III. TỐNG CHÂN TÔNG
QUYỂN 67: NĂM CẢNH ĐỨC THỨ 4 (ĐINH MÙI, 1007)
Từ tháng 10 năm Cảnh Đức thứ 4 đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 10, mùa đông, ngày Giáp Ngọ (mùng 1), nhật thực xảy ra nhưng trời nhiều mây nên không thấy rõ.
[2] Chiếu chỉ cho các châu quân ở Hà Bắc tu bổ thêm thành trì, lầu canh, và các công cụ phòng thủ, lệnh cho Chuyển vận sứ và Duyên biên an phủ đô giám chia nhau đi kiểm tra.
[3] Tuyển chọn những binh sĩ tài giỏi, dũng cảm trong quân Long Kị thuộc Điện tiền ty để sung vào quân Long Mãnh. Trước đây, 13 chỉ huy của quân này đều tuyển mộ từ bọn cường đạo, nhưng nay giặc cướp ít nên bàn việc sáp nhập và giảm bớt.
[4] Ngày Ất Mùi, châu Lân tâu rằng Triệu Đức Minh đặt trường mua bán ở phía tây châu, xin cho thông thương. Vua cho rằng Diên Châu đã có trường mua bán nên không cho phép.
[5] Ngày Bính Thân, Phùng Lượng, Phát vận sứ Hoài Nam, Giang Chiết, Kinh Hồ, kiêm Độ chi viên ngoại lang, được bổ làm Đãi ngự sử, vẫn giữ chức Phát vận sứ.
(Phó sứ Lý Phổ đã được thăng chức trước đó vào ngày Kỷ Dậu tháng 8.)
[6] Ngày Mậu Tuất, bổ nhiệm Vương Tự, Hữu Tán thiện đại phu, Giám thương thuế châu Hứa, làm Tri châu Vệ. Tự tự tâu rằng trước đây làm Tri châu Lệ, khi quân Khiết Đan xâm lược, đã có công phòng thủ, nhưng sau vì không bắt được giặc nên bị Chuyển vận sứ tâu lên, bị thay chức và điều về làm việc khác. Vua xét công trạng trước đây của ông nên lại cho trị quận.
[7] Ngày Kỷ Hợi, chiếu chỉ rằng từ Đô ngu hậu trở lên đến Sương đô chỉ huy sứ không được kết thân với quân viên trong bộ mình[1]; Chỉ huy sứ không được kết thân với Quân sứ, Đô đầu trong cùng chỉ huy; Quân sứ, Đô đầu nếu không cùng chỉ huy thì được phép. Ai vi phạm sẽ bị xử theo pháp luật.
[8] Ngày Canh Tý, chiếu chỉ các kho tàng trong kinh thành khi thu nhận cỏ, lương thực không được để tồn đọng, lệnh cho Tam ty và phủ Khai Phong kiểm tra việc này.
[9] Ngày Quý Mão, Vu Đức Nhuận từ Tượng Châu trở về. Vua ban chiếu khen ngợi Tào Lợi Dụng và các tướng sĩ, ban thưởng hậu hĩ, đồng thời ra lệnh nhanh chóng trình báo danh sách những người lập công. Vua nói: “Quân đội hành quân ở vùng Lĩnh Ngoại không thể kéo dài lâu. Đã dẹp yên rồi, nên nhanh chóng bàn việc phân bố đồn trú.” Lại nói: “Quân Quy Viễn của các châu Lễ, Lãng thuộc Kinh Nam do Tào Lợi Dụng chỉ huy, nghe nói rất tuân lệnh. Đó đều là những kẻ cường bạo từng phạm lỗi. Sau khi ban thưởng và bổ nhiệm xong, những người không được thưởng nên cử sứ giả chọn lấy những người tráng kiện, dũng cảm đưa về kinh sư, sung vào quân Thượng Quân.”
[10] Ngày Giáp Thìn, Hữu Gián nghị đại phu Chủng Phóng từ Chung Nam Sơn đến triều, là do Vua triệu đến. Vua nói với các quan phụ tá rằng[2]: “Phóng vốn cao thượng, mỗi lần hỏi han đều có nhiều điều đáng nghe. Triều đình tuy đã phong tước cho ông, nhưng chưa trọng dụng, nên dư luận chưa thỏa.” Bèn sai Trần Nghiêu Tẩu truyền đạt ý chỉ, và nói: “Trẫm lo Phóng sẽ thu mình lại, nếu ông có thể đáp ứng ý chỉ của triều đình, thật là tốt đẹp.” Sau đó, Nghiêu Tẩu tâu rằng Phóng nói: “Từ khi được triệu đến và thăng chức Gián nghị, chưa có gì báo đáp, đã là may mắn lắm rồi. Nay chúa thượng thánh minh, triều đình không có chính sự thiếu sót, nếu lại đặt vào chức vị hiển hách, thì càng làm nặng thêm lỗi lầm của mình.” Nghiêu Tẩu lại viết thư hỏi, Phóng trả lời như trước. Vua bèn sai nội thị mang chiếu ban cho Phóng, đại ý nói: “Khanh nên hiểu rõ sự ưu ái này, dốc lòng thành, trình bày kế sách lớn trị quốc, nêu rõ phương lược xa giúp Vua, viết đầy đủ vào tấu chương để làm thỏa lòng Trẫm, đáp ứng sự tin cậy của đức hạnh, làm sáng tỏ thanh danh triều đình, giữ chức vụ trọng yếu, thực hiện công bằng.” Phóng dâng biểu cố từ chối, Vua nói: “Phóng biết giữ phận, càng đáng khen.”
[11] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu khen thưởng Tri châu Tượng Châu Hà Bỉnh và những người khác.
[12] Từ niên hiệu Càn Đức, Khai Bảo trở lại đây, mỗi khi có việc dùng binh, cứu tế lụt lội, hạn hán, ban thưởng trong các dịp lễ, các cơ quan có trách nhiệm tính toán, nếu thiếu hụt thì phải ghi chép số lượng để mượn từ kho nội phủ, đợi khi thu thuế có dư thì trả lại. Sau niên hiệu Thuần Hóa, trong vòng 20 năm, mỗi năm mượn đến một trăm vạn, có năm lên đến ba trăm vạn, nhiều năm không thể trả nổi, bèn xóa sổ. Vì thế, Vua sai Trần Bành Niên soạn sách 《Nội Tàng Khố Ký》 ghi chép việc này, đưa cho Vương Đán và các quan xem, nói: “Kho này là để giúp cơ quan tài chính chuẩn bị kinh phí. Nếu cơ quan tài chính thiếu hụt, ắt phải lấy từ dân, nếu không tiết kiệm thì làm sao có thể đủ?” Rồi nói thêm: “Hán Vũ Đế đối phó với bốn phương, đánh phía bắc lên đài Thiền Vu, phía tây điền ở Xa Sư, làm khổ trong nước để lo việc xa, đó là lý do khiến tài chính không đủ.” Trần Nghiêu Tẩu nói: “Cuối đời Hán Vũ Đế, số hộ khẩu giảm một nửa, bèn phong Thừa tướng làm Phú Dân Hầu, đó cũng là hối hận vì việc dùng binh.” Vua cho là phải.
[13] Hàn lâm học sĩ Triệu Huýnh và các quan dâng lên quy chế mới về thi tiến sĩ, Vua ban chiếu cho thi hành. Trước đây, Trần Bành Niên đi thi tiến sĩ, tính khí kiêu căng, hay chê bai quan chủ khảo. Tống Bạch làm chủ khảo, ghét tính cách của ông ta, bèn đánh trượt, Bành Niên oán hận. Vì thế, lần này sửa đổi quy chế, phần lớn dựa vào việc cũ của Tống Bạch mà đặt ra các biện pháp phòng ngừa. Việc chọn người đỗ không còn xét đến đạo đức, văn chương, chỉ so sánh tài nghệ trong một ngày, tuy ngăn chặn được việc nhờ vả, nhưng những người đỗ hạng Giáp có khi không được lòng người, việc này bắt đầu từ Bành Niên.
[14] Vua ban chiếu: “Từ nay về sau, vật tế lễ phải chọn con vật thuần trắng, nuôi dưỡng cẩn thận, không được đánh đập, mọi việc đều theo lệ cũ. Các lễ tế nhỏ thêm một con dê. Thường xuyên tu sửa đàn tế. Số lượng ngọc lụa, đồ tế chưa đủ theo lễ xưa, bàn thêm để tăng lên. Đặt hai chức Giám tế sứ, do Giám sát ngự sử đảm nhiệm, mỗi tháng cấp mười ngàn tiền, miễn cho họ đi sứ.”
[15] Vua ban chiếu cho Hàn lâm học sĩ Triệu Huýnh và các quan, mỗi người tiến cử hai viên quan thường triều có thể đảm nhiệm chức vụ lớn ở các trấn. Vua tự xem sổ sách, chọn ra năm mươi người có danh tiếng trong triều, sai họ bảo đảm và giao trách nhiệm.
[16] Ngày Bính Ngọ, Hà Lượng, Giang Nam chuyển vận phó sứ, Thái thường bác sĩ, Trực sử quán, được thăng làm Tả ty gián, nhậm chức Quảng Nam Tây lộ chuyển vận sứ, thay thế Thư Bôn. Bôn bị cách chức vì không phát hiện được chính sách tàn bạo của Lưu Vĩnh Quy ở Nghi Châu, Ngự sử đài cử quan đến điều tra và bãi nhiệm ông ta. Khi vụ việc được trình lên, triều đình ra chiếu chỉ phạt tiền để răn đe.
[17] Ngày Đinh Mùi, Mã Lượng, Công bộ lang trung, Trực sử quán, được bổ nhiệm làm Hữu gián nghị đại phu, tri Quảng Châu. Lượng từ Thăng Châu trở về, dâng biểu nói: “Cây bách và cây giả ở Phì Thượng”, xin được nhậm chức ở Lư Châu và Thọ Châu để tiện việc phụng dưỡng. Khi được triệu kiến, ông chỉ nói: “Nếu quốc gia cần, tôi đâu dám vì tư lợi mà từ chối.” Lúc đó vừa dẹp xong giặc ở Nghi Châu, Vua hỏi về chính sự ở Quế Châu và Quảng Châu, Lượng tâu: “Cao Cẩn Vi và Cao Thân đều là người cẩn thận, nhưng không phải là nhân tài để trị nhậm vùng biên cương, nên chọn người như Trương Vịnh, Lưu Tống.” Vua nói: “Vịnh đang bệnh, không thể đi xa. Tống đang ở Tịnh Môn, trọng trách đã nặng.” Ban đầu, Vua định cử Dương Đàm làm tri Quảng Châu, nhưng thấy Lượng muốn nhận chức, bèn nói với tể tướng: “Tài năng của Lượng không kém Đàm.” Vì vậy bổ nhiệm ông. Lượng vừa mới được thăng từ Binh bộ viên ngoại lang lên chức này vài ngày, lại được thăng lên chức gián quan, để tỏ rõ sự trọng dụng.
(Theo 《Bảo Huấn》, Cao Thân viết là Vương Thân.)
[18] Trước đó, Tào Lợi Dụng tâu: “Khi giặc Nghi Châu gây rối, Dương Đàm làm tri Đàm Châu, mọi việc đều chuẩn bị chu đáo.” Vua nói chuyện với các đại thần, khen ngợi sự tận tâm của Đàm. Vương Đán nói: “Đàm vốn nổi tiếng về tài năng quản lý, ít người Giang Chiết sánh được.” Vua hỏi: “Có phải người từng cùng Chu Đài Phù nhậm chức ở Thiểm Tây không?” Đán đáp: “Đúng vậy. Lúc đó tuy có nhiều tranh cãi, nhưng Đàm rất có lòng thương dân.”
[19] Chiếu phong Tào Lợi Dụng làm Dẫn tiến sứ, Trương Hú làm Như kinh sứ, Trương Tòng Cát làm Trang trạch phó sứ, Trương Kế Năng làm Cung bị khố sứ, những người khác thăng chức có khác biệt. Kế Năng vì là tiên phong đầu tiên phá được giặc, nên được thưởng nhiều nhất. Quân sĩ Quy Viễn giết được Trần Tiến là Lý Hạo, Lưu Tông, Triệu Mẫn, đều được bổ làm Đô đầu trong quân. Lại phong Tri châu Tượng Châu, Đại Lý bình sự Hà Bỉnh làm Từ bộ viên ngoại lang, ban áo tía. Ba con trai của Bỉnh đều được ban xuất thân, thân thuộc cùng chống giặc đều được khen thưởng. Thăng Tượng Châu lên làm Phòng ngự.
[20] Ban đầu bàn việc ban thưởng, các quan phụ tá cho rằng thành Tượng Châu giữ được bốn mươi ngày, quan lại tướng sĩ đều được thăng ba bậc; Hoài Viễn quân, Thiên Hà trại, giặc đánh không lâu đã rút lui, đều được thăng hai bậc. Vua nói: “Giặc mới nổi, khí thế đang hăng, Hoài Viễn, Thiên Hà bị tấn công đầu tiên, việc phòng thủ càng khó, nên được thăng ba bậc như Tượng Châu.” Vương Đán xin đợi Tào Lợi Dụng về triều rồi mới quyết định, Vua nói: “Ban thưởng không nên chậm trễ, hơn nữa trong quân đã có mệnh lệnh, không thể trì hoãn.” Nên lần lượt thi hành.
[21] Châu Tầm báo tên giặc Chu Đạo Thành đem cả gia tộc ra đầu thú. Chiếu cho Tào Lợi Dụng xét tội xử trí, gia thuộc của hắn được tha.
[22] Xu mật viện dâng danh sách tướng hiệu mới bổ nhiệm ở Điện tiền, Thị vệ ty. Chiếu từ nay việc thăng chức, bãi chức, lệnh cho chủ sự ghi chép ngay thời gian, nếu có sai sót báo lên tri viện để sửa chữa, ai dám bỏ sót hoặc thay đổi sẽ bị xử tội.
[23] Ngày Canh Tuất, chiếu cho Sử Sùng Quý, Vu Đức Nhuận đóng quân ở Quế Châu, đốc thúc Tuần kiểm, Sứ thần chiêu dụ bọn giặc trốn tránh; Tào Lợi Dụng tuần tra khắp các châu Tượng, Quế, Nghi, Dung, Hoài Viễn quân, Thiên Hà trại xong rồi về triều. Lại lệnh cho Lợi Dụng tùy nghi bổ nhiệm các Sứ thần lập công đi theo làm Tri quân Hoài Viễn quân, Trại chủ Thiên Hà, Tuần kiểm Tượng Châu, vì giặc vừa dẹp yên, cần họ an định dân chúng.
[24] Chiếu khen thưởng các chuyển vận sứ Quảng Nam Đông lộ, Kinh Hồ Nam lộ cùng các trưởng lại các châu Quảng, Quế, Ung, Dung, Đàm, Dung, Toàn và Chu Văn Chất v.v… vì đã chuẩn bị quân nhu.
[25] Ngày Tân Hợi, Quần mục ty tâu: “Các giám dùng đất cỏ làm đồn điền, sai lính trồng trọt, thu nhập không đủ chi phí. Nay số ngựa ngày càng nhiều mà người chăn nuôi ít, xin bãi bỏ đồn điền, trả lại làm đất cỏ, giao cho các châu huyện thuộc quyền đánh dấu ranh giới, miễn cho việc xâm chiếm của công tư.” Vua đồng ý.
[26] Ngày Giáp Dần, ban đức ân xá tù nhân từ tội chết trở xuống ở các châu Nghi, Liễu, Tượng và quân Hoài Viễn; giáng một bậc đối với các tội nhân từ tội chết trở xuống ở Quảng Nam Đông lộ, Quảng Nam Tây lộ; những người bị ép buộc nhận chức thì không xét đến. Miễn thuế đinh và thuế hạ thu ở các châu Nghi, Liễu, Tượng và quân Hoài Viễn; miễn thuế thu ở các châu Quế, Chiêu.
(Việc miễn thuế thu ở Quế, Chiêu, thực lục ghi vào năm sau, nay theo bản kỷ.)
[27] Trước đó, Trung thư dâng lên các điều khoản xá tội, có nói: “Những kẻ đạo tặc đã tan rã, cho phép chúng ra đầu thú để được tha tội, binh lính thì giao lại cho cấp trên quản lý.” Vua nói: “Trước đây đã sai Tào Lợi Dụng xem xét xử lý, điều này không phù hợp với chiếu chỉ trước.” Mã Tri Tiết nói: “Binh lính phản mệnh giữ thành, nếu cho phép tha tội, e rằng quá nhẹ.” Vua nói: “Đã tan rã thì phải có chỗ quy thuận, nếu bắt không hết, há chẳng lo hậu hoạn?” Trần Nghiêu Tẩu xin không tha cho những kẻ chủ mưu và đồng phạm. Tri Tiết lại nói: “Trong quân hợp lực hại trưởng lại, tụ tập tránh tội, quấy nhiễu làng xóm, nay được tha tội, e rằng kẻ ác không chừa.” Vua nói: “Năm trước ở Tây Xuyên, những kẻ mưu hại Hàn Cảnh Hữu, bộ hạ đều là quân cấm vệ, cũng chỉ giết kẻ chủ mưu, những kẻ tự thú thì đổi sang các quân khác. Nay quân Trừng Hải chỉ là quân châu, nếu tình tiết nặng thì đày đi quận xa cũng được.” Tri Tiết vẫn giữ ý kiến như trước. Vương Đán xin sửa lại: “Những kẻ đạo tặc đã tan rã, hạn trong một tháng ra đầu thú để được tha tội, nơi nào bắt được thì tâu lên xử lý.” Vua đồng ý.
[28] Ngày Ất Mão, Tào Lợi Dụng tâu rằng: “Giặc cướp Lê Dục cùng đồng đảng và gia quyến già trẻ gần nghìn người chạy trốn đến Quý Châu. Tri châu Tống Hi Mẫn không biết chúng đến, cầm ấn tín cùng các quan lại bỏ thành chạy trốn. Chẳng bao lâu, giặc vào thành, đốt nhà dân, qua một đêm rồi mới đi. Hi Mẫn bèn trở về.” Vua xuống chiếu cho Lợi Dụng đuổi bắt, không để chúng chạy thoát, gây hại cho dân xa.
[29] Huyện úy Hoàng Mai là Phan Nghĩa Phương bị bắt vì tội bắt cướp, nói rằng đã từng gửi tang vật ở nhà Chu Ngưng bán rượu, liền bắt Ngưng đến, sai ngục tốt lấy khăn da bò ướt trùm lên đầu, khô lại càng siết chặt, Ngưng không chịu nổi đau đớn, liền tự nhận tội nhận tang vật. Pháp tự xử phạt tiền chuộc tội chín cân, Vua xuống chiếu đặc cách cách chức. Lại ra lệnh cảnh cáo trong ngoài, phàm những dụng cụ tra tấn phạm nhân trái pháp đều phải hủy bỏ, Ty đề điểm hình ngục phải kiểm tra.
(Sách 《Đông Đô Sự Lược》 chép: Chiếu rằng: Phép tra tấn vốn đã ghi rõ trong điều luật, tự tiện làm trái là hành động tàn bạo. Các cơ quan trong các đạo phàm có dụng cụ tra tấn phạm nhân trái pháp đều phải hủy bỏ.)
[30] Cựu huyện úy Tiếu huyện[3] là Trần Tề từng dâng thư bàn về lợi hại của việc độc quyền trà, Vua xuống chiếu đưa về Ty phát vận Giang Hoài làm chỉ sử. Phùng Lượng, Lý Phố tiến cử Tề có thể đảm nhận chức quan kinh, nhưng Phán Lại bộ thuyên, Ngự sử trung thừa Vương Tự Tông nói Tề là con nhà giàu. Vua hỏi Trung thư, Phùng Chửng nói: “Nếu chọn người có tài, cần gì phải hạn chế giàu nghèo.” Vua nói: “Khanh nói phải, gần đây chọn người, thường chỉ nói đây là thân thích của ai, người quen của ai. Nếu thực sự có tài, sao có thể vì thế mà không dùng?” Ngày Bính Thìn, Tề được bổ làm quan mạc chức sơ đẳng.
[31] Trước đây, chủ bạ huyện Hộ là Cao Chí Ninh người Lạc Dương được bổ làm Đại Lý bình sự. Chí Ninh đỗ khoa Minh kinh, xin ứng thí khoa Thức động đào thiềm, và xin được thi viết ba nghìn chữ trong một ngày. Sau đó không làm được, Vua xét thấy ông làm quan không có lỗi lầm gì, nên đặc cách thăng chức.
(Hàn Kỳ trong bài văn bia mộ viết: “Miễn thi mà được bổ nhiệm làm quan.” Khác với sách Thực lục, e rằng là lời nói khoa trương, vì Chí Ninh là em rể của Kỳ, nay không theo.)
[32] Ngày Mậu Ngọ, Khả hãn Dạ Lạc Hột của Hồi Cốt Cam Châu sai Ni Pháp Tiên đến triều cống, dâng mười con ngựa, và được phép cho Pháp Tiên đi du ngoạn núi Ngũ Đài. Sau đó lại sai tăng Trạch Đại Thái đến, cống mười lăm con ngựa, xin được xây chùa ở kinh đô để chúc thọ hoàng đế, xin ban tên hiệu, nhưng không được chấp thuận.
[33] Ngày Kỷ Mùi, Trưởng công chúa nước Tần tâu: “Trước đây đã lập viện Vô Lượng Thọ ở chùa Can Minh, cho người nhà xuất gia tu hành. Vì viện nhỏ hẹp, xin được thông với mười hai gian hành lang, và cho quản lý cửa đông của chùa.” Vua cho rằng hành lang là nơi tăng chúng đi lại, cửa đông đã có người quản lý nên không cho phép[4].
[34] Ngày Canh Thân, lấy Lại bộ thị lang kiêm Bí thư giám, Tập Hiền viện học sĩ Quách Chí làm Công bộ thượng thư kiêm Bí thư giám, sung chức Hàn Lâm thị độc học sĩ. Trước đó, Vua nói với Vương Đán rằng: “Hôm qua triệu Quách Chí vào nói chuyện một lúc, ông ấy nhớ rõ những việc khi Trẫm còn ở Đông cung. Chí là bậc trưởng giả thuần hậu, giỏi việc phụ đạo, ở phủ được ba năm. Dương Khả Pháp kế nhiệm[5], Khả Pháp là người cương trực, nhưng việc phụ đạo không bằng Chí. Trẫm từng đến nhà ông ấy khi còn trẻ, nay Chí đã già, muốn triệu vào làm quan gần, từ Lại bộ thị lang nên thăng chức gì?” Đán tâu: “Bệ hạ nhớ cũ ban ơn, đều là đặc chỉ.” Vua nói: “Có thể thăng làm Thượng thư.” Vì thế có mệnh lệnh này.
[35] Ban đầu, các châu gần kinh đô hàng năm phải nộp cỏ khô về kinh sư. Đến lúc này, mùa màng liên tiếp được mùa, giá cả ở kinh đô rất rẻ, việc mua bán trong kinh thành đã lên đến bảy trăm vòng, bèn hạ chiếu cho các châu Hoạt, Tào, Hứa, Trịnh v.v… nộp cỏ khô và chuyển về địa phương.
[36] Trương Sùng Quý tâu: “Theo chiếu ban áo mùa đông và lịch Nghi Thiên cho Triệu Đức Minh, lệnh cho Diên Châu cử nha hiệu mang đến. Gần đây nghe nói Đức Minh sửa sang đường sá, nhà cửa để đón sứ giả, nếu cử nha hiệu thì e không đáp ứng được mong đợi.” Vua nói: “Trước đây không muốn cử sứ giả là vì lo ngại sự vất vả. Sùng Quý nay có lời tâu này, theo đó cũng được.” Đức Minh lại xin đến chùa Ngũ Đài làm lễ cầu siêu cho mẹ. Trần Nghiêu Tẩu muốn lệnh Trương Sùng Quý bảo rằng đường qua Hà Đông, qua nhiều doanh trại quân sự không tiện, cho đi theo đường Trấn Châu. Vua nói: “Nên lệnh Sùng Quý trả lời rằng không dám tâu lên, nếu thực lòng muốn thì cho phép đem đồ cúng đến Phu Diên, giao Sùng Quý cử người đưa lên Ngũ Đài.”
[37] Chủng Phóng lại từ núi Chung Nam đến triều kiến.
[38] Ngày Tân Dậu, truy tặng chức Như Kinh phó sứ cho Hác Duy Hòa, nguyên là Giám áp Điện trực ở Quế Châu; chức Sùng Nghi phó sứ cho Hàn Minh, nguyên là Giám áp Điện trực ở huyện Liễu Thành, Liễu Châu; chức Nội điện Sùng ban cho Hứa Quý, nguyên là Đồng Tuần kiểm Tam ban Phụng chức ở các châu Quế, Tượng v.v…
[39] Ngày Quý Hợi, hạ chiếu ban tên Trung Cảm cho chỉ huy Trừng Hải ở Tượng Châu, vì có công giữ thành.
[40] Ban đầu, khi loạn Trần Tiến, Chỉ huy sứ Nghi Châu là Trần Định và Đô đầu Hoàng Vãn đều không theo sự sai khiến[6], trước đó đã đầu hàng Tượng Châu. Tiến muốn bắt hai người này để trả thù, bèn dẫn quân vây đánh, thề phải bắt được. Định và những người khác cũng thề không theo giặc, cùng các quan lại trong thành hợp lực, dùng họa phúc để khuyên bảo, đều được họ hết lòng giúp sức. Vua ban đầu muốn cho Định và những người khác đến kinh đô, ưu đãi trọng dụng, nhưng lại lo họ nhớ quê không muốn dời đi, bèn thăng Định làm Mã bộ quân Đô chỉ huy sứ ở bản châu, Vãn làm Bộ quân Chỉ huy sứ.
Tào Lợi Dụng và các quan tâu: “Bọn giặc tan rã, xin chiêu dụ và bắt giữ khắp nơi. Những kẻ tình tội khó tha, xin xử trảm ngay tại chỗ, vợ con bắt làm lao dịch.” Vua nghe theo.
[41] Tháng 11, ngày Bính Dần, Vua ban chiếu rằng các quan đáng được cấp tiền phúng viếng, thì Hồng Lô Tự, Nội Thị Tỉnh, Thái Thường Lễ Viện phải chuyển giao trong vòng hai ngày. Vì lúc ấy có người đã lo xong việc tang mà chưa được ban tặng.
[42] Châu Ung giải tội nhân Tiến sĩ Thí Xán và những người khác đến Lễ bộ, gặp giặc ở châu Nghi, trễ hạn, Vua ban chiếu cho Cống viện đặc cách lấy họ.
[43] Ngày Đinh Mão, bỏ chợ ở trại Quân Thành châu Định, theo lời thỉnh cầu của An phủ sứ vùng biên giới phía bắc Hà Bắc.
[44] Ngày Mậu Thìn, ngày Đông chí, Vua ngự điện Triều Nguyên nhận chầu.
[45] Ngày Kỷ Tỵ, canh ba, giữa trời có khí đỏ như chổi, dài bảy thước, ở phía nam sao Dư Quỷ, chiêm nghiệm chủ về binh dịch ở đất Tần. Vua nói: “Quan thiên văn nói khí đỏ không xâm phạm vào vị trí của nhị thập bát tú, tuy chủ về binh dịch, nhưng sẽ ứng nghiệm ở ngoài. Huống chi quốc gia luôn cảnh giác, thì tai họa tự nhiên tiêu tan.”
[46] Ngày Tân Mùi, Hữu Chánh ngôn, Tri chế cáo Tôn Cận làm Tri quân Vĩnh Hưng, thay Tứ Phương Quán sứ Tôn Toàn Chiếu. Cho Toàn Chiếu làm Tri châu Hứa. Trước đó, Vua bảo Vương Đán và các quan: “Quan lại trấn thủ các phiên trấn, càng cần người hiền lương. Toàn Chiếu cai trị nghiêm khắc, nên chọn người thay thế, như Biên Túc, Tôn Cận, ai có thể đảm nhận?” Phùng Chửng nói: “Cận từng làm phó ở kinh phủ, quen việc dân chính, có thể dùng được.” Vua nghe theo. Cận là người thuần hậu, làm chính sự khoan dung. Vua ban chiếu thư khuyên răn. Toàn Chiếu có biệt thự ở châu Hứa, nên theo lời thỉnh cầu của ông.
[47] Ngày Nhâm Thân, Vua ban chiếu rằng các quan tam ty thiếu hụt tiền công, cho phép Kinh Lịch ty phát giác và tha tội, lại miễn việc đòi bồi thường. Trước đó, Bằng Do ty của tam ty kiểm tra hồ sơ thượng cung, thấy có người thiếu hụt tiền công, quan hữu ty muốn bắt bồi thường, chủ lại kêu oan, Vua sai Thượng thư Hình bộ Ôn Trọng Thư, Ngự sử Trung thừa Vương Tự Tông xét kỹ rồi tâu, nên có chiếu này.
[48] Ngày Quý Dậu, bổ nhiệm Tần Bách Tường, quan nhiếp chính ở Quảng Nam, làm huyện lệnh huyện Trà Thành; Hoàng Trung Lý làm tri huyện Lập Sơn; Lý Cán làm tri huyện Cổ. Cả ba người đều bị giặc bắt nhưng kiên quyết không khuất phục, nên được ban thưởng.
(Lập Sơn thuộc châu Mông; Cổ thuộc châu Quế.)
[49] Thượng nói với Vương Khâm Nhược: “Trong sách 《Quân thần sự tích》, phần sùng bái Phật giáo có chỗ ghi việc trải tóc xuống đất để tăng nhân dẫm lên, và tự cạo đầu làm tăng để cầu phúc lợi. Đây là những việc mê muội, lầm lạc quá mức, nên xóa bỏ hết.”
[50] Ngày Giáp Tuất, Tào Lợi Dụng, An phủ sứ Quảng Nam, tâu rằng bọn giặc ở châu Nghi là Trần Hóa, Lê Dục cùng hơn 200 đồng đảng, 500 gia quyến và những người từng được bổ nhiệm đều đã được chiêu dụ xong. Vua xuống chiếu cho Lợi Dụng đợi khi các châu quân báo cáo làng xã yên ổn thì mới trở về kinh.
[51] Dân châu Tượng có người cung cấp lương thực cho giặc, Lợi Dụng xin bắt giữ và trừng trị nghiêm khắc. Thượng nói: “Dân ngu muội ở xa, bị giặc ép buộc, cung cấp thức ăn là việc thường tình. Trừng phạt quá nặng là không nên.” Lệnh cho châu ấy xem xét sự việc rồi quyết định hình phạt và tâu lên.
[52] Xuống chiếu nhắc lại lệnh cấm việc Thái thương cấp lương cho quân đội mà giảm bớt số lượng. Trước đây, quân sĩ nhận được mỗi hộc chỉ có tám chín đấu, nên có nhiều lời phàn nàn. Thượng hỏi Đinh Vị, Tam ty sứ. Vị tâu: “Chiếu trước đã quy định Thái thương nhận lương từ các châu không được tăng thêm, cấp lương hàng tháng cho quân đội không được giảm bớt, ai vi phạm sẽ bị xử tử. Nay việc giảm bớt này đáng bị trừng phạt nghiêm khắc. Nhưng lương thực vận chuyển có hao hụt, thủy thủ ăn cắp dọc đường, nếu Thái thương khó khăn trong việc nhận lương, e rằng việc vận chuyển sẽ bị đình trệ.” Thượng nói: “Nhưng lương tháng không thể thiếu.” Nên lại ra lệnh ràng buộc.
[53] Bãi bỏ Nam Nhũ Lạc viện. Trước đây lập hai viện Nam và Bắc, Quần mục sứ tâu rằng tốn kém nên bỏ một viện.
[54] Chuyển vận sứ Hà Đông tâu: “Lai Lân, Lai Mỹ ở trấn Đường Long bị quân Khiết Đan ở phía tây cướp bóc. Mỹ là chú của Lân, từ lâu nương nhờ ở Phủ Châu, cùng họ với Lai Hoài Chính, nhưng không hòa thuận, nên Hoài Chính đã mời quân Khiết Đan đến đánh để trả thù.” Trần Nghiêu Tẩu tâu: “Lân, Mỹ cũng là những kẻ cùng khốn đến xin quy phụ, thường giữ thái độ hai lòng, vốn không phải là tộc người giàu mạnh. Chỉ dựa vào địa thế hiểm trở, tự ý làm càn, nếu triều đình đánh thì chạy sang phía đông sông, đất gọi là Đông Triền, nếu quân Khiết Đan đánh thì chạy sang phía tây sông, đất gọi là Tây Triền, là nơi bộ binh và kỵ binh đều không thể đến được.” Vua nói: “Khi sứ Khiết Đan đến, có thể bảo sứ tiếp đón nói rõ việc này.” Lại lệnh cho chuyển vận sứ Bào Trung Hòa cùng Lưu Tông ở Tịnh Châu bàn bạc, đòi lại người và súc vật của Lân, Mỹ bị cướp.
[55] Phủ Châu lại tâu rằng trấn Đường Long cướp đoạt người và ngựa của tộc Quách Mãng ở trại Lô Tử, chiếu cho ty chuyển vận xử lý việc trả lại.
[56] Ngày Đinh Sửu, Thượng thư Hình bộ Tống Bạch được lấy làm Thượng thư Binh bộ về hưu. Bạch tuổi đã quá lục tuần, nhưng vẫn muốn tiến thân không ngừng. Ngự sử trung thừa Vương Tự Tông nhiều lần sai người khuyên nhủ. Tri xu mật viện sự Trần Nghiêu Tẩu là con rể của ông, cũng nhiều lần khuyên nhủ. Bạch bất đắc dĩ mới dâng biểu, Vua vì là bề tôi cũ nên còn lưu luyến chưa cho; dâng biểu lần nữa, mới chấp thuận.
[57] Thừa thụ Cao Dương Quan Lưu Sanh tâu: “Các châu quân ở Hà Bắc trong thời gian dùng binh, được cấp nhiều tiền công sứ để khao thưởng quân hiệu. Nay biên giới yên ổn, quân đồn trú giảm nhiều, xin lệnh cho ty chuyển vận và đề điểm hình ngục xem xét tình hình bận rộn hay nhàn hạ của các châu quân để định mức.” Sau đó, Lý Sĩ Hoành xin trừ những nơi ven biên và trên các trục đường chính vẫn giữ nguyên, còn lại đều tăng giảm số tiền rồi tâu lên, Vua đồng ý.
[58] Ngày Mậu Dần, chiếu rằng từ nay các chức tri châu, thông phán ở Quảng Nam do viện Thẩm quan tuyển chọn các quan kinh triều từng làm tri huyện để bổ nhiệm, theo lệ dẫn vào yết kiến.
[59] Thượng nói với Vương Khâm Nhược và các quan rằng: “Gần đây có sứ giả từ tây bắc trở về, nói rằng từ quân Thuận An về phía tây đến châu Định, đất hoang đều được khai khẩn, lúa mạ tốt tươi, dân không bị quấy nhiễu, giá cả rất rẻ. Chỉ cần cẩn thận chọn quan lại giữ chức[7], để không sinh ra mối họa biên giới.” Mã Tri Tiết nói: “Hai phương tây bắc từ lâu là mối họa ngoại xâm. Nay Khiết Đan cầu hòa, Hạ Đài xin làm thuộc hạ, đều là nhờ uy đức của bệ hạ. Như thời Đường, Trinh Quán và Khai Nguyên được xem là thời thịnh trị, nhưng việc bố trí binh lính, thiết lập phòng thủ đều không hợp lý, cuối cùng thành mối họa lớn. Hiện nay quyền binh đều nằm trong tay bệ hạ, đến cả một người lính cũng do chỉ dụ của bệ hạ.”
Thượng nói: “Các Vua đời trước cũng nhiều người muốn trị quốc, như Đức Tông muốn uy nghiêm khắp thiên hạ, tự cho mình là người hiểu biết, quần thần dâng lời nhưng phần nhiều không vừa ý, nên người ta thường im lặng, điều này cũng đáng để cảnh giác.” Trần Nghiêu Tẩu nói: “Đường Thái Tông bàn việc với quần thần, có việc không hợp ý Thái Tông, lui về thì lo lắng. Bởi vì thiên hạ rộng lớn, nhà Vua ở sâu trong cung cấm, không thể biết hết mọi việc, mà ý kiến của quần thần cũng chưa đủ xa rộng, đó là điều khiến Đường Thái Tông lo lắng. Nay bệ hạ nghe và quyết đoán nhanh chóng, lại còn lấy đó làm điều răn, thật là may mắn cho thiên hạ.”
[60] Ngày Canh Thìn, Điện trung thị ngự sử Triệu Tương dâng lời xin làm lễ phong thiền, Trung thư tâu lên, Thượng chỉ chắp tay không trả lời. Vương Đán và các quan nói: “Lễ phong thiền đã bỏ lâu rồi, nếu không phải thời thịnh trị của thánh triều, sao có thể cử hành được?” Thượng nói: “Trẫm không có đức, sao có thể dễ dàng bàn đến.”
[61] Ban đầu, Vương Khâm Nhược đã dùng hòa ước “thành hạ chi minh” để làm mất uy tín Khấu Chuẩn, từ đó hoàng đế thường cảm thấy bất mãn.
Một hôm, hoàng đế hỏi Khâm Nhược: “Nay phải làm sao?” Khâm Nhược đoán hoàng đế chán chiến tranh, liền nói dối: “Bệ hạ dùng binh lấy U Kế, mới có thể rửa nhục này.” Hoàng đế nói: “Dân chúng Hà Sóc vừa được nghỉ ngơi, ta không nỡ lại đẩy họ vào chỗ chết, khanh hãy nghĩ cách khác.” Khâm Nhược nói: “Nếu bệ hạ không dùng binh, thì nên làm việc lớn, để trấn phục bốn biển[8], khoe khoang với rợ Địch.”
Hoàng đế hỏi: “Việc lớn là gì?” Khâm Nhược đáp: “Đó là phong thiền. Nhưng phong thiền phải có điềm lành trời ban, việc hiếm có tuyệt luân, mới làm được.” Rồi lại nói: “Điềm lành trời ban đâu dễ có, đời trước có người dùng sức người tạo ra[9]. Nếu bậc chúa tôi tin sâu mà tôn sùng, để tỏ rõ thiên hạ, thì cũng như điềm lành trời ban. Bệ hạ nói Hà Đồ, Lạc Thư có thật không? Thánh nhân dùng thần đạo để thiết lập giáo hóa mà thôi.”
Hoàng đế ngẫm nghĩ lâu, rồi đồng ý, chỉ sợ Vương Đán, nói: “Vương Đán có lẽ không đồng ý chăng?” Khâm Nhược nói: “Thần xin dùng ý thánh thượng bảo Đán, chắc không sao.” Nhân lúc rảnh bảo Đán, Đán miễn cưỡng nghe theo. Nhưng hoàng đế vẫn chưa quyết, không biết bàn với ai.
Một tối khác, hoàng đế đến Bí các, chỉ có Đỗ Hạo đang trực đêm[10], hoàng đế bất ngờ hỏi: “Khanh thông hiểu cổ điển, nói Hà xuất đồ, Lạc xuất thư, thật là việc gì?” Hạo là lão nho, không đoán được ý hoàng đế, đáp bừa: “Đó là thánh nhân dùng thần đạo để thiết lập giáo hóa mà thôi.” Lời ấy tình cờ giống Khâm Nhược. Hoàng đế từ đó quyết ý, bèn triệu Vương Đán, uống rượu trong cung, rất vui, ban cho rượu quý nói: “Rượu này rất ngon, về chia cùng vợ con.” Về nhà mở ra, thì là châu ngọc, Đán từ đó không còn dị nghị. Việc thiên thư, phong thiền bắt đầu.
(Theo 《Long Xuyên biệt chí》 của Tô Triệt và truyện Khấu Chuẩn do Lưu Bân soạn.)
[62] Ngày Tân Tỵ, Vua nói với Vương Đán và các quan rằng: “Tối qua tuyết rơi rồi đột ngột ngừng, Trẫm lo rằng chưa đủ. Nửa đêm sai người ra sân cung xem, thì báo rằng tuyết lại rơi, mật độ rất dày. Nay quả nhiên đã dày hơn một thước, sang năm lúa mạch hẳn sẽ có hy vọng tốt. Trẫm thường nghĩ đến sự khó nhọc của việc cày cấy[11], từng nói chuyện với Hình Bính rằng những người chăm chỉ làm ruộng thường gặp nhiều tai họa[12]. Bính nói rằng tai họa của dân chúng đại khái có bốn loại: một là dịch bệnh, hai là hạn hán, ba là lũ lụt, bốn là bệnh dịch ở trâu bò. Mỗi năm ắt có một trong bốn loại đó, chỉ là nặng nhẹ khác nhau mà thôi. Trong bốn loại tai họa, hạn hán là nghiêm trọng nhất. Vì ruộng không có mương rãnh, nên không thể cứu được, thiệt hại sẽ rất lớn, đúng như sách truyền nói: ‘Thiên tai lưu hành, quốc gia đời nào cũng có’. Bính từng sống lâu ở nông thôn, rất am hiểu việc nông, tự nói rằng đã nghiệm chứng nhiều lần. Những năm gần đây mùa màng liên tiếp được mùa, Trẫm thường lo lắng về tai họa, lại nghe nói năm nay lúa mạch gieo trồng rất nhiều, được tuyết rơi đúng lúc này, nhà nông không còn lo hạn hán mùa đông nữa.” Sau đó, Vua ban yến cho các quan cận thần ở Trung thư, lại mở tiệc ở Sùng Văn Viện cho các quan trong quán các. Vua làm thơ “Thụy Tuyết”, sai các quan ở Tam quán họa ngay tại chỗ, còn các quan Lưỡng chế thì hôm sau dâng lên.
[63] Ngày Quý Mùi, Tiểu hiệu Kiêu kị thuộc Điện tiền ty là Trương Tín bị xử tử ở chợ. Tín tố cáo rằng Chỉ huy sứ Cái Tán quản lý cấp dưới quá nghiêm khắc, đánh đập quá mức. Trần Nghiêu Tẩu nói: “Đô ngu hậu Lý Kế Hòa nói rằng binh lính không tuân theo cấp trên, nên phải theo quân lệnh.” Vua nói: “Nếu tội ở binh lính, có thể xử nghiêm; nhưng nếu đánh đập quá mức, sao có thể không xét kỹ lý lẽ?” Mã Tri Tiết nói: “Thời Thái Tổ, mỗi khi bổ nhiệm tướng hiệu, đều chọn người cương trực, quyết đoán, khiến binh lính sợ uy.” Vua nói: “Đó là việc hợp thời lúc ấy.” Liền giao cho quan lại điều tra. Tín khai rằng: “Tán say rượu khi dạy tập, trừng phạt bộ hạ. Tín bèn dùng cán cung dẫn hơn bốn mươi lính, lớn tiếng nói: ‘Chúng ta rồi sẽ bị Chỉ huy sứ say rượu đánh chết.’ Rồi thẳng đến Mã quân ty tố cáo.” Tán nói: “Tuy ngày nào cũng uống rượu, nhưng những lính bị đánh đều có lỗi.” Kế Hòa xin chém hơn mười người tố cáo, còn lại đày ra đảo Sa Môn, phạt Chỉ huy sứ và Đô ngu hậu. Chiếu xử tử Tín, những người còn lại bị đánh trượng và đày ra châu ngoài, người nhẹ tội thì trở về bản châu, Tán bị đánh trượng và đày đến Hứa Châu, còn Đô ngu hậu không biết kiểm soát, Phó chỉ huy sứ không biết giúp đỡ Tán, đều giao cho bản ty xử phạt.
[64] Ngày Giáp Thân, lệnh cho Thẩm quan viện chọn quan lại kinh triều có tài cán, đỗ tiến sĩ làm Thông phán Bảo Châu, vì nơi này gần biên giới, võ thần làm thủ lĩnh, các thư từ trả lời Bắc giới thường sai lầm về lý lẽ.
[65] Ngày Mậu Tý, lệnh cho Xu mật viện trình lên các điều lệ ân thưởng cho hoàng tộc và thân thích trong dịp lễ Nam Giao và Thừa Thiên tiết. Trước đây, mỗi khi có lễ triều khánh, hoàng tộc đều mong cầu ân sủng quá mức. Vua bảo Trần Nghiêu Tẩu rằng: “Nếu cứ chiều theo mọi yêu cầu, thì những bề tôi chăm lo việc nước sẽ không lấy đó làm cớ sao? Từ nay, ai vượt quá lệ định, hãy lệnh cho Thượng thư và Nội tỉnh không phê chuẩn.” Nghiêu Tẩu tâu: “Năm trước, Trần Quốc Trưởng Công chúa xin chức Thứ sử gần cho con trai, người đã có chức quan thì xin được thăng chuyển hàng năm, các viện xin miễn thuế cho thuyền xe buôn bán. Năm ngoái, Trình Kế Tông quản lý việc vận chuyển, phạm tội bị xét xử, Tấn Quốc Trưởng Công chúa xin thay thế. Những việc như thế[13], bọn thần chỉ xin ý chỉ của bệ hạ vì họ là quốc thích[14], nhưng bệ hạ đều gác lại không trả lời. Từ đó, những người thân thích được bảo đảm làm quan đều bị hạn chế theo phẩm trật, mỗi người đều có giới hạn, trong ngoài đều biết triều đình công bằng đối đãi bề tôi.” Vua nói: “Trong số thân thích cũng có người dẫn việc triều Thái Tổ, Thái Tông để nói, Trẫm chỉ đáp rằng công nghiệp của tổ tiên lớn lao, sao có thể so sánh? Huống chi mọi việc đều có chế độ, Trẫm tuân thủ, đâu dám sai lệch? Gần đây họ cũng dần biết lỗi, mỗi người đều an phận.”
[66] Ngày Canh Dần, ban y phục Thừa Thiên tiết cho những người canh giữ Thái Miếu[15], lấy đó làm lệ hàng năm.
(Tháng giêng năm Tường Phù thứ 8, Xu mật viện dâng lên điều lệ mới.)
[67] Ngày Tân Mão, Khiết Đan phái sứ giả là Tả Lĩnh quân Vệ Thượng tướng quân Gia Luật Nguyên, Chiêu Đức Tiết độ sứ Gia Luật Hài Lý, phó sứ là Tả Uy Vệ Thượng tướng quân Lý Tông[16], Điện trung Thiếu giám Lý Thao đến chúc mừng lễ Thừa Thiên. Theo tục lệ của người Khiết Đan, món thịt chồn đất (đề li) là món ăn quý nhất, chỉ dùng để dâng lên mẹ và chủ nhân. Đến lúc này, sứ giả mang theo vài con đến, cho uống sữa dê[17], rồi sai đầu bếp chế biến theo cách của người Khiết Đan để dâng lên. Vua cho phép dâng lên, chọn những món ngon rồi yêu cầu thêm, khiến sứ giả cảm động vui mừng. Tiếp đón sứ giả Khiết Đan là Vương Thự tâu: “Thần từng phụng mệnh đi sứ phương Bắc, các quan ở đó thường đến chào hỏi, hỏi thăm tình hình an ổn của các quan triều ta từng đến nước họ. Thần thấy họ không có ý gì nghi ngờ, nên đều trả lời chân thật. Nay sứ giả phương Bắc đến, xin bảo các quan từng đi sứ Khiết Đan cũng nên giao tiếp với sứ giả phương Bắc, hỏi thăm tình hình an ổn của họ, để có thể làm họ vui lòng.” Vua nghe theo.
(Sách Hội yếu chép việc này vào tháng 4, nay dời đến sau phần Khiết Đan phái sứ.)
[68] Gia Luật Nguyên ở lại kinh thành, từng hỏi người hầu cận: “Hàng ngày trong quán nghe tiếng trống, chẳng lẽ là luyện tập chiến trận sao?” Có người trả lời rằng đó là tiếng trống trong các buổi diễn trò hát hoặc tiệc tùng trong dân gian. Vua nghe được, nói với tể tướng: “Chi bằng nói thật với họ. Các quân gần đây không có chiến tranh, việc luyện tập võ nghệ cũng là chuyện thường của quốc gia, và cũng để tỏ ra không có gì giấu giếm với họ.”
[69] Tháng 12, ngày Ất Mùi, Vua ban tay viết tờ chiếu cho Vương Khâm Nhược rằng: “Các quan biên soạn sách về sự tích của Vua tôi, đều được chọn lựa kỹ càng. Trẫm đối với sách này, không chỉ dùng để đọc trong lúc rảnh rỗi sau khi nghe chính sự, mà còn để phân biệt thiện ác, lưu truyền cho đời sau, khiến Vua tôi, cha con có chỗ để răn dạy. Từ nay về sau, từ các quan biên soạn ban đầu đến Dương Ức, mỗi người theo quy định mới, lần lượt kiểm tra lẫn nhau. Nếu trong sách có chỗ sai sót, mục lục không hợp lý, niên đại, đế hiệu bị đảo lộn, đều phải ghi chép lại, và ghi rõ tên người phụ trách, theo từng quyển tâu lên. Sau này so sánh công lao, sẽ ban thưởng theo thứ bậc, để phân biệt người siêng năng và lười biếng. Giao cho Lưu Thừa Khuê chuyên trách việc này.”
Khâm Nhược là người xảo quyệt, khi biên soạn sách, nếu được Vua khen thưởng, liền tự mình đứng tên đầu để tạ ơn; nếu có sai sót bị Vua khiển trách, thì lại bảo thư lại nói là do Dương Ức và những người khác làm. Đồng liêu đều ghét ông ta, bèn bảo Trần Việt nằm như xác chết giả làm Khâm Nhược, Thạch Trung Lập đóng vai vợ Khâm Nhược khóc bên cạnh, còn những người khác hát bài “Ngụy Tấn” ở phía trước. Khâm Nhược biết chuyện, bí mật tâu lên, định trị tội tất cả. Vương Đán can thiệp, việc mới thôi. Dương Ức ở trong viện, nếu Khâm Nhược đến sau, ắt phải tránh ra ngoài, ở nơi khác cũng vậy. Đến khi Khâm Nhược ra làm quan ở Hàng Châu, cả triều đều làm thơ tiễn, chỉ có Dương Ức không làm. Khâm Nhược ngày từ biệt tâu lên, Vua dụ Dương Ức làm thơ, nhưng cuối cùng Ức vẫn trì hoãn không nộp.
(Việc này căn cứ theo 《Giang Hưu Phục tạp chí》 ghi chép thêm.)
[70] Dân huyện Kiền Vi vì chặt cây mở đường, đánh nhau với người Nam Man, có người chết và bị thương. Tri châu Ích Châu là Nhiệm Trung Chánh tâu rằng huyện này núi non hiểm trở, là con đường trọng yếu đến Vân Nam, xin đặt 300 quân đồn trú, cử quan trong triều làm chức Trú Bạc Giám Áp. Vua cho rằng đất Thục đã lâu yên ổn, không muốn sinh sự, bèn hạ chiếu dụ Trung Chánh cấm dân vùng biên giới chặt cây mở đường, giao tranh với người Man.
[71] Ngày Bính Thân, Tào Lợi Dụng tâu rằng bọn giặc cướp tan rã ở châu Nghi đã bị truy bắt giết hết, rồi dâng lên bản đồ phá giặc. Vua đưa ra cho các quan phụ chính xem, chỉ vào chỗ quân tiên phong phá giặc, nói rằng Lợi Dụng và Trương Hú trước cùng ký vào giấy, mỗi người cầm 100 tờ, để cấp cho tướng sĩ lập công. Khi phá giặc, Lợi Dụng ở phía trước, quân không được cấp gì, còn Hú ở phía sau mà được cấp quá nửa. Vì thế, tháng 10 năm sau mới ban thưởng cho quân sĩ Ninh Sóc.
[72] Kinh Nguyên Kiềm Hạt là Tần Hàn tâu: “Viện Nạp Chất ở quân Trấn Nhung trước đây có bọn người Phiên gian trá dùng thân thuộc làm con tin, theo chiếu đều được thả. Có tên Y Đặc Cổ, dòng dõi lớn nhất, hung ác nhiều mưu kế, thả ra không tiện, nay đưa về kinh, cho thân thuộc cùng đi, để họ không nghi ngờ, xin đưa vào quân ngũ ở nơi xa.” Vua hạ chiếu ban 2 vạn tiền trang bị, cho vào quân tịch ở châu Ôn, lại cấp lương tháng. Thân thuộc của hắn được trở về Trấn Nhung, cấp ruộng và lương, không cho đi cùng. Vua cho rằng dùng mưu kế để bắt giữ, không phải là cách thể hiện lòng tin.
[73] Ngày Đinh Dậu, hạ chiếu rằng trước ngày tế lớn và ngày kỵ lớn một ngày, tuy không tấu việc xử tử, nhưng nếu tội nhẹ không thể để lâu, thì Viện Thẩm Hình tâu lên.
[74] Khi Vua mới lên ngôi, đã hạ chiếu cho các lộ không được dâng vật tường thụy, nhưng sau đó vẫn có người tiến hiến, bèn hạ chiếu cho Thượng thư Lễ bộ nêu lại chế độ cũ để cấm. Lễ bộ tâu: “Phúc ứng đến, để tỏ rõ mưu lược lớn, dù đức Vua khiêm tốn, cốt ở tự hạ mình, nhưng nếu sử thần không ghi chép, đời sau biết sao? Xin chỉ báo lên tỉnh, gửi Sử quán.” Vua chuẩn tấu.
[75] Lúc đầu, nhà dân huyện Thanh Thần là Sử Quang Bảo bị cướp, kỳ bảo nói đêm đó có sấm, Diên Phú, Diên Nghị không ngủ tại nhà mình, huyện úy liền bắt và tra hỏi. Các lại huyện là Vương Tự cùng bọn tùy ý tra tấn, khiến họ chết. Một lúc sau, châu bắt được bảy tên cướp nhà Quang Bảo, mới rõ oan cho Phú, Nghị. Ích châu Nhậm Trung Chính tâu đầy đủ, ngày Mậu Tuất, chiếu miễn thuế ruộng ba năm và miễn lao dịch cho hai hộ Phú, Nghị.
[76] Bãi cỏ kinh thành Hà Nam bị cháy, Đô tuần kiểm ngoài thành, Phó đô chỉ huy sứ Bộ quân Vương Ẩn lệnh cho Đô ngu hậu Hổ Dực điện tiền là Cao Loan đem quân doanh gần đó đến cứu chữa. Điện tiền ty tâu rằng Loan không thuộc quyền mình, nên đợi chiếu chỉ, xin xét tội. Vua cho rằng chữa cháy là việc gấp, Ẩn được tùy nghi hành sự, bèn lệnh tha tội cho Loan, nhưng răn từ nay phải tuân theo chế độ cũ.
[77] Ngày Kỷ Hợi, chiếu cho các châu tiết độ ở Xuyên Hạp và những nơi trọng yếu quân nhiều, dùng chức Thị cấm trở lên làm Giám áp. Lúc đó, phủ Hưng Nguyên tâu rằng có tiểu hiệu vô lễ với Hộ quân, người đó là Tam ban Phụng chức, vì chức nhẹ.
[78] Ban cho các cận thần gấm vóc Khiết Đan, rượu Tân La, thịt Phiên.
[79] Ngày Nhâm Dần, phong con gái thứ của Phò mã đô úy Thạch Bảo Cát làm Lạc Lăng quận quân. Lúc đầu, Vua cho là không có lệ, lệnh Trung thư xét kỹ cố sự, Trưởng công chúa nước Tấn nhiều lần xin ân, nên đặc cách ban tước quận.
[80] Lò rèn đạo sĩ ở châu Duyễn, mỗi năm nộp hơn hai vạn cân sắt, người phụ trách hết sức khai thác luyện, thường không đủ, có người vì thế mà phá sản. Ngày Quý Mão, lệnh bãi bỏ.
[81] Trước đó, Vua từng hỏi các quan phụ chính về số lượng người dự thi cống cử trong thiên hạ, Vương Đán tâu: “Hơn một vạn ba nghìn người, theo lệ thường, chỉ chọn được khoảng một phần mười một để tâu lên mà thôi.” Vua nói: “Nếu vậy, thì số người bị loại chẳng phải ít hơn một vạn người sao? Các quan phụ trách việc này cần phải được lựa chọn cẩn thận. Triều Huýnh là người cẩn thận, nên giao việc này cho ông ấy. Chu Khởi, Vương Tằng, Trần Bành Niên đều có thể tham gia.” Phùng Chửng[18] tâu: “Việc niêm phong đầu quyển thi, nếu triều đình cử quan phụ trách, cũng hợp lý, đặc biệt nên dùng người vốn có phẩm hạnh.” Vương Đán nói: “Đằng Nguyên Yến ít giao du với các sĩ đại phu.” Vua nói: “Nay nên để Chu Tốn thay Chu Khởi làm chủ khảo, lệnh cho Chu Khởi cùng Đằng Nguyên Yến cùng phụ trách việc niêm phong.” Do đó, Vua sai Hàn lâm học sĩ Triều Huýnh, Tri chế cáo Chu Tốn, Vương Tằng, Long đồ các đãi chế Trần Bành Niên cùng làm chủ khảo.
Sau khi nhận chiếu, Vua dặn dò ý chỉ chọn người tài, cốt ở sự công bằng, đề bạt những người nghèo mà có tài năng. Lại sai Giám sát ngự sử Nghiêm Dĩnh, Trương Sĩ Tốn giám sát cổng trường thi, Đô quan viên ngoại lang Kiều Nhan, Thái thường bác sĩ Trịnh Di, Thái thường thừa Trần Kí Tế tuần tra các phòng thi[19], Thái thường thừa trực tập hiền viện Nhâm Tuỳ, Trứ tác tá lang Trần Đàm kiểm tra bài thi tiến sĩ, Đại Lý tự thừa Mã Quy Phù cùng năm người khác chấm thi các khoa. Lại sai Tri chế cáo Chu Khởi, Kinh đông chuyển vận sứ Từ bộ viên ngoại lang Đằng Nguyên Yến niêm phong đầu quyển thi của thí sinh, dùng ấn phụng sứ; Điện trung thừa Lý Đạo giám sát cổng viện niêm phong. Bài thi tiến sĩ và các khoa khác đều niêm phong đầu quyển, giao cho chủ khảo chấm, và ban hành quy chế. Sau khi chủ khảo chấm xong và định xong thứ bậc, lại niêm phong rồi đệ trình lên, giao cho nơi phúc khảo chấm xong, sau đó mới so sánh kết quả. Việc Lễ bộ niêm phong đầu quyển và kiểm tra bài thi do các quan khác phụ trách đều bắt đầu từ đây.
Nguyên Yến là con của Trung Chính. Sĩ Tốn là người quân Quang Hoá.
(Xét truyện Chu Khởi, nói rằng Khởi sáng lập ra phép hồ danh; lại xét truyện Trần Tĩnh, cũng nói phép hồ danh chấm thi bắt đầu từ Tĩnh. Có lẽ Tĩnh trước xin dùng ở thi Điện, Khởi lại dùng ở Lễ bộ, nên Khởi là người đầu tiên làm quan niêm phong. Bảy người Nghiêm Dĩnh, Kiều Nhan, Trịnh Di, Trần Kí Tế, Trần Đàm, Mã Quy Phù, Lý Đạo, chưa rõ quê quán.)
[82] Ngày Ất Tỵ, ban chiếu rằng: “Các khoa cử nhân đều được xét theo thứ tự trường thi. Từ nay những người không đạt chuẩn phải đến trường thi phúc hạch mới được loại bỏ.”
[83] Quan Kiềm hạt lộ Lân Phủ tâu rằng, quân Khiết Đan dẫn binh bắt giặc đến biên giới, e rằng có âm mưu xâm lấn. Vua nói: “Đây là sự nghi ngờ quá đáng.” Sai Nội thị Vương Hoài Tín đi xem xét việc này. Ngày Bính Ngọ, Hoài Tín tâu rằng quân Khiết Đan bắt được tên trộm ngựa Xá Lợi rồi rút về, quả nhiên không có việc gì khác.
[84] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu rằng: “Các quan được ban ngựa, nghe nói quan lại ở Viện Kỳ Kỵ thiên vị, không công bằng. Từ nay, Trung sứ căn cứ vào cấp bậc được ban, mỗi người chọn định 20 con, theo thứ tự mà ban. Sau khi ban xong lại bổ sung, luôn giữ đủ số lượng.”
[85] Ngày Mậu Thân, ban chiếu cho các xưởng đúc tiền, mỗi tuần nghỉ làm một ngày, ai muốn làm thì cứ làm.
[86] Ngày Canh Tuất, Đô quan viên ngoại lang, Đồng phán Thái thường lễ viện Tôn Thích tâu: “Xem thấy năm tới ngày mùng một tháng giêng tế Tiên Nông, ngày mồng 9 thượng tân cầu mùa, tế Trời. Theo 《Xuân Thu truyện》: ‘Mở đất mà tế giao, tế giao rồi mới cày.’ 《Nguyệt lệnh》 nói: ‘Thiên tử lấy ngày nguyên đán cầu mùa với Trời, rồi chọn ngày nguyên thần, tự cầm cày bừa, thân hành cày ruộng đế tịch.’ Các bậc tiên nho đều nói, ngày nguyên đán tức là thượng tân, tế Trời, ngày nguyên thần là ngày cát sau tế giao, tế Tiên Nông rồi cày ruộng. 《Lục điển》, 《Lễ các tân nghi》 đều nói trước là thượng tân tế Trời, sau là ngày cát tế Tiên Nông. Xin đổi dùng ngày cát sau thượng tân để tế Tiên Nông, và ghi thành lệnh.” Vua sai Thái thường tự cùng quan Kiểm thảo của Sùng văn viện xem xét kỹ. Sau đó, quan Phán tự Lý Tông Ngạc tâu: “《Tống thư》, 《Hậu Ngụy thư》 đều chép là dùng ngày cát sau thượng tân để tế Tiên Nông,[20] xin theo lời tâu của Thích[21].” Vua đồng ý.
[87] Ngày Quý Sửu, ban chiếu rằng số bạc trắng ban thưởng cho quân lính đồn trú ở Hà Đông lộ, giá mỗi lạng không quá một nghìn tiền. Trước đây, hàng năm đều cử sứ giả ban thưởng giày bạc, sứ giả trở về tâu rằng bản châu không có bạc, mỗi lạng chỉ cấp 750 tiền, trong khi thực tế giá thị trường là một nghìn tiền, do cơ quan kế toán không chuẩn bị trước. Vì thế mới có chiếu này.
[88] Binh lính Thần Kị là Triệu Vinh đánh trống Đăng Văn, tâu rằng có thể dùng thuốc biến đồng thành thau. Vua nói: “Dân gian không có đồng, đều nấu chảy tiền để làm, thuật này thật vô nghĩa.” Bèn hạ chiếu cấm chỉ, nhưng những thứ từ ngoại phiên đến thì không nằm trong lệnh cấm này.
[89] Lai Lân ở Đường Long trấn cùng người cùng tộc là Hoài Tam cướp bóc lẫn nhau, khiến các bộ lạc lều trại gần đó không yên ổn. Hàn Thủ Anh, quan trú bạc ở Lân Phủ, đem việc này tâu lên. Vua ban chiếu cử sứ giả đến triệu họ về và kết ước, xử lý theo pháp luật của phiên.
[90] Trước đây, Vua ban chiếu dán ở Lễ bộ Cống viện, nêu rõ ý nghĩa ngăn chặn việc nhờ vả riêng tư và tìm kiếm nhân tài nghèo khó, các cử nhân thấy đều vui mừng. Ngày Bính Thìn, Vua nói chuyện với Vương Đán và các quan về việc này, Vương Đán tâu: “Trước đây ban hành quy chế khảo thí mới, trong triều có nhiều ý kiến, cho rằng Trung thư không giữ được đại thể của khoa trường, chỉ nghi ngờ Xuân quan có tư tình. Đến khi chiếu dán ra, sĩ tử trong thiên hạ mới biết bệ hạ cố gắng hết sức để công bằng, sợ bỏ sót nhân tài nên mới thay đổi quy chế này.” Cấp sự trung Lương Chu Hàn từng xin thí tiến sĩ trước hết phải làm 20 bài thơ, chọn những bài hay rồi mới thi tiếp. Vua nói: “Như vậy thì chỉ những người giỏi thơ mới đỗ, còn người giỏi văn thì không thể thể hiện được.”
[91] Ngày Đinh Tị, Tư Đạc Đốc lại cử sứ giả đến cống.
[92] Ngày Mậu Ngọ, Khiết Đan phái sứ giả là Tả Uy vệ Thượng tướng quân Tiêu Lưu Ninh, Chương Vũ Tiết độ sứ Gia Luật Tín Ninh, Phó sứ Sùng Lộc Thiếu khanh Hình Tường, Hữu Uy vệ Đại tướng quân Gia Luật Toại Chính đến chúc mừng năm mới. Vua nói với các quan phụ tá: “Gần đây, các tướng võ và quan võ đều nói việc hòa hảo với Khiết Đan là không tiện.” Vương Đán nói: “Trong hàng ngũ quan văn cũng có người bàn như vậy. Tuy nhiên, quốc gia đã hòa hảo với Khiết Đan được ba năm, tính ra không phải dùng đến binh đao, không hao tốn tài lực, nhân dân vùng Hà Sóc được yên ổn.”
Vua nói: “Có người bàn rằng giặc đợi Hà Sóc được mùa mới động binh.” Phùng Chửng nói: “Biên cương không yên, các quan võ lấy đó làm lợi.”
Vua nói: “Quốc gia tuy dùng lòng nhân hậu để tỏ lòng thành, nhưng cũng không bỏ việc quân sự, chúng sao dám phá bỏ lời thề? Chỉ cần giữ gìn thanh tịnh để trị nước, yên ổn dân chúng.”
[93] Các quan biên giới từng có người tâu xin chiêu mộ ngựa chiến, Vua nhìn các quan tả hữu nói: “Hiện nay các bộ lạc đã yên ổn, việc buôn bán đã thông suốt lâu ngày, sao lại đột nhiên chiêu mộ? Hơn nữa, nuôi nhiều ngựa quá thì chi phí càng lớn. Khiết Đan xin hòa, nay đã được ba năm, dân chúng Hà Sóc mới được hơi thở. Trị vì bốn phương, nên lo việc lớn, nếu chỉ nghe theo những kiến thức nông cạn, gây việc cho quốc gia, thì hại càng lớn.”
(Sách 《Bảo Huấn》 ghi việc này vào năm thứ tư[22], nay tạm ghi lại, đợi tra cứu thêm.)
[94] Ngày Kỷ Mùi, xuống chiếu rằng các quân Sương và các châu phạm tội, sau khi bị xử trượng xong, đều phải chuyển sang quân khác, những người phạm tội nặng hoặc ở biên giới tùy theo quân thì tâu lên xin xử. Trước đây, Pháp tự có tâu xin xử ngang với quân Cấm. Vua cho rằng quân hàm đã có phân biệt cao thấp, nên người phạm tội cũng theo đó mà giảm nhẹ.
[95] Xuống chiếu rằng từ nay các lộ tâu lên số lượng quân lương, trước hết phải gửi đến Xu mật viện ghi chép rồi chuyển sang Trung thư. Bởi vì phàm khiển quân đi đồn trú, phải dự tính trước nơi đó lương thực đủ hay thiếu.
[96] Ngày Tân Dậu, quan Đề điểm hình ngục ty Hà Bắc là Trần Cương tâu rằng: “Những người bị tội trượng bị gông cùm, hiện chưa có quy định cụ thể về loại gông, xin cho đặc biệt chế tạo, lấy 15 cân làm chuẩn.” Vua nghe theo.
- 'Bổn bộ' nguyên là 'bản quận', theo bản khác sửa lại ↵
- Theo bản Tống và bản Tóm tắt Tống, từ câu này đến câu 'càng đáng khen' đều được ghi vào ngày Canh Thân tháng 10. Trong quyển này, ngày Canh Thân tháng 10 cũng chép 'Chủng Phóng lại từ Chung Nam Sơn đến triều'. Các bản khác và sách 'Trường biên kỷ sự bản mạt' quyển 22 đều ghi giống bản này là 'Giáp Thìn'. Xét ngày Giáp Thìn là ngày mùng một tháng 10, ngày Canh Thân là ngày 17. Trong khoảng thời gian này, Phóng không thể hai lần đến Biện Kinh. 'Tống sử' quyển 457, bản truyện cũng chỉ chép 'tháng 10, lại đến'. Việc nào đúng, cần xem xét thêm. ↵
- Tiếu huyện nguyên chép là 'Tiếu huyện', theo bản trong các sách sửa lại. Xét thời Tống không có 'Tiếu huyện', do chữ 'Tiếu' và 'Tiếu' gần giống nhau nên nhầm, Tiếu huyện thuộc Hoài Nam lộ, Bạc Châu. ↵
- Bản gốc chép 'cho phép', theo các bản khác sửa lại. ↵
- Nguyên bản chép 'lập', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác sửa lại. Xem 《Tống sử》 quyển 266, truyện Quách Chí chép 'Dương Khả Pháp kế nhiệm'. ↵
- 'theo' nguyên bản là 'muốn', căn cứ vào các bản khác và 《Tống hội yếu》 binh 10-14 sửa lại ↵
- Cẩn thận chọn quan lại giữ chức, chữ 'thận' nguyên bản là 'lân', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trị tích thống loại》 quyển 5, 《Chân Tông thánh chính》 sửa lại. ↵
- Trấn phục bốn biển 'bốn biển' nguyên tác 'bốn phương', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 17, Biên niên cương mục quyển 7, Tống sử toàn văn quyển 5 sửa. ↵
- Đời trước có người dùng sức người tạo ra 'có' nguyên tác 'đều', theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản và sách trên sửa. ↵
- Chỉ có Đỗ Hạo đang trực đêm 'trực đêm' nguyên tác 'đêm trực', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và sách trên sửa. ↵
- 'Khó nhọc' nguyên bản là 'Duy khó', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 21 phần Thánh đức sửa lại. ↵
- 'Những người' và 'thường' hai chữ nguyên bản đảo ngược, theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại. ↵
- Nguyên văn 'Dĩ' sửa thành 'Tự' theo Tống bản và Tống toát yếu bản. ↵
- Nguyên văn 'Viết' sửa thành 'Đãn' theo Tống bản và Tống toát yếu bản. ↵
- Nguyên văn 'Tông' sửa thành 'Thủ', 'Tự' sửa thành 'Đẳng' theo Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác. ↵
- Phó sứ Tả Uy Vệ Thượng tướng quân Lý Tông, chữ 'Thượng tướng quân' nguyên bản là 'Đại tướng quân', theo Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. ↵
- Chữ 'dĩ' (cho uống) nguyên bản thiếu, theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu Phiên di nhất chi 39 bổ sung. ↵
- Chữ 'Phùng' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tục thông giám》 quyển 27 và văn bản này mà bổ sung. ↵
- Chữ 'phố' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản tóm tắt đời Tống và bản các bản khác mà bổ sung. ↵
- Chữ 'cát' trong 'ngày cát sau thượng tân' vốn thiếu, căn cứ vào câu 'xin đổi dùng ngày cát sau thượng tân để tế Tiên Nông' ở trên và 《Thái thường nhân cách lễ》 quyển 40, 《Thông khảo》 quyển 87 phần Giao xã khảo bổ. ↵
- Chữ 'xin' vốn thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các bổ sung. ↵
- Chữ 'sự' trong câu 'Bảo Huấn dĩ thử sự hệ tứ niên' vốn thiếu, nay căn cứ vào bản Tống và bản Tóm tắt đời Tống bổ sung. ↵