sai Binh bộ viên ngoại lang Thiệu Diệp chọn một viên sứ thần trong Tam ban có thể đảm nhận chức Tri châu Liêm Châu, trình tên lên. Châu này nắng nóng và lam chướng đặc biệt nghiêm trọng, trong mấy năm qua, bốn người giữ chức vụ ở đây đều qua đời, Vua rất thương xót. Lúc đó, Thiệu Diệp vừa đi tuần phủ vùng biển trở về, lại là người Liên Châu, Vua cho rằng ông am hiểu tình hình địa phương nên sai tiến cử quan viên. Sau đó, Thiệu Diệp tâu cử Điện trực Viên Kế Thiên, Vua ban chiếu phong làm Cáp môn kỳ hậu, sai đi nhậm chức.

[53] Triệu Đức Minh sai nha lại dâng 500 con ngựa, 200 con lạc đà để tạ ơn việc cấp bổng lộc. Vua ban chiếu ban tặng Triệu Đức Minh áo bào, đai vàng, đồ dùng và lụa. Theo chế độ cũ, khi dâng cống vật tạ ơn, chỉ ban thưởng cho sứ giả đến triều cống, nhưng Vua thấy Triệu Đức Minh thường xuyên dâng cống nên đặc biệt ban thưởng thêm. Triệu Đức Minh lại xin nhân dịp sứ giả đến kinh đô, mua các vật dụng cần thiết, Vua đồng ý. Vua nói với Vương Khâm Nhược rằng: “Triệu Đức Minh nhiều lần nói rằng Tây Lương Phủ vốn thuộc bộ hạ của hắn, hiện nay các nơi đều nộp con tin và sứ giả qua lại, hơn nữa Lý Kế Thiên vì đánh Tây Lương mà bị giết. Nay ý của Triệu Đức Minh là muốn cắt đứt liên lạc với Lục Cốc, khiến họ không thể liên hệ với các hộ dân vùng biên giới. Triều đình nếu không vỗ về, thì Triệu Đức Minh đủ sức báo thù. Gần đây, Tần Hán dịch thư của Lục Cốc Phiên dâng lên, chỉ nói bị Triệu Đức Minh xâm phạm, không có ngày nào yên ổn, hiện đang tập hợp quân lính để phòng bị. Có thể đem thư của Lục Cốc giao cho Trương Sùng Quý, để ông ta khuyên bảo Triệu Đức Minh.”

[54] Ngày Giáp Dần, tổ chức yến tiệc lớn ở vườn sau, thưởng hoa và câu cá. Vua làm thơ, các quan đều họa theo. Lại bộ thượng thư Trương Tề Hiền, Hình bộ thượng thư Ôn Trọng Thư, Công bộ thượng thư Vương Hóa Cơ vì đã lâu ở ngoài làm quan, xin miễn ứng chế, nhưng không được chấp thuận.

[55] Đêm đó, kinh sư có gió lớn, bụi vàng che kín trời, từ Đại Danh Phủ qua Kinh Kỳ, làm hại cây dâu và hoa màu, Đường Châu bị thiệt hại nặng nhất.

[56] Ngày Đinh Tỵ, ban chiếu cho thiên hạ thu nhặt và chôn cất những hài cốt vô chủ, đồng thời làm lễ tế.

[57] Trấn An tiết độ sứ Thạch Bảo Cát vào triều yết kiến, đã hơn một năm, dân chúng Trần Châu dâng biểu kể công trạng của ông, xin cho ông trở lại trấn nhậm. Ngày Kỷ Mùi, Vua ban chiếu khen ngợi Thạch Bảo Cát, và đồng ý với lời tâu.

[58] Ngày Canh Thân, miễn thuế cho quan lại kho tàng Hà Nam Phủ về số tiền và lương thực còn thiếu, tổng cộng 45 vạn.

[59] Tào Vĩ tâu rằng quân phiên bộ ở Trấn Nhung quân là tinh nhuệ nhất, các tướng hiệu đều do triều đình bổ nhiệm, phần nhiều đã già yếu, xin bãi bỏ, chọn người trong quân sung chức. Vua theo lời.

[60] Trương Sùng Quý, Kiềm hạt Phu Diên, tâu rằng: “Triệu Đức Minh đã nộp khoản xin quan lại, sứ giả cống phẩm nối nhau trên đường. Xin theo lệ phía bắc, chọn quan có tài năng, hiểu biết việc biên giới làm An phủ sứ vùng biên, các việc biên giới cho tùy nghi xử lý.” Vua nói: “Phía tây yên ổn, không có việc gì khác. Nếu Đức Minh giữ được phú quý, không lo triều đình mất ân tín. Thêm quan thuộc chỉ làm rối ren, chi bằng giao khanh yên tĩnh xử lý.”

[61] Ngày Ất Sửu, phong Tây thượng các môn phó sứ Tào Vĩ làm Tây thượng các môn sứ, để thưởng công lao bảo vệ biên cương của ông. Khi Tào Vĩ đóng quân ở Trấn Nhung, từng xuất quân đánh trận và giành được thắng lợi nhỏ. Quân địch đã rút xa, ông bèn dẫn theo đàn gia súc và xe cộ cướp được, hành quân chậm rãi trở về, khiến đội ngũ bị lỏng lẻo. Thuộc hạ lo lắng, bèn nói với Tào Vĩ: “Gia súc chẳng có ích gì, chỉ làm vướng bận quân đội, chi bằng bỏ lại, chỉnh đốn quân ngũ rồi trở về.” Tào Vĩ không trả lời, sai người do thám quân địch. Quân địch rút đi được mấy chục dặm, nghe tin Tào Vĩ ham lợi gia súc mà quân đội không chỉnh tề, bèn lập tức quay lại tập kích. Tào Vĩ càng hành quân chậm, đến nơi có địa lợi thì dừng lại chờ đợi. Khi quân địch sắp đến, ông sai người nói với họ: “Quân các người từ xa đến, ắt đã mệt mỏi, ta không muốn thừa cơ lúc các người mệt nhọc, xin hãy cho quân sĩ và ngựa nghỉ ngơi, lát nữa sẽ quyết chiến.” Quân địch đang mệt mỏi, đều vui vẻ chỉnh đốn quân ngũ rồi nghỉ ngơi.

Một lúc lâu sau, Tào Vĩ lại sai người nói với họ: “Nghỉ ngơi xong rồi, có thể cùng nhau giao chiến.” Thế là hai bên cùng thúc quân tiến lên, một trận đánh lớn đã đánh bại quân địch, rồi bỏ lại gia súc mà trở về. Sau đó, Tào Vĩ từ tốn nói với thuộc hạ: “Ta biết quân địch đã mệt, nên cố ý tỏ ra tham lợi để dụ họ. Khi họ quay lại, đã đi gần trăm dặm. Nếu ta thừa lúc họ còn hăng hái mà giao chiến ngay, thì còn có thể thắng bại. Người đi xa, nếu nghỉ ngơi một chút thì chân sẽ tê cứng không đứng dậy được, khí lực cũng suy yếu. Ta nhờ đó mà thắng được họ.”

(Việc này căn cứ theo 《Bút đàm》, không rõ thời gian, nay phụ chép sau khi ông được phong chức, cần tra cứu thêm.)

[62] Mùa xuân năm đó, ban chiếu rằng: “Các ty thuộc Thượng thư tỉnh cùng các tự, giám, và các cơ quan ở kinh đô, từ nay mỗi khi thu nhận người vào làm việc, đều phải triệu tập những người có hạnh kiểm tốt, không vi phạm pháp luật và không ảnh hưởng đến việc phục dịch ở châu huyện của họ, yêu cầu họ làm giấy bảo lãnh và thi thử, sau đó báo lên Ngự sử đài. Khi số người đủ mười người trở lên, lệnh cho Trung thừa và Tri tạp đề điểm thi thử viết chữ, nếu đạt yêu cầu thì báo lên cơ quan mình để thu nhận, nếu sai sót thì loại bỏ, lệnh cho triệu tập người khác. Việc thi tuyển bổ sung vào các chức vụ chính thức hàng năm, vẫn theo chỉ thị cũ, nếu có số lượng vượt quá định mức thì giảm bớt. Những người đã được thu nhận trước đây, vẫn giữ nguyên như cũ, đợi khi có sự cố hoặc chuyển đi nơi khác, thì những người này sẽ theo số lượng giảm định hiện tại làm định mức.”

(Sự việc này được ghi trong 《Hội yếu》 vào tháng giêng năm Cảnh Đức thứ 4, nay phụ lục vào cuối mùa xuân.)

[63] Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Thìn, ban chiếu rằng: “Nghe nói ở Phu Châu bắt dân đóng góp gỗ lớn để làm chuồng ngựa, nhưng những người thường nộp lại bị loại bỏ nhiều, sai sứ bãi bỏ việc này, đồng thời xét tội các quan lại đã tự ý bắt dân đóng góp.”

[64] Ngày Kỷ Tỵ, điều quân từ Hà Đông thay thế quân đồn trú ở Phu Diên, do biên giới phía bắc đã hết cảnh báo.

[65] Ngày Tân Mùi, Vua nói: “Gần đây ban chiếu cho Hà Đông chiêu mộ người địa phương vào các quân Quảng Nhuệ, Thần Hổ, và xây dựng doanh trại[4], vì Khiết Đan chưa bình định, những người này đều dũng cảm, lại quen thuộc địa hình sông núi, nên các tướng thường lo ngại số lượng ít, từng cho phép tiếp tục chiêu mộ. Nay biên phòng đã hết cảnh báo, nếu lập tức giảm bớt, tức là buông lỏng phòng bị, nhưng không thể để số lượng tăng mãi.” Bèn ban chiếu lấy số lượng hiện có làm định mức, nếu thiếu thì bổ sung.

[66] Ngày Nhâm Thân, ban thưởng cho Hoàng Phủ Trắc ở Đơn Châu được phục chức hai năm. Trước đây, trong châu có một nhóm cường đạo, quan phủ không bắt được, dân làng sợ sự hung bạo của chúng, không ai dám tố cáo, Trắc dụ dỗ và bắt được chúng, nên được khen thưởng.

[67] Thượng xem bản tấu của các quận ngoài về việc quan lại, bèn nói với các phụ thần rằng: “Gần đây, Thạch Phổ và Trương Sùng Quý liên tiếp tấu rằng Cung phụng quan Tào Tín lười biếng, bỏ bê công việc. Trẫm đã bí mật sai người điều tra, quả nhiên nghe nói Sùng Quý vì Tín giỏi đàn, một hôm trong tiệc quân, bảo Tín đàn, Tín lấy cớ lâu không đàn nên từ chối. Hôm sau Phổ lại ép, Tín lại cố từ chối, do đó cả hai cùng bới móc lỗi của Tín. Đại để người thường không thể không có yêu ghét, không thể không xem xét kỹ.”

[68] Ngày Quý Dậu, xuống chiếu rằng các quan ở Lĩnh Nam đều được bổ nhiệm vào mùa xuân hạ, cho phép đến mùa thu đông mới nhậm chức, để tránh nắng nóng và lam chướng.

[69] Ngày Giáp Tuất, Hộ bộ viên ngoại lang, Trực tập hiền viện, Phán Thái thường lễ viện Lý Duy tâu rằng: “Thiên hạ tế Xã Tắc, Thích Điện, các trưởng lại phần nhiều không thân hành, lại thiếu lễ Tam Hiến, rất không phải là ý nghĩa cầu phúc cho dân và tôn sư trọng đạo. Mong rằng lệnh cho các quan lễ theo đúng điển cũ.” Chiếu giao cho Hữu ty. Lại nói: “Theo 《Ngũ Lễ Tinh Nghĩa》, các châu huyện vào tháng hai mùa xuân và tháng tám mùa thu, ngày Đinh đầu tháng làm lễ Thích Điện, đều do Thứ sử, Huyện lệnh làm Sơ Hiến, Thượng tá, Huyện thừa làm Á Hiến, Châu bác sĩ, Huyện bạ úy làm Chung Hiến. Nếu có việc bận, thì các quan kế tiếp đảm nhiệm. Lại nói tế Xã Tắc cũng giống như Thích Điện, dùng Thiếu Lao, hành lễ Tam Hiến, trai giới ba ngày. Nay xin đều theo như cũ.” Chiếu theo đó.

[70] Ngày Đinh Sửu, Thượng nói với Vương Khâm Nhược rằng: “Gần đây xem 《Đường Thực Lục》, Cung Tông lên ngôi, thường thiết triều muộn, quần thần đứng chầu ở điện Tử Thần, có người ngã lăn. Thập Di Lưu Tê Sở khuyên can quyết liệt, gõ đầu xuống thềm rồng không ngừng, Tể thần tuyên dụ, mới lui. Cung Tông cảm động, sai Trung sứ đến an ủi. Bề tôi can gián làm tròn chức trách, rất đáng khen ngợi. Thế mà sử thần vì là đảng của Phùng Cát, coi như chó săn, thật là vô nghĩa. Nay biên soạn sách chuyện quân thần, càng nên phân biệt rõ thiện ác, những việc đời trước khen chê không đúng như thế này, nên phân tích lý lẽ, để giúp ích cho giáo hóa đời sau.”

[71] Vũ Thắng tiết độ sứ, Phò mã đô úy Ngô Nguyên Ỷ tự xin ra ngoài lĩnh chức trấn thủ, Vua nói: “Nguyên Ỷ kế tục trấn thủ các quận phiên trấn, cai quản dân chúng, vỗ về phong tục, tiếng tăm và thành tích đều rõ rệt. Nay đã chia quân cấm vệ ở Tịnh, Đại đóng đồn ở Trạch, Lộ, có thể nhân đó giao cho hắn.” Bèn hạ chiếu cho Nguyên Ỷ làm Tri châu Lộ Châu.

Trước đây, quân cấm vệ ở Tịnh, Đại, Trạch, Lộ chia nhau quản hạt, sau đó hợp lại ở Thái Nguyên. Vua cho rằng đất rộng quân đông, nếu lỡ mất cơ hội, có thể sinh ra chuyện, lại việc tuyển quân xem ngựa, nhận mệnh lệnh từ xa càng khó khăn. Vì thế chia quân nhung ở bảy châu Trạch, Lộ, Tấn, Ráng, Từ, Thấp, Uy Thắng, không còn thuộc Tịnh, Đại nữa, giao cho Nguyên Ỷ chuyên trách tổng quản.

(《Thực Lục》 chép việc đề hạt quân binh mã bảy châu vào tháng 7 năm nay ngày Quý Mùi, xét rằng Vua trong tháng này đã nói chia quân Thái Nguyên đóng đồn ở Lộ Châu, nay ghi chung lại.)

[72] Ngày Kỷ Mão, hạ chiếu từ nay ngày 2 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 đúc tiền chỉ thu một nửa công, mỗi năm chi một số tiền để chuẩn bị thuốc men.

[73] Ngày Tân Tỵ, Hoàng hậu Quách thị băng. Chu Điệu Hiến vương là con của Hoàng hậu. Vương mất, Hoàng hậu buồn thương sinh bệnh, rồi không qua khỏi. Hoàng hậu tính tình khiêm tốn, khoan dung nhân hậu, đặc biệt ghét xa xỉ. Khi họ hàng vào cung yết kiến, nếu ai ăn mặc lộng lẫy, nhất định sẽ bị quở trách. Có người nhờ việc nhà xin Hoàng hậu nói với Vua, Hoàng hậu không bao giờ đồng ý. Cháu trai xuất giá, vì nghèo muốn xin ân thưởng, Hoàng hậu chỉ cho đồ trang sức. Vua từng sai Hoàng hậu xem các kho ở Nghi Thánh điện, Hoàng hậu từ chối nói: “Kho báu của quốc gia, không phải chỗ đàn bà nên vào. Nếu Bệ hạ ban ơn cho lục cung, xin hãy ban phát có chừng mực, thiếp không dám nhận chiếu.” Vua càng thêm kính trọng.

[74] Ngày Nhâm Ngọ, Vua nói với các đại thần phụ chính rằng: “Hoàng hậu từ khi ở Đông cung phụng sự Trẫm, đến khi chính thức lên ngôi vị trung cung, luôn cẩn thận khiêm tốn, có công lao giúp đỡ bên trong, tuổi thọ không được dài, khiến Trẫm vô cùng thương tiếc.” Nhân đó nói: “Hai người anh của hoàng hậu đều mất năm 32 tuổi, nay hoàng hậu cũng chỉ đến tuổi đó[5], chẳng lẽ số mệnh dài ngắn đã có định số sao?” Quan Lễ bộ tấu rằng hoàng đế nên cởi tang phục sau 7 ngày, Tri Xu mật viện sự Vương Khâm Nhược xin áp dụng chế độ cơ chu dịch nguyệt, cởi tang phục sau 13 ngày.

Tể tướng triệu Kiểm thảo Sùng văn viện Trần Bành Niên hỏi về điển lệ cũ, Bành Niên nói: “Đường Đức Tông hoàng hậu họ Vương băng, Thái thường bác sĩ Từ Can bàn: Chu Cảnh Vương có tang hoàng hậu, sau khi an táng cởi tang phục, theo lễ là 7 tháng sau an táng, hoàng đế có thể cởi tang phục sau 7 ngày. Lại có nghị bàn của quan Lễ bộ đời Đức Tông là Liễu Miễn: Hoàng hậu để tang cha mẹ 13 tháng, theo chiếu chỉ triều đình thì cởi tang phục sau 13 ngày. Năm Hội Xương thứ 5, Đường Vũ Tông để tang mẹ của Cung Tông là Nghĩa An thái hậu 13 ngày rồi cởi tang phục, tức là không có điển lệ nào về việc hoàng đế để tang hoàng hậu theo chế độ cơ chu dịch nguyệt.” Vương Đán đem việc này tâu lên. Sau đó Vua nói với Vương Đán rằng: “Cởi tang phục sau 7 ngày là tuân theo điển lễ, nhưng vì có điều kiêng kỵ về âm dương nên phải thay đổi.” Bèn hạ chiếu đặc cách cởi tang phục sau 13 ngày.

(Việc kiêng kỵ âm dương không rõ là gì. Vương Khâm Nhược tâu xin chắc là vì lý do này, tiếc rằng sách Hội yếu không ghi chép chi tiết.)

[75] Ngày Ất Dậu, Vua hỏi Vương Đán rằng: “Hoàng hậu băng, có nên sai sứ sang báo tin với Khiết Đan không?” Vương Đán đáp: “Có thể sai sứ đi báo tin, hoặc để quan biên giới sao chép chiếu chỉ báo cho họ.” Vua nói: “Theo lễ thì nên có sứ báo tin, nhưng mỗi năm đều sai sứ, nghe nói việc cung ứng rất vất vả, nay lại đặc biệt sai sứ, thì từ nay hai nước hễ có việc lớn đều phải cho xe trạm đi lại, càng thêm phiền nhiễu.” Bèn hạ chiếu cho quan biên giới đợi khi phương Bắc sai người đến hỏi thì sao chép chiếu chỉ báo cho họ, đồng thời giải thích ý này.

[76] Các quan tâu rằng: “Các triều đại trước, khi hoàng hậu băng hà, không có quy định về việc không xử lý chính sự trong thời gian để tang. Ngày thành phục của Vương hoàng hậu triều Đường Đức Tông, Vua tiếp kiến các phiên thần ở Diên Anh môn, chứng tỏ rằng trong thời gian để tang vẫn nghe chính sự. Xin rằng sau khi bá quan cởi tang phục, hoàng đế xử lý chính sự ở điện tiện; sau khi hoàng đế cởi tang phục, mọi việc trở lại như thường lệ; ngày táng tạm và ngày hoàng đế cởi tang phục, xin đều không xử lý chính sự.” Vua nghe theo.

[77] Ngày Canh Dần, ban chiếu rằng các hộ làm muối ở Tứ Xuyên trước đây vì nợ thuế, bị tịch thu nhà cửa, nay đều ban trả lại.

[78] Vua ban chiếu riêng, lệnh cho quan Lễ bàn việc dâng thức ăn trên bàn ngà vào ngày sóc, vọng, trong thời gian để tang hoàng hậu có nên bỏ hay không, quan Lễ dẫn việc cũ của Minh Đức hoàng hậu để đối đáp. Ngày hôm sau, Vua đặc biệt sai nội thị đến Thái miếu và Hậu miếu dâng thức ăn.

[79] Ngày Nhâm Thìn, dời kho Tân y, lấy đất đó làm kho Tây của Nội tàng, vì kho chứa đã đầy tràn.

[80] Ngày Giáp Ngọ, lệnh cho binh lính sửa sang lăng tẩm, buổi trưa được nghỉ ngơi, gặp ngày mưa gió thì tạm ngừng việc.

[81] Tể tướng Vương Đán nhân lúc vào chầu, tâu rằng việc độc quyền bán rượu ở Hoài Nam, đã nhiều lần có tấu báo. Lại nói rằng các lộ đều đặt chức Chuyển vận sứ, lại cử quan đi kiểm tra thuế rượu, đua nhau lấy việc tăng thêm lợi nhuận làm công trạng, gây phiền nhiễu rất nhiều. Vua nói: “Việc nấu rượu nên có quy định cố định.” Vương Đán nói: “Các châu tuy đều có số rượu định sẵn, nhưng tùy thời mà tăng thêm không ngừng.” Vua nói: “Tài sản đất đai và chi phí của dân gian, vốn không thể tách rời, lợi nhuận thuế khóa sao có thể năm nào cũng tăng thêm? Đây chỉ là do quan lại tham lam công trạng, không thương xót dân khổ, Trẫm rất thương xót.” Bèn hạ chiếu cho Tam ty lấy số trung bình trong một năm, lập làm định mức, từ nay trong ngoài không được bàn thêm việc tăng thuế để mong được ân thưởng.

Vua nghe nói dân kinh thành thuê nhà quan ở lâu ngày, lại bị người trả giá cao hơn cướp mất, bảo tả hữu rằng: “Việc này chẳng phải quá khắc nghiệt sao? Tiên đế đã nhiều lần ngăn cấm, nay nên nghiêm khắc nhắc nhở các quan, không để việc này tái diễn.”

(Việc này căn cứ theo 《Bảo Huấn》 ghi sau việc định mức rượu, không rõ thời gian. Vương Xưng trong 《Đông Đô Sự Lược》 chép chiếu rằng: Lợi nhuận từ việc độc quyền bán rượu, vốn có quy định cố định, cầu lợi quá mức, là dung túng cho sự bóc lột. Từ nay trong ngoài không được tăng thuế, để dân được yên ổn.)

[82] Ngày Ất Mùi, Tể tướng Vương Đán được cử làm Viên lăng sứ lo việc xây lăng cho Đại Hành Hoàng hậu.

[83] Tháng 5, ngày Bính Thân mùng một, có nhật thực.

[84] Ngày Đinh Dậu, hạ chiếu rằng việc vận chuyển lương thực dọc sông ở các châu quân Hà Bắc, từ nay dùng quân sĩ làm việc, không được sai dân địa phương.

[85] Phong con trai của Thứ sử Cao châu là Điền Ngạn Y là Bảo Thuận Lang tướng Điền Thừa Bảo làm Ninh Vũ Lang tướng, Thổ quân Đô chỉ huy sứ Cao châu là Điền Tư Khâm làm An Hóa Lang tướng.

[86] Mẹ của Triệu Đức Minh là họ Võng qua đời, các quan ở biên giới xin cử sứ giả đến viếng hỏi. Vương Khâm Nhược nói: “Đây chỉ là tấu của các quan biên giới, Đức Minh chưa từng báo cáo.” Vua nói: “Người Di đâu biết lễ, chi bằng sai quan biên giới bảo hắn, đợi khi hắn tấu đến, liền cử sứ giả đến viếng tế, khởi phục, phúng tặng, cũng theo lệ của phiên thần.” Khâm Nhược nói: “Nghe nói Đức Minh có nhiều mẹ kế, sau này sao có thể ban ơn cho từng người được?”

Vương Đán nói: “Đức Minh nay tự xưng là thần thảo thổ, nếu triều đình không ban chiếu khởi phục, thì Đức Minh khó yên theo lễ.” Vua cho là phải, bèn phong cho Đức Minh chức Khởi phục Trấn quân Đại tướng quân, Tả Kim Ngô Vệ Thượng tướng quân, viên ngoại trí đồng chính viên, các chức khác như cũ. Sai Điện trung thừa Tuyên Thành là Triệu Chẩn làm sứ giả đến viếng tặng, ban cáo mệnh. Đức Minh dùng nhạc đón cáo mệnh đến trước linh cữu mẹ, hôm sau mặc áo tang nhận tặng vật, khóc mà nói: “Mẹ của kẻ phiên di qua đời, được thiên tử viếng tặng, ban mệnh khởi phục, ân sủng vinh hiển quá lắm.”

[87] Vua bảo các phụ thần rằng: “Quốc gia sưu tầm sách vở, số lượng ngày càng nhiều, nếu không phải thời bình vô sự, sao có thể được như vậy!” Bèn hạ chiếu chia đất kho Tây của nội tàng để mở rộng Bí các.

[88] Ngày Canh Tý, vì nắng nóng nên ban tiền cho quân sĩ khai thác gỗ ở Đảng Thành Xuyên, Hà Bắc, từ đó về sau lấy làm lệ hàng năm.

[89] Hùng Châu Lý Doãn Tắc ở ngoài thành đào kênh dẫn nước để cải tạo ruộng, quan ở biên giới tâu rằng kênh thông với sông Giới, sợ bị người Nhung nghi ngờ. Trần Nghiêu Tẩu xin lập tức dừng việc này. Vua nói: “Đào kênh để ngăn biên giới là việc cần thiết để phòng ngừa, nhưng lời thề và ước cũ không thể không tuân thủ[6].”

[90] Ngày Nhâm Dần, ra chiếu từ nay các thành trì ở biên giới, theo lời thề ước chỉ được tu sửa, ngoài ra việc di dời trại lũy, khơi thông sông ngòi, dù lớn hay nhỏ đều cấm chỉ.

(Sách Thực lục, Hội yếu, Bảo huấn ghi chép việc này đều có chỗ khác nhau, nay tham khảo và chỉnh sửa.)

[91] Vua bàn với các quan phụ tá về việc các quan trong triều có người tiến cử lẫn nhau, Vương Đán nói: “Tình thật hay giả dối của con người vốn khó biết, có người nói xấu nhưng thực ra là muốn tiến cử, có người khen ngợi nhưng thực ra là muốn hãm hại. Đường Lưu Nhân Quỹ từng giận Lý Kính Huyền không cùng ý kiến, muốn dùng kế để loại bỏ, bèn khen ông ta có tài làm tướng, rồi Kính Huyền cuối cùng làm hỏng việc quân, đó đều là những người không nghĩ đến lợi ích quốc gia.” Vua nói: “Nếu vậy thì những kẻ gian trá, đời nào cũng không thể dứt được.”

[92] Ngày Quý Mão, nước Đại Thực và Chiêm Thành đều sai sứ đến cống. Chiêm Thành dâng biểu xin ban cho vũ khí, sứ giả nói nước họ trước kia thuộc Giao Châu, sau chạy sang Phật Du, cách chỗ cũ 700 dặm về phía bắc. Vua ra chiếu ban thưởng hậu hĩnh, cho phép đi thăm khắp vườn thượng uyển và chùa chiền. Khi về, ban thưởng rất hậu.

[93] Ngày Giáp Thìn, Vua xuống chiếu cho các tù nhân trong thiên hạ, trừ những người bị kết án gần đây theo đức âm không được tha và phải xử theo thời hạn quy định, còn lại đều giao cho Thẩm hình viện và Đại Lý tự xét xử theo pháp luật, kịp thời tâu lên. Số vụ án lên đến hơn trăm, Vua lo ngại việc xử lý chậm trễ nên có chiếu này, nói với các quan tả hữu: “Gần đây thấy trong các bản tâu xử án có vụ thất thu tại châu quyền vụ, xác định tri châu phạm tội tư, lại nói rằng nên đến ngay quyền vụ. Nhưng chức trưởng lại chỉ lo việc châu, quyền vụ chỉ nên giám sát mà thôi, một khi bị kết tội tư, sẽ ảnh hưởng đến cả đời. Do đó, phải chọn những quan tòa công bằng, thông minh, nếu chỉ biết học thuộc văn bản pháp luật thì dễ bị vướng vào sự việc, không đáng khen.”

[94] Ngày Mậu Thân, Vua ra chiếu đổi Cổ ty thành Đăng văn cổ viện, Đăng văn viện thành Đăng văn kiểm viện. Sai Hữu chính ngôn tri chế cáo Chu Khởi và Thái thường thừa trực Sử quán Lộ Chấn cùng phụ trách Đăng văn cổ viện, Xu mật trực học sĩ Lại bộ thị lang Trương Vịnh phụ trách Đăng văn kiểm viện, kiểm viện cũng đặt trống. Trước đây có nội thần phụ trách Cổ ty, từ nay đều bãi bỏ. Người dân khiếu nại việc, trước hết đến Đăng văn cổ viện, nếu không được chấp nhận thì đến Đăng văn kiểm viện, nếu vẫn không được chấp nhận thì cấp giấy phán quyết, cho phép đón xa giá, nếu không cấp giấy phán quyết thì được đến Ngự sử đài tự trình bày. Trước đó, Vua nói với Vương Đán: “Mở rộng đường ngôn luận là việc cần thiết để trị quốc, nhưng gần đây việc này quá rối ren. Mỗi khi xa giá ra ngoài, đơn từ chất đống, đến khi xem xét kỹ[7], không có gì khả thi.” Do đó mới có sự thay đổi này. Chu Khởi là người Trâu Bình.

[95] Vua từng nói với các quan cận thần: “Đăng văn viện mỗi khi dâng sớ, có những lời nói về cơ mật mà ngông cuồng, đều giao cho Kinh phủ xét xử. Hôm trước một nhà sư bị xử tội đồ, hôm qua một nhà sư khác lại lấy cớ bệnh tật để thoái thác. Nên bảo các quan thường xuyên xem xét, không để trong cùng một ngày mà cùng tội lại xử phạt khác nhau, khiến dân chúng nghi ngờ.”

(Việc này theo 《Bảo huấn》 là vào năm thứ tư, nay tạm ghi lại.)

[96] Ngày Quý Sửu, Đô kiềm hạt kiêm Đại đô kiềm hạt Hàn Thủ Anh tâu rằng: “Lương thảo của bản lộ khiến dân phải vận chuyển vất vả. Nay biên giới yên ổn, xin lưu lại hơn một vạn kỵ binh, đều đóng quân ở Hà Đông.” Vua nói: “Quan biên thần có kế hoạch này, thực là thấu hiểu ý muốn thương dân, nên chuẩn y lời tâu.” Lệnh cho các lộ bố trí theo đó thi hành.

[97] Ngày Bính Thìn, Tư Đạc Đốc sai 18 thủ lĩnh Lục Cốc đến triều cống.

[98] Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu cho Duyện Châu tăng thêm 20 hộ canh giữ mộ Khổng Tử. Lại xuống chiếu cho Trịnh Châu dùng 3 hộ canh giữ mộ Bùi Độ đời Đường.

[99] Xuống chiếu rằng: “Nghe nói từ kinh đô đến Vĩnh An, các châu huyện dọc đường[8], vì sắp đến kỳ xây lăng viên cho Hoàng hậu, đều bắt dân dọn đường. Đang lúc nắng nóng, lại cướp mất thời gian làm ruộng, nên lập tức cho họ giải tán, đến lúc đó sẽ điều quân lính đến làm việc.”

[100] Ngày Tân Dậu, Tam ty và Đề cử ty dâng lên quy định mới về số lượng nhân viên và lương bổng của 82 cơ quan kho vụ ở kinh đô, xin lấy làm định chế vĩnh viễn, Vua đồng ý.

[101] Ngày Giáp Tý, Quy Nghĩa tiết độ sứ Tào Tông Thọ sai sứ đến triều cống.

(Thực lục chép việc này là Qua Châu, Sa Châu sai sứ đến cống, tháng nhuận ngày Kỷ Mão lại chép Quy Nghĩa tiết độ sứ Tào Tông Thọ sai sứ đến cống. Xét Qua Châu, Sa Châu chính là Quy Nghĩa. Hội yếu và bản truyện năm này chỉ có một lần vào cống, nay chỉ chép một lần.)

[102] Ngày Ất Sửu, ban chiếu rằng: “Trẫm tinh cầu chính trị, thăm hỏi bề tôi, đều muốn hết lời can gián, nên không được giấu giếm. Có người dâng thư bàn việc, lại xin giữ lại trong cung mà không ghi tên, phần nhiều liên quan đến lời vu cáo xảo trá, rõ ràng là sự lừa dối và chê bai, đã làm tổn hại đến công luận, nên phải bỏ tệ xấu này. Từ nay, các quan văn võ khi dâng biểu tấu, không được xin giữ lại trong cung, nếu việc liên quan đến cơ mật, cho phép lên điện tự trình bày. Nếu có tấu trình về năng lực của quan lại, cũng phải rõ ràng trong thư tấu, sẽ xét lại. Trung thư, Xu mật viện quản lý các chức vụ, nên hết lòng thăm hỏi, khen thưởng hay cách chức, đều thuộc về triều đình. Các chuyển vận sứ ở các lộ, các trưởng quan ở các châu, phải xét xử những thuộc quan có hành vi bất pháp, nếu việc xảy ra mà không báo cáo, sẽ bị trách phạt; nếu có thành tích trị an, cũng không được giấu giếm. Gián quan, Ngự sử phải tuân thủ chức trách, không được lơ là, lệnh cho Thượng thư đô tỉnh kiểm tra và cử lên.”

Trước đó, Vua nói với Vương Đán: “Các quan khi lên điện tấu sự, có người không ghi tên mình mà xin giữ lại trong cung, đều là để công kích khuyết điểm của người khác, phơi bày chuyện riêng tư. Nếu nghe theo một chiều, thì không đáng tin, nếu công khai, lại trái với ý họ. Trước đây đã lệnh cho Đỗ Hạo, Trần Bành Niên kiểm tra các việc mật gián trước đây, có thể đặt thành điều lệ, và cảnh cáo các quan, bảo họ làm tròn chức trách.” Vì thế ban chiếu này.

(Sách 《Ngũ triều hội yếu》 ghi việc này vào năm Hàm Bình thứ 4, là sai, nay không theo.)

[103] Từ bộ viên ngoại lang, tri Hoạt Châu Chu Bác bị giáng làm huyện lệnh Tương Âm. Trước đây, Bác dâng sớ nói rằng năm sao sẽ hợp ở vùng sao Tinh, Trương, thuộc khu vực Chu, xin nhà Vua mùa hạ này đến Lạc Đô phong Trung Nhạc, đến mùa thu mới trở về triều. Khi chiếu chỉ về việc triều lăng ban xuống, Bác lại nói rằng việc triều lăng nên làm vào tiết Hàn Thực, và việc bái yết mộ phần là việc riêng của gia đình, không đủ để động đến tinh tú. Những điều ông trình bày đa phần là những việc yểm bùa. Đến lúc này, ông lại nói: “Xa giá trước đây ở Lạc chỉ hơn hai mươi ngày. Khi trở về kinh hơn một tháng thì xảy ra tang sự trong cung. Lời ngu muội của thần đã nhiều lần ứng nghiệm.” Và ông còn tự phô trương để mong được tin dùng. Vua đem hết những lời này nói với các đại thần, Vương Đán nói: “Triều lăng là việc hiếu của đế vương, há phải việc riêng sao? Lời nói của Bác cuồng vọng, nên trị tội.” Vì thế ông bị giáng chức. Khi Bác đi đến Thái Bình, cùng tri châu Hà Mông uống rượu, lại đưa sớ cho Mông xem, bị Mông tâu lên, nên bị giáng làm châu biệt giá. Mông là người Hồng Châu.

[104] Cấm các lộ thừa thụ sứ thần buôn bán trục lợi, sai khiến thợ thuyền, cùng những người giàu có qua lại, kẻ nào vi phạm sẽ bị trị tội nặng. Các quan lại châu quận có ai dâng sớ xin ân huệ, không được nhận.

[105] Tháng này, lần đầu đặt trường bán tạp hóa.

[106] Chiếu rằng: “Nghe nói ty Điếm trạch tăng tiền thuê nhà của những hộ đã thuê lâu ngày, chỉ gây thêm phiền nhiễu, hãy bãi bỏ ngay.”

[107] Tháng 5 nhuận, ngày Mậu Thìn, chiếu sai giảm vật cống hàng năm của 39 châu quân như Kiếm, Lũng, và bãi bỏ hoàn toàn việc cống của 27 châu quân như Quỳ, Hạ. Mỗi năm vào ngày Chánh đán chỉ cần dâng biểu tâu lên, các quan lại châu quận không được lấy danh nghĩa cống tiến để bắt dân đóng góp.

(Có chiếu thư này, có thể tham khảo tháng 4 năm Trị Bình thứ 4, trong 《Hội yếu》 liệt kê chi tiết tên các vật phẩm, cần xem thêm.)

[108] Chuyển vận sứ Hà Bắc, hình bộ viên ngoại lang Lư Diễm tâu rằng đã nhận chức được sáu năm, xin trở về kinh, được chấp thuận. Ngày Kỷ Tỵ, thăng Diễm làm lại bộ viên ngoại lang, để thưởng công lao của ông.

[109] Chiếu rằng các đền miếu trong và ngoài kinh thành, phái quân tuần tra giám sát, những kẻ cướp bóc, nghe nói lấy cớ dò xét việc để đòi tiền của, nên lệnh cho Khai Phong phủ điều tra bắt giữ và xử nghiêm, lại giao cho Điện tiền và Thị vệ ty thường xuyên kiểm soát.

[110] Ngày Tân Mùi, Thái thường thừa, Thông phán Mạnh Châu là Lý Mạc tâu rằng: “Chiếu thư ngày Ất Sửu quy định, các quan văn võ khi dâng chương sớ, không được xin lưu lại trong cung, mà phải giao ra ngoài thi hành. Nếu hoàng đế xem xét chương sớ, không được lưu lại trong cung, bốn phương nghe tin, sẽ cho rằng thiên tử lưu lại một tờ giấy trong cung cũng bị chiếu thư ràng buộc. Hoàng đế tất phải biết hết mọi việc trong thiên hạ, nếu lên điện bàn luận tấu chương, không nghe lời của kẻ tiểu thần, làm sao thấu hiểu được lòng trung thành, nếu là việc cơ mật không thể tiết lộ ra ngoài, há lại bắt phải thi hành? Thần nghe rằng thời Đường Hiến Tông, Lý Giáng xin khen thưởng những lời can gián trong cung, Hiến Tông nói: ‘Khanh trình bày rất công bằng, có ích cho Trẫm, nay Vi Xử Hậu, Lộ Tùy có nhiều sớ can gián, lời lẽ rất trung thành, sợ khanh không biết.’ Như vậy thời đó cũng có chế độ lưu lại sớ can gián trong cung. Hơn nữa, bề tôi trung thành cũng muốn dùng lòng thành kết nối với minh chủ, bệ hạ cũng muốn hiểu rõ tài năng của các quan, nếu đều giao ra ngoài, thì còn ai dám dâng lời? Mong bệ hạ thu hồi chiếu thư trước, để mở rộng đường ngôn luận.”

Vua nói: “Mạc chưa hiểu ý Trẫm, chiếu thư trước chỉ là để ngăn chặn những kẻ vu cáo, nếu là việc cơ mật quân quốc không thể giao ra ngoài, thì không thuộc phạm vi này.” Bèn dùng chiếu thư tay để dụ bảo.

(Lý Mạc, lại xem tháng 2 năm Tường Phù thứ hai.)

[111] Ngày Nhâm Thân, Vua ngự điện Sùng Chính thi các hiền tài phương chính là Trần Giáng, chức Trứ tác tá lang; Sử Lương, huyện lệnh huyện Lật Thủy[9]; Hạ Tủng, chức Chủ bạ huyện Đan Dương. Trước đó, Vua nói với các tể thần: “Gần đây mở khoa thi này là để cầu người tài giỏi, thức thời. Nếu chỉ xét văn nghĩa, thì chỉ có người học rộng mới đỗ được[10]. Nếu có người tài giúp đời, làm sao biết được? Trẫm cho rằng ý chỉ của Lục kinh, tâm dụng của thánh nhân, vốn khác với sử sách[11]. Nay đề thi nên dùng nghĩa kinh, kết hợp với thời vụ.” Vương Đán tâu: “Thần mỗi lần được nghe lời hỏi của bệ hạ, khi nói đến Nho giáo, chưa từng không lấy Lục kinh làm đầu. Gần đây văn phong thay đổi lớn, thực là do bệ hạ giáo hóa.” Vua bèn sai hai chế soạn đề thi, chọn lấy mà hỏi. Bài thi của Giáng và Tủng đều đỗ thứ tư, bèn thăng Giáng làm Hữu chánh ngôn, Tủng làm Quang lộc tự thừa.

Tủng là người Đức An, con của Thừa Hạo.

[112] Ngày Giáp Tuất, lấy Lý Duy, chức Hộ bộ viên ngoại lang, Trực tập hiền viện, làm Binh bộ viên ngoại lang; Vương Tằng, chức Trứ tác lang, Trực sử quán; Tôn Cận, chức Thái tử trung doãn, Trực tập hiền viện, đều làm Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo. Trước đó, Vua nói với các tể thần: “Lý Duy, Vương Tằng, Tôn Cận đều là người văn hạnh đáng khen, nên triệu đến thi.” Hôm sau, xem bài thi xong, Vua nói: “Tằng rất hiểu thể thức chiếu cáo, mà thư pháp cũng đẹp, đó là do chăm chỉ không ngừng.” Bèn cùng bổ nhiệm.

[113] Ngày Đinh Sửu, ban chiếu rằng từ nay những việc Trung thư xử lý liên quan đến quân cơ và chức vụ trong cung thì phải báo cho Xu mật viện, còn những việc Xu mật viện xử lý liên quan đến dân chính và quan lại triều đình thì phải báo cho Trung thư. Lúc đó, Trung thư ra lệnh cho Bí thư thừa Dương Sĩ Nguyên làm Thông phán Phụng Tường phủ, còn Xu mật viện lại ra lệnh cho Sĩ Nguyên giám sát kho hương dược trong cung. Hai cơ quan không biết việc của nhau, đều ban sắc chỉ riêng, nên mới có chiếu này.

(Dương Sĩ Nguyên, chưa rõ lai lịch.)

[114] Ngày Giáp Thân, Vua xem sổ ghi tù nhân của Khai Phong phủ, thấy có mấy người bị giam cùm nhiều tháng, án đã gửi xuống Pháp tự nhưng chưa được xử. Vua chỉ cho Vương Đán và các quan hỏi: “Vì sao thế?” Vương Đán tâu: “Vì các quan xét án còn thắc mắc về hình danh. Nhưng thần từng phụ trách Thẩm hình, thấy án tụng bị trì hoãn có khi hơn trăm ngày, có lẽ do các quan xét án sắp hết hạn khảo sát nên cố tình gây khó dễ, kéo dài thời gian chờ người thay thế để tránh phải tâu trình.” Vua nói: “Chỉ cần xử án công bằng, sao phải lo tránh né?” Bèn ban chiếu yêu cầu quan chủ phán thường xuyên răn dạy, không để tái diễn.

[115] Ngày Bính Tuất, ty Bộ thự Diên Châu tâu nhận được công văn của Triệu Đức Minh, nói rằng việc Bảo An quân sửa chữa nhà trạm khiến dân biên giới lo sợ bất an, xin dừng việc này. Vua đồng ý.

[116] Ban chiếu: “Các sứ thần Tam ban có nhiều người tài năng, triều đình tuy đã khen thưởng thăng chức, nhưng e chưa đầy đủ. Nên lệnh cho Lại bộ Thượng thư Trương Tề Hiền cùng ba mươi người khác, mỗi người tiến cử hai người trong chức Cung phụng quan, Thị cấm, Điện trực có mưu lược, dũng cảm, hiểu biết việc biên giới, sẽ bàn việc ưu tiên thăng chức.”

[117] Ngày Canh Dần, Vua bàn chuyện thời Ngũ đại với các phụ thần, nói: “Phùng Đạo từng phục vụ bốn triều đại mười vị Vua, luôn xu nịnh thuận theo ý Vua để tránh họa. Làm bề tôi như thế không thể lấy làm gương được.”

[118] Sai sứ đến Ngự sử đài, Tam ty, Khai Phong phủ, Điện tiền Thị vệ ty để phân loại tù nhân. Ngày Nhâm Thìn, Vua ngự tại điện Sùng Chính xét hỏi, phần lớn được giảm tội.

[119] Long Đồ các đãi chế Trần Bành Niên tâu rằng: “Xin lệnh cho các cơ quan hữu trách xem xét định rõ quy chế thi cử về thơ phú và tạp văn của tiến sĩ, rồi giao cho Lễ bộ Cống viện tuân theo thi hành. Lại xin cho phép những người được tuyển chọn trong nội bộ ứng thi khoa Hoành từ Bạt tụy, người học kinh điển được nộp đơn tự tiến cử để thi sách vấn về kinh nghĩa, nhằm khuyến khích việc học Nho.” Chiếu rằng việc quy chế thi cử ở Cống viện nên giao cho Trần Bành Niên cùng với đãi chế Thích Luân, trực sử quán Thôi Tuân Độ và Khương Tự bàn định, còn lại thì lệnh cho Trần Bành Niên soạn thảo các điều lệ rồi tâu lên.

[120] Ngày Quý Tỵ, chiếu rằng: “Trước đây, Trung thư, Xu mật viện và Tam ty tâu việc được chỉ dụ, thì ngay trong ngày phải tâu lại. Duy có Khai Phong phủ được chỉ dụ, có khi lập tức giao ra ngoài thi hành. Việc xét xử hình án, sợ chưa được xem xét kỹ càng, từ nay nên theo lệ của Tam ty.”

[121] Ngày Giáp Ngọ, chiếu rằng vì biên cương đã yên ổn, nên ngừng việc chuyển vận lương thực, các châu quân ở Hà Đông, Thiểm Tây năm nay thuế hạ thu đều chỉ nộp tại địa phương.

[122] Tháng 6, ngày Bính Thân, Trung thư, Môn hạ và Xu mật viện tâu rằng: “Chúng thần thấy gần đây có chiếu dụ, các quan tể chấp và cận thần đều được lệnh phân biệt người tốt kẻ xấu, nhưng việc Trung thư, Xu mật viện tiếp đãi khách, dù đã nhiều lần định ra quy chế, vẫn chưa được thỏa đáng. Vì nhiệm vụ cơ mật, cần phải thận trọng nghiêm ngặt, nhưng trong việc chính sự, cũng cần tham khảo ý kiến. Nếu sớm tối đều tiếp khách, sợ rằng việc cơ mật sẽ bị chậm trễ, nhưng nếu khó khăn trong việc tiếp kiến, thì lợi hại cũng không thể bày tỏ. Lại nữa, việc bàn luận ở các sảnh khác nhau, có khi ý kiến không thống nhất, muốn theo đúng công lý, xin ban hành quy chế lâu dài. Xin từ nay, các quan ngoại nhiệm được thay về kinh, cùng các quan tại chức ở kinh có việc công, được phép đến Trung thư, Xu mật viện họp sảnh để bàn bạc, trừ những việc khẩn cấp. Không vì việc công, không được đến sảnh.” Chiếu theo lời tâu.

[123] Ngày Kỷ Hợi, châu Trịnh tâu rằng nước sông Tác dâng cao, cuốn trôi 42 hộ dân huyện Huỳnh Dương, có người chết đuối. Chiếu cấp lương thực cho các gia đình đó, giao cho quan trưởng lại chăm sóc.

[124] Ngày Ất Tỵ, vì trời nắng nóng, giảm một nửa công việc hàng ngày của thợ thuyền ở kinh thành, và ban tiền.

[125] Ngày Bính Ngọ, chiếu cho Hoài Nam chuyển vận ty, dân châu Dương hái củi đót, trước đây quan thu thuế 2/10, từ nay bãi bỏ.

[126] Ngày Đinh Mùi, Vua nước Bồ Đoan sai sứ đến cống.

[127] Lệnh cho các quan Hàn lâm Thị độc, Hàn lâm Thị giảng và Xu mật trực học sĩ, mỗi người tiến cử một viên quan thường tham tri để sung chức Ngự sử.

[128] Ngày Mậu Thân, Vua nói với các quan phụ tá: “Gần đây Trẫm đã ra chiếu cho các quan Gián quan và Ngự sử, mỗi người phải thi hành chức trách và dâng lời tâu bày. Hôm qua, Hữu Chánh ngôn Trần Bành Niên xin định điều lệ cho bộ Cống, khôi phục khoa Hoành từ, tuyển chọn người tài giỏi về kinh thuật. Thị Ngự sử Giả Tường đi sứ trở về, tâu rằng việc mua lụa ở Châu Túc làm phiền dân. Những việc này đều có thể chấp nhận[12], Trung thư nên lập sổ ghi chép, bắt đầu từ Bành Niên và Tường. Cần xem xét lại các việc có thể thực hiện và không thể thực hiện, cuối năm tâu lên. Nếu có thay đổi chuyển đi, thì không cần đợi đến cuối năm mới ghi chép tâu lên.”

(Giả Tường, không rõ lai lịch.)

[129] Ngày Kỷ Dậu, Giả Tường tâu rằng Quốc tử Bác sĩ, Thông phán Châu Đài là Cung Thụ, quản lý gia đình không tốt, không thể kiềm chế được người vợ hung dữ, theo chiếu phải ly dị, bị triều đình chê cười, không xứng đáng làm quan gần dân. Vua ra chiếu cho chuyển ông ta làm Giám trường vụ.

[130] Triệu Đức Minh sai sứ dâng 150 con ngựa, để giúp tu sửa lăng mộ của Hoàng hậu.

[131] Chu Oánh, Đô bộ thự ở Bân Ninh Hoàn Khánh, tâu rằng theo chiếu phải cho quân Thần Dũng trở về doanh trại, nhưng vì quân số ở đạo này không nhiều, nên không dám tuân chiếu. Vua nói: “Vùng biên giới phía Tây khó kiếm được cỏ lương thực, hàng năm phải bắt dân chuyên chở. Nay đã ngừng cảnh báo, lẽ ra phải giảm bớt. Oánh ngu muội không hiểu việc, lại cố chấp, không có lòng thương dân, cũng có thể biết được.” Ngày Tân Hợi, chuyển Oánh làm Tri Châu Thiền, lệnh cho Tây Thượng Các môn sứ Tào Vĩ thay Oánh làm Đô kiềm hạt Bân Ninh Hoàn Khánh, kiêm Tri Châu Bân.

(Việc bổ nhiệm Vĩ làm Tri Châu Bân, theo thực lục là ngày Quý Sửu, nay theo bản truyện hợp lại vào đây.)

[132] Viện Tam Ban bổ nhiệm Trương Hi Chính, người quy thuận từ U Châu, làm Giám áp Châu Tân. Vua nói: “Phong thổ Nam Bắc khác nhau, chuyến đi này chắc chắn không vui, có thể đổi bổ nhiệm ở các châu quân thuộc lộ Kinh Hồ Bắc.”

[133] Ra chiếu rằng các Nha hiệu ở các châu đã mãn nhiệm kỳ, theo lệ bổ làm Tam Ban tá chức, từ nay các Phiên trấn đặc biệt bổ làm Phụng chức.

[134] Ngày Nhâm Tý, Ty Thiên tâu: “Năm ngôi sao lẽ ra phải tụ ở cung Thuần Hỏa, nhưng lại gần mặt trời, cùng lúc đều ẩn mình. Theo chiêm nghiệm có nói: ‘Năm ngôi sao không dám tranh ánh sáng với mặt trời, giống như bề tránh ánh sáng của Vua.’ Đây là việc chưa từng có trong hàng nghìn năm, xin giao cho sử quan ghi chép để làm rõ sự việc đặc biệt này.” Vua nghe theo.

[135] Ngày Quý Sửu, lấy Xu mật trực học sĩ, Hộ bộ viên ngoại lang Lưu Tống làm Tri Tịnh châu, cùng quản lý việc quân sự Tịnh Đại.

Ban đầu, Vua nói với Phùng Chửng rằng: “Thái Nguyên là nơi trọng yếu ở cửa ngõ phía bắc, nay biên cảnh tuy yên ổn, nhưng vẫn cần đại thần trấn giữ. Như Trương Tề Hiền, Ôn Trọng Thư đều có thể đảm nhận, nhưng vì họ từng giữ chức vụ quan trọng trong triều, sau khi nhận mệnh, có thể sẽ từ chối, lại phải thay đổi, nên triệu họ đến Trung thư hỏi ý, nếu họ đồng ý thì trao chức.”

Khi [Trung thư] triệu Trương Tề Hiền đến hỏi, ông đáp: “Tịnh châu là trọng trấn, kiêm quản binh mã Nhạn Môn[13], là nơi triều đình gửi gắm tâm phúc. Nhưng trước đây tôi từng làm Tri Kinh Nam, Thanh Xã, đều là nơi nội địa, còn bị cận thần gièm pha, muốn đẩy tôi vào chỗ nhàn tản, nay nếu giữ biên trấn, quản việc quân sự, sao dám tự bảo đảm không mắc lỗi? Tuy nhiên, lòng báo quốc của tôi, đến chết mới thôi, nếu sau này có nơi nguy nan, dám không tận lực sao?”

Lại triệu Ôn Trọng Thư đến hỏi, ông đáp: “Trọng trấn phiên phương, không dám từ chối, nhưng đã giữ chức Thượng thư được mười năm, lại có con muộn, tuổi còn nhỏ, nếu được đổi chức Đoan quỹ, cho phép đem gia đình đi theo, ban thêm lương bổng Đô bộ thự, dám không nhận mệnh.”

Phùng Chửng tâu lên. Vua nói: “Lời Trương Tề Hiền nói bị người gièm pha, đó là lỗi của ông ta, thực ra là họ không muốn đi, đừng ép họ.” Bèn lệnh cho Lưu Tống nhận chức.

Vua lại nói với Phùng Chửng: “Trương Tề Hiền, Ôn Trọng Thư thường nói triều đình nên chọn người tài giỏi, đừng để họ bị chìm đắm ở chức thấp, nhưng khi lệnh cử quan[14], họ không lập tức ứng chiếu, đến khi bị thúc ép cũng chậm hơn người khác, há chẳng sợ lời nói và việc làm trái ngược sao?”

[136] Bấy giờ, Tịnh Đại đô bộ thự, Chiêu Đức tiết độ sứ Cát Bá già yếu không làm việc được, Vua xuống chiếu đổi Bá đến Diệu Châu. Lấy Phó bộ thự Huyên Diên lộ là Thạch Phổ làm Phó bộ thự Tịnh Đại, xuống chiếu cấp 2.500 quan tiền công sứ. Phổ viện dẫn lệ của Lôi Hữu Chung xin cấp mỗi năm 5.000 quan, Xu mật viện nói Hữu Chung trước đây không có lệ này. Phổ lại nói Lý Hán Siêu ở Hà Sóc thời trước, mỗi năm cấp đến hàng vạn quan, nay Tịnh Đại đóng nhiều quân, không đủ để khao thưởng. Vua không nghe theo.

[137] Xuống chiếu bỏ hết thuế tăng thêm gần đây đối với ruộng dân ở các châu Trấn, Triệu. Trước đây, Chuyển vận ty sai quan xét ruộng đất hàng năm, rồi tăng thuế, Vua lo làm phiền dân, nên bỏ đi.

[138] Ngày Ất Mão, chôn cất Trang Mục hoàng hậu ở phía tây bắc Vĩnh Hi lăng. Lúc đầu định thụy hiệu, sai Tông chính khanh cáo miếu, Vương Khâm Nhược nghi việc này, nhân khi vào chầu tâu rõ. Vương Đán nói: “Theo lệ cũ triều ta, thụy hiệu Chiêu Hiến thì Thái úy đem trăm quan cáo miếu, thụy hiệu Hiếu Minh thì chỉ Tông chính khanh cáo miếu. Nay nên theo lệ Hiếu Minh.” Vua bảo Khâm Nhược: “Đều có lệ cũ, không đáng nghi ngờ.”

[139] Dân các châu Hùng, An Túc, Quảng Tín bị đói. Ngày Mậu Ngọ, xuống chiếu cho Chuyển vận ty Hà Bắc bán rẻ một vạn hộc gạo để cứu đói.

[140] Các châu Đặng và Nam Kiếm báo có lụt, đều sai sứ đến vỗ về.

[141] Ngày Kỷ Mùi, Vua xem các bản tấu của các châu do Ngân đài ty dâng lên, thấy lính phục dịch ở sở Thái tạo núi Nam, Tây Kinh ngày nào cũng có người bỏ trốn, bảo Vương Khâm Nhược rằng: “Những người này hoặc vì phục dịch quá nhiều, hoặc vì cơm áo không đủ, nên sai sứ đi ngay xét sự thực.”

[142] Ngày Canh Thân, Tri Xu mật viện Vương Khâm Nhược vì sao năm hành tinh tụ ở Đông Tỉnh, mây lành xuất hiện, dâng biểu chúc mừng, Vua xuống chiếu giao cho Sử quán.

(Xét: Kỷ, Chí đều không chép việc năm sao tụ ở Đông Tỉnh, không rõ Khâm Nhược căn cứ vào đâu, hay là việc Ty thiên tâu ngày Nhâm Tý? Nên khảo xét.)

[143] Xu mật trực học sĩ, Lại bộ thị lang Trương Vịnh bị mụn nhọt mọc ở đầu, gây khó khăn khi đội mũ, xin được làm tri châu Dĩnh Châu. Vua thấy Trương Vịnh là người công bằng, chính trực, có uy tín, lại từng làm tốt ở Ích Châu, không nên để ông ở châu nhỏ, bèn sai Trung thư triệu đến hỏi, định cử ông làm châu Thanh Xã hoặc Chân Định, để ông tự chọn. Trương Vịnh từ chối không nhận. Vua lại hỏi về Kim Lăng, Trương Vịnh vui vẻ xin đi. Ngày Tân Dậu, bổ nhiệm Trương Vịnh làm tri châu Thăng Châu.

[144] Vua ra chiếu cho phép dân nghèo được canh tác trên đất hoang ở bốn vùng ngoại thành kinh sư.

[145] Tri châu Diên Châu Hướng Mẫn Trung tâu: “Trước đây, hơn hai nghìn dân Hạ Châu là Lưu Nghiêm đến xin quy phụ, Vua đã ra chiếu cấp đất hoang ở huyện Diên Xuyên cho họ, để họ có thể tích trữ lương thực. Nơi họ ở lại là con đường trọng yếu của Tuy Châu, trước đây khi bộ tộc của Đức Minh xâm phạm, nhiều người đã bị bắt giết, thực sự là lá chắn cho Phu Diên. Gần đây, Đức Minh nhiều lần gửi thư xin cho Lưu Nghiêm trở về, nếu để họ đi chắc sẽ gặp tai họa, mà Lưu Nghiêm cũng nguyện nộp thuế, xin được nhập tịch huyện Diên Xuyên.” Vua nói: “Việc ưu đãi những người này ở biên giới so với việc điều quân đến phòng thủ, vừa tiết kiệm chi phí lại hiệu quả gấp bội.” Vua ra chiếu chấp thuận lời thỉnh cầu, chỉ thu một phần ba thuế.

[146] Tháng đó, điều động Trương Mẫn Trung làm tri phủ Hà Nam, kiêm chức Lưu thủ Tây Kinh.

Trước đó có một nhà sư vào buổi tối đi qua nhà dân xin ngủ nhờ, chủ nhà không cho, nhà sư xin ngủ trong xe ngoài cổng, chủ nhà đồng ý. Đêm đó có kẻ trộm vào nhà, từ trên tường bế một người phụ nữ và một túi quần áo ra ngoài. Nhà sư chưa ngủ, thấy vậy, nghĩ rằng mình không được chủ nhà cho ở mà cố xin ngủ nhờ, giờ chủ nhà mất vợ và của cải, ngày mai chắc chắn sẽ bắt mình giải lên huyện. Bèn bỏ trốn, không dám đi theo đường cũ, chạy vào bụi cỏ, chẳng may rơi xuống giếng cạn, thì thấy người phụ nữ đã bị giết, nằm sẵn trong giếng.

Hôm sau, chủ nhà đi tìm nhà sư bỏ trốn và xác con dâu, phát hiện trong giếng, bèn bắt giải lên huyện. Quan huyện tra khảo, nhà sư nhận tội, nói rằng mình thông dâm với con dâu, dụ dỗ cùng bỏ trốn, sợ bị bắt nên giết chết ném xuống giếng, đêm đó lỡ chân cũng rơi xuống giếng, tang vật ở bên giếng bị mất, không biết ai lấy.

Vụ án trình lên phủ, mọi người đều không nghi ngờ, chỉ có Trương Mẫn Trung thấy tang vật không tìm được nên nghi ngờ. Ông dẫn nhà sư ra hỏi nhiều lần, nhà sư nhận tội, chỉ nói rằng kiếp trước mình nợ người này một mạng, không có gì để nói. Mẫn Trung kiên trì hỏi, nhà sư mới nói thật. Mẫn Trung bèn sai người điều tra bí mật tìm kẻ trộm.

Viên lại ăn ở quán trong làng, bà chủ quán nghe nói ông ta từ phủ đến, không biết là viên lại, hỏi: “Vụ án nhà sư kia thế nào rồi?” Viên lại nói dối: “Hôm qua đã bị đánh chết ở chợ rồi.” Bà chủ quán hỏi: “Nếu bây giờ bắt được kẻ trộm thì sao?” Viên lại nói: “Phủ đã xử án sai rồi, dù bắt được kẻ trộm cũng không dám hỏi nữa.” Bà chủ quán nói: “Vậy thì nói ra cũng không sao. Người phụ nữ đó là do thanh niên trong làng tên Giáp kia giết.” Viên lại hỏi: “Người đó ở đâu?” Bà chủ quán chỉ nhà, viên lại đến nhà bắt gọn, tra hỏi thì nhận tội, và thu được tang vật. Cả phủ đều cho là thần kỳ.

[147] Trước đây, các tể tướng cũ ra trấn nhậm, phần lớn không để ý đến việc quan, Khấu Chuẩn tuy có danh tiếng lớn, nhưng đến nơi nào cũng suốt ngày vui chơi yến tiệc. Những người nghệ sĩ mà ông yêu thích, có khi giao cho nhà giàu, liền được ban thưởng hậu hĩ, nhưng mọi người đều vui vẻ, không cho là sai. Trương Tề Hiền phóng túng tùy ý, bắt được kẻ cướp, có lúc lại thả ra, nơi nào đến cũng không trị an. Vua nghe chuyện này, đều không cho là tốt. Duy chỉ có Hướng Mẫn Trung chăm chỉ việc chính sự, nơi nào đến cũng được khen ngợi. Vua nói: “Đại thần ra trấn nhậm một phương, chẳng phải nên như Hướng Mẫn Trung sao?”

(Hướng Mẫn Trung dời đến Hà Nam, vào ngày Quý Sửu, nay phụ chép vào đây.)

[148] Xuống chiếu cho các bề tôi dâng chương tấu, nếu là việc cơ mật, hình ngục khẩn cấp, đều phải niêm phong kín để tâu lên.

[149] Tháng này, hợp nhất hai ty Đông Tây Bát Tác và ty Nhai Đạo thành một ty.

(Đến tháng 5 năm Thiên Thánh thứ nhất lại chia làm hai ty.)


  1. Nội thị Sử Sùng Quý từng đi sứ ở Gia Châu trở về, chữ 'từng' nguyên bản là 'thường', theo bản trong các sách và 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ mà sửa.
  2. Nhỏ thì liên quan đến vinh nhục của hai người, chữ 'hai người' nguyên bản là 'một người', theo chú thích trên và 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ mà sửa.
  3. Chữ 'sứ' vốn thiếu. Theo 《Tống sử》 quyển 457, truyện Vạn Thích chép: 'Dương Phác, tự Khế Huyền, người Tân Trịnh, Trịnh Châu.… Chân Tông đi thăm các lăng, qua Trịnh Châu, sai sứ ban trà và lụa cho ông.' Nay bổ sung chữ 'sứ'.
  4. 'Doanh vũ' nguyên bản là 'doanh tự', theo bản Tống và bản tóm tắt của Tống sửa lại.
  5. 'Chỉ' nguyên văn là 'Chí', theo bản Tống và bản Tóm tắt đời Tống sửa lại.
  6. Lời thề và ước cũ không thể không tuân thủ, chữ 'thủ' trên nguyên bản thiếu chữ 'bất', theo bản khác bổ sung.
  7. kịp chí phi tường 'kịp' nguyên là 'Tự', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống sử toàn văn quyển 5 sửa lại.
  8. 'Vĩnh An' nguyên bản viết là 'Vĩnh Hòa'. Xét câu này ý nói từ Biện Kinh đến Vĩnh An, nơi có lăng tẩm nhà Tống. Vĩnh An thuộc Hà Nam phủ, vốn là trấn, năm Cảnh Đức thứ 4 đổi thành huyện, để phụng thờ lăng tẩm. 'Vĩnh Hòa' là sai, nay sửa lại.
  9. Huyện lệnh huyện Lật Thủy Sử Lương, nguyên bản chép 'Sử Lương Văn', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống hội yếu》 phần Tuyển cử 10-13, 《Trị tích thống loại》 quyển 27, 《Biên niên cương mục》 quyển 7, 《Tống sử toàn văn》 quyển 5 hạ, bỏ chữ 'Văn'.
  10. 'Chỉ có người học rộng mới đỗ được', chữ 'học' nguyên bản chép 'cử', căn cứ theo 《Tống hội yếu》 và 《Trị tích thống loại》 sửa lại.
  11. 'Vốn khác với sử sách', chữ 'vốn' nguyên bản chép 'cùng', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và sách trên sửa lại.
  12. Chữ 'thái' nguyên là 'hành', theo bản Tống và bản Tống toát yếu sửa lại.
  13. Kiêm quản binh mã Nhạn Môn: chữ 'kiêm' nguyên bản là 'tịnh', theo sách trên sửa lại.
  14. Lệnh cử quan: chữ 'lệnh' nguyên bản là 'mệnh', theo các bản và 《Trị tích thống loại》 quyển 5 《Chân Tông thánh chính》 sửa lại.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.