"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 69: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ NHẤT (MẬU THÂN, 1008)

Từ tháng 5 năm Đại Trung Tường Phù thứ nhất đời Chân Tông đến hết tháng 8 cùng năm.

[1] Tháng 5, ngày Tân Dậu, Vương Khâm Nhược tâu rằng chuyển vận sứ Lư Diễm và Thiệu Diệp đang lo việc tế tự, muốn xin lưu lại tiền chuyển vận sứ Trương Tri Bạch tạm quản công việc thường ngày của ty này. Vua xuống chiếu cho Tri Bạch đợi khi lễ xong thì về kinh.

[2] Ngày Nhâm Tuất, ra lệnh rằng quan lại phạm tội tham nhũng nếu gặp ân xá thì phải tâu xin xử lý, vì có kẻ mong được ân xá nên cố ý vi phạm pháp luật, nên giam giữ tại chỗ, đợi chỉ dụ.

[3] Vương Khâm Nhược tâu rằng dưới chân núi Thái Sơn có suối ngọt chảy ra.

[4] Chuyển vận sứ Hà Bắc Lý Sĩ Hoành tâu xin bãi bỏ số tiền 8 vạn quan do nội phủ hỗ trợ. Sau đó, lại xin chở 49 vạn lượng vàng, lụa, cỏ khô và lương thực từ địa phương mình về kinh đông để giúp việc tế tự. Vua nói: “Sĩ Hoành xử lý công việc có tâm lực, đáng khen.” Bèn ban chiếu khen ngợi. Đinh Vị nhân đó xin lưu Sĩ Hoành ở Châu Thiền để quản việc Đông phong, Vua đồng ý.

[5] Các quan hữu ty đã bàn bạc kỹ lưỡng và định ra nghi thức, xin dựng một đài tròn trên núi Thái Sơn, đường kính năm trượng, cao chín thước, có bốn bậc lên xuống, phía trên trang trí màu xanh, bốn mặt theo màu sắc phương vị. Bên ngoài đàn có một vòng rào rộng một trượng, quấn ba vòng dây thừng màu xanh. Đàn thiêu đặt ở phía đông nam của đài tròn, cao một trượng hai thước, vuông một trượng, mở cửa phía nam, rộng sáu thước.

Dưới chân núi, đàn tế phong có bốn tầng, mười hai bậc, theo quy chế đàn viên khâu trong sách 《Giao tự lục》, phía trên trang trí màu đen, bốn mặt theo màu sắc phương vị; đặt ba vòng rào. Đàn thiêu giống như trên núi. Đàn Xã Thủ có tám góc, ba tầng, tám bậc, ba vòng rào, theo quy chế đàn phương khâu. Lại đào hố chôn ở phía bắc ngoài vòng rào.

Ngọc điệp và ngọc sách của Trời Đất đều khắc chữ và dát vàng, nối bằng dây bạc mạ vàng, đựng trong hộp ngọc, đặt trong hòm đá. Ngọc sách của vị thần phối hưởng được đựng trong hộp vàng. Điệp rộng năm tấc. Sách rộng một tấc hai phân, dày ba phân[1].

Quy chế hộp vàng, dài một thước ba tấc. Nắp hộp dài bằng hộp, dày hai tấc, rộng năm tấc, chỗ buộc dây khắc năm đường. Đóng hộp bằng bùn vàng trộn với bột vàng và nhũ hương. Đóng dấu bằng ấn “Thụ mệnh bảo”, ấn vuông một tấc hai phân, chữ khắc là “Cung ưng thiên mệnh chi bảo”. Chỗ đóng dấu trên hộp khắc sâu hai phân.

Quy chế hòm đá, dùng đá xếp hai lớp, mỗi cạnh năm thước, dày một thước, đục giữa rộng và sâu để đựng hộp ngọc, bên cạnh chỗ đặt nắp đều khắc sâu bảy tấc, rộng một thước, phía nam và bắc mỗi bên ba chỗ, đông và tây mỗi bên hai chỗ, cách góc đều bảy tấc, chỗ buộc dây đều khắc ba đường[2], rộng một tấc năm phân, sâu ba phân. Lại làm nắp đá để đè hòm[3], đều dài ba thước, rộng một thước, dày bảy tấc, khắc ba đường, rộng và sâu như chỗ buộc dây. Chỗ đóng dấu khắc sâu hai tấc, đủ để đặt ấn. Lại làm nắp đá nhỏ, tương ứng với chỗ khắc. Nắp đá đặt bên cạnh hòm, chỗ khắc lại buộc ba sợi dây vàng quanh hòm, mỗi sợi năm vòng, đường kính ba phân. Đóng hòm bằng bùn đá trộn với bột đá và đất màu phương vị. Đóng dấu bằng ấn “Thiên hạ đồng văn bảo”, ấn đúc bằng vàng, quy chế giống ấn ngự tiền.

Đá chặn mười hai viên, chia đặt bốn góc, đều rộng hai thước, dày một thước, dài một trượng[4], khắc xiên đường rãnh[5], tương ứng với góc hòm[6], đều xếp hai lớp, lại dùng đất ngũ sắc đắp thành vòng tròn. Trên hòm đường kính một trượng hai thước, dưới hòm đường kính ba trượng chín thước[7]. Kích thước hai ấn đều lấy thước hiện nay làm chuẩn. Hộp vàng khi về, đặt ở thất bản trong Thái Miếu.

Chiếu đều theo đó.

[6] Ngày Ất Sửu, Vương Khâm Nhược tâu rằng ở núi Tích có rồng xanh xuất hiện.

[7] Ngày Bính Dần, sai Vương Đán, Phùng Chửng, Triệu An Nhân soạn văn ngọc điệp, ngọc sách. Vua dụ rằng: “Văn ấy nên đầu tiên nói về việc trời ban điềm lành, sau nói về ý cầu phúc cho dân.”

[8] Chiếu cho các châu nơi đi qua khi phong thiền tạm tăng thêm quân đồn trú, ban tiền và rượu, lệnh quan địa phương khao thưởng.

[9] Ngày Mậu Thìn, cấm những người mới đỗ được bổ làm quan không được vay tiền của nhà giàu với lãi suất cao để đến nơi nhậm chức trả lại, nơi nào phát hiện thì xử lý.

[10] Ban đầu, hữu ty xin theo lệ cũ đời Đường, khi hoàng đế tế cáo ở miếu rồi xuất kinh, núi Thái Sơn và Xã Thủ Sơn đều dùng pháp giá. Vua cho rằng chiếu trước chỉ yêu cầu việc tế lễ phải long trọng, còn lại nên giản ước, bèn đổi dùng nghi trượng tiểu giá, sau đổi tên tiểu giá thành loan giá.

[11] Ngày Tân Mùi, Triệu An Nhân tâu, nhận được văn thư của Thái bộc tự, xin cho kim ngọc lộ đến Thái Sơn trước, xe cao 2 trượng 3 thước, rộng 1 trượng 3 thước, nếu cửa thành, cầu đường các châu huyện đi qua có chỗ hẹp thì cho sửa chữa. Vua nói: “Như thế thì làm khổ dân. Có thể đi vòng ngoài thành, chỗ nào có mồ mả thì tránh.”

[12] Ngày Quý Dậu, Tần quốc Hiền Túc Trưởng công chúa mất.

(Vương Thừa Diễn mất trước vào năm Hàm Bình thứ nhất.)

[13] Ngày Giáp Tuất, Vua thấy lương thảo chuẩn bị cho việc phong thiền quá nhiều, gọi Đinh Vị đem sổ binh hộ giá ra xem, nói: “Có lẽ hữu ty không biết số lượng, chuẩn bị quá nhiều, không nghĩ đến việc làm phiền dân, những thứ chưa chuyển đi thì đợi mùa thu mua thêm.”

[14] Ngày Bính Tý, chiếu thu nhặt thi hài trôi nổi trên sông Biện, Thái, Quảng Tế để chôn cất, rồi làm lễ tế.

[15] Tam ty mượn 10 vạn lạng bạc của nội tàng khố, được chấp thuận.

[16] Ngày Đinh Sửu, miễn thuế 3 năm cho những hộ bị cướp bóc ở Phục Châu.

[17] Lệnh các châu nộp sản vật địa phương trước tháng 10 về chân núi Thái Sơn.

[18] Ngày Canh Thìn, chiếu các lộ năm nay thu thuế hạ thu tại châu quân bản địa.

[19] Các quan xin rằng: “Vào ngày đăng phong, trên đàn viên đài dựng cờ hiệu màu vàng, đến đàn dưới chân núi đặt lửa đuốc. Khi sắp hành lễ, đốt đuốc nối tiếp nhau. Lại xuất ra các tấm bài sơn, sai người cầm cờ truyền xuống dưới chân núi. Khi bài đến nơi, các công khanh vào vị trí, hoàng đế đến chỗ vọng lễ thiêu, trên núi truyền hô vạn tuế, dưới liền cử hành lễ thiêu. Hoàng đế trở về chỗ nghỉ, giải trừ nghiêm cấm. Lại truyền hô xuống, các quan tế mới lui. Chỗ chôn lễ vật ở Xã Thủ cũng đặt ba ngọn lửa đuốc làm chuẩn.” Đều theo lời xin.

Bắt đầu quy định các công khanh vào vị trí cũng dùng tiếng truyền hô làm hiệu lệnh[8]. Vua cho rằng việc tiếp thần cần phải nghiêm trang tĩnh lặng, bèn đổi thành các tấm bài sơn, khi lễ xong mới cho truyền hô[9]. Lại sợ việc truyền các tấm bài sơn không kịp thời, giờ khắc có sai lệch, trước đó sai Ty Thiên dùng đồng hồ nước đặt trên núi và dưới núi, lại dùng đồng hồ mặt trời để kiểm tra, lại dùng tiếng gõ bản bên đàn để ứng hợp. Lại từ Thái Bình Đính, Thiên Môn, Hoàng Hiến Lĩnh, Đại Nhạc Quan, mỗi nơi dùng cột dài treo đèn lồng chiếu xuống để tham khảo, khiến không sai lệch thời tiết.

[20] Tặng cha của Nguyên Đức Hoàng thái hậu là Lý Anh, nguyên là Càn Nguyên Phòng ngự sứ, chức Kiểm hiệu Thái úy, An Quốc Tiết độ sứ, truy phong làm Thường Sơn quận vương; mẹ là Vương thị làm Ngụy Quốc Thái phu nhân, lại sai sứ cáo tế tại miếu Nguyên Đức Hoàng thái hậu.

[21] Ngày Tân Tỵ, Vua tiếp Vương Đán và các quan ở Long Đồ các, đưa ra bản đồ đàn phong thiền cho xem. Vua nói: “Ngày tế giao, vị trí tế Hạo Thiên Thượng đế không đặt chính giữa, vì hợp tế với Hoàng Địa Kỳ. Nay ngày phong thiền, vị trí Hạo Thiên Thượng đế nên đặt ở hướng Tý, thiên thư đặt ở phía đông, vị trí Thái Tổ, Thái Tông so với ngày tế giao đặt ở phía tây bắc hướng nghiêng, để tỏ ý tổ tông kính thờ Thượng đế.”

[22] Ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng ngày thiên thư rời kinh đến chân núi, dùng 100 người nghi trượng của đạo môn, trên đường đi dùng 30 người. Theo chế độ cũ, nệm ngồi chính trong lễ giao tế đều dùng màu vàng, nệm lạy của hoàng đế dùng màu đỏ. Đến nay, ban chiếu rằng nệm ngồi phối tế dùng màu đỏ, nệm lạy dùng màu tím.

[23] Ban chiếu rằng các hành cung dọc đường chỉ dùng nhà cũ, sửa sang lại, không cần xây mới.

[24] Ban chiếu rằng ở các nơi hiểm yếu trên đường đến Thái Sơn đặt cửa, người không có nhiệm vụ hoặc không phải phục dịch thì không được lên.

[25] Hữu ty tâu rằng ngày thiên thư rời kinh, làm mới bàn và nệm đặt trong xe ngọc, chuẩn bị nghi trượng dẫn đường, 750 người cổ nhạc tiền hậu, hai viên trung sứ hộ tống hai bên, lại cử quan làm sứ. Ngày Quý Mùi, lấy Vương Đán làm Thiên thư Nghi trượng sứ (theo 《Tống sử》 là Nghi vệ sứ), Vương Khâm Nhược, Triệu An Nhân làm phó, Đinh Vị làm Phù thị sứ, Lam Kế Tông làm Phù thị đô giám, nhập nội cao phẩm Chu Hoài Chính, nhập nội cao ban nội phẩm Hoàng Phủ Kế Minh cùng làm hộ tống.

(Việc Vương Khâm Nhược, Triệu An Nhân làm phó sứ, thực lục chép vào ngày Bính Tý tháng 9, nay theo bản chí, ghi chung lại.)

[26] Ban chiếu rằng từ khi xa giá rời kinh đến trước lễ phong thiền, không cử nhạc, các châu huyện đi qua không được dùng ca kỹ đến đón.

[27] Khả hãn Dạ Lạc Hột của Hồi Cốt Cam Châu sai sứ đến báo tin thắng trận. Khi sứ giả về, ban cho Dạ Lạc Hột hương dược, đai vàng, cung kiếm, lại thưởng cho công chúa bảo vật và đồ dùng bằng vàng. Công chúa là mẹ của Dạ Lạc Hột, mọi việc đều hỏi ý bà rồi mới làm, nên ban thêm.

[28] Trung sứ từ Duyện Châu đến, nói rằng núi Thái Sơn vốn có nhiều hổ, từ khi khởi công xây dựng đến nay, tuy thường thấy nhưng chưa từng làm hại người, tất cả đều dẫn nhau vào núi Tồ Lai, mọi người đều lấy làm lạ.

Vua xuống chiếu cho Vương Khâm Nhược đến đền Thái Sơn làm lễ tạ, đồng thời cấm việc săn bắt hổ. Vua nói với Vương Đán và các quan rằng: “Từ khi suối nước ngọt phun ra, Trẫm đã hỏi thăm về đền miếu ở Thái Sơn, có người nói về ao Vương Mẫu, nhân đó nghĩ đến việc từ khi ban chiếu cho phép đông phong đến nay, hễ có linh tích thì đều làm lễ cầu khấn, chỉ riêng việc này còn thiếu.” Bèn sai trung sứ mang bài văn cầu khấn đến tế lễ, chưa kịp đi thì Vương Khâm Nhược đã dâng tấu lên, nói rằng nước ao biến thành màu tím. Xét nghiệm thì đó chính là đêm trước khi sứ giả lên đường. Vương Đán và các quan nói: “Điềm lành ứng nghiệm nhanh chóng như vậy, thực là do lòng thành cảm động đến trời đất.”

[29] Ngày Giáp Thân, Vua đưa ra những việc đã ghi chép bằng ngự bút cho các quan phụ chính xem và nói: “Trong cung cấm, số người không nhiều, nhưng những người bị giam cầm cũng đáng thương. Hôm qua Trẫm đã ra lệnh chọn 120 người, cấp tiền bạc hậu hĩ rồi cho về, đây cũng là một cách tiết kiệm chi tiêu[10]. Trẫm đang chú trọng sự thanh tĩnh để trị thiên hạ, phù hợp với lời dạy của đạo lớn.”

[30] Ngày Bính Tuất, Vua ngự tại điện Sùng Chính, thân hành xét án tù nhân ở Ngự sử đài, Tam ty, Khai Phong phủ và Điện tiền thị vệ ty, những người bị lưu đày trở xuống đều được giảm tội một bậc, những người bị đánh roi hoặc gậy đều được tha.

[31] Kinh Đông chuyển vận sứ tâu rằng việc tu sửa hành cung cần dùng ngói ống, xin vận chuyển từ kinh đô đến. Vua nói: “Trước đây đã có chiếu chỉ rằng hành cung không được xây dựng quá rộng, nay đang là mùa hè nóng nực, việc vận chuyển ngói từ kinh đô sẽ gây thêm phiền nhiễu, không phải ý Trẫm.” Lập tức ra lệnh dùng ngói thường để thay thế.

[32] Ngày Mậu Tý, Vua hạ chiếu khuyên răn tiết kiệm, ngăn cấm xa xỉ, các cơ quan ngoài việc giữ nguyên các đồ dùng như mũ miện, nghi trượng, pháp phục và đồ dùng trong yến tiệc, từ nay về sau trong cung cấm, hoàng thân và các quan không được dùng đồ trang trí bằng vàng thêu hoa văn, nếu cần làm mới thì phải chờ chỉ dụ, các cơ quan không được tự ý dâng mẫu lên. Lại sao chiếu chỉ ban cho mỗi nhà hoàng thân một bản.

[33] Tháng 6, ngày Nhâm Thìn, sở Tường định dâng lên nghi thức phong thiền, Vua xem xong nói: “Nghi thức này đã bỏ lâu, nếu không đủ lễ nghi, sao gọi là hoàn mỹ?” Liền viết tay 19 điều nghi vấn, sai năm sứ tham nghị sửa đổi rồi thi hành. Lại cho rằng núi thiêng thanh tịnh, sai quan tế giảm bớt số người, hoặc kiêm nhiệm, ai có tang chưa mãn, hoặc chưa hết khóc thì không được dự tế. Quan các ty nội thị, trừ người trực và túc vệ, chỉ cho 24 người đi theo, các ty chấp chưởng 93 người.

[34] Cho Hương dược khố phó sứ An Thủ Trung lĩnh chức Thứ sử châu Tự, Cung phụng quan, Cáp môn chi hậu Lê Thủ Trung làm Nội điện sùng ban sung chức. Thủ Trung và đồng liêu quản lý việc buôn bán, Tam ty tâu rằng thuế năm nay tăng hơn năm trước 849.000 quan tiền, bèn được thưởng.

(Lê Thủ Trung, chưa rõ lai lịch.)

[35] Dời kỵ binh lộ Hoàn Khánh đến gần, để giảm bớt việc vận chuyển lương thực. Lại dùng thượng quân thay thế các quân đóng ở Uy Vũ trở xuống. Trước đó, Sùng nghi sứ Hồ Trí Cung tâu rằng quân đóng ở lộ này đều không tinh nhuệ, xin đổi bằng cấm quân tinh nhuệ. Vua cho rằng lương thảo đã ít, nếu đóng thượng quân thì chi phí càng lớn, bèn hạ chiếu cho ty Kiềm hạt quy hoạch, dùng một thượng quân thay hai hạ quân. Đến khi tấu chương đến, xin làm theo chiếu chỉ.

[36] Ban cho các phụ thần tiền mới đúc “Tường Phù Nguyên Bảo” có chữ ngự bút.

[37] Dân lộ Hoàn Khánh đói, phát thóc kho bán rẻ để cứu tế.

[38] Ngày Giáp Ngọ, hạ chiếu cho các quan tăng thụy hiệu cho Thái Tổ, Thái Tông, đợi khi lễ phong thiền xong sẽ dâng sách bảo. Việc bàn thụy hiệu sai Vương Đán soạn, Đán nói theo lệ cũ nhà Đường, do Thừa lang hoặc Thái thường đảm nhiệm. Vua nói: “Tôn phụng tổ tông, há theo lệ thường? Đặc biệt sai phụ thần, để tỏ lòng hiếu của Trẫm.”

[39] Hạ chiếu tu sửa các nền cũ phong thiền đời trước ở Thái Sơn bị đổ nát. Trước đây, vào niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, tìm được ngọc sách và ngọc bích xã thủ của Đường Minh Hoàng, đến nay sai chôn lại chỗ cũ.

[40] Sai Đô quan viên ngoại lang Tôn Thích đến biên giới nước Khiết Đan, báo việc sắp làm lễ ở núi Thái Sơn. Lúc bàn việc tế lễ ở phía đông, quân đội phải đi theo, sợ Khiết Đan không hiểu, sinh nghi ngờ, muốn sai sứ đến báo. Vua nói: “Triều đình mỗi lần sai sứ đến, họ phải lo tiếp đón, bố trí nơi ở, chỉ cần cho Thích đến biên giới gửi thư báo là được.” Sau đó Khiết Đan trả lời: “Trung Quốc tự làm đại lễ, cần gì phải báo? Lễ vật sợ trái với lời thề, không dám nhận.” Vua nói: “Nước phương xa thường giữ vững lời thề, thật đáng khen.”

[41] Châu Khánh báo việc xây thành Nhĩ Đóa đã xong. Vua nói: “Thành này không đóng quân, chỉ để các bộ lạc tự giữ, cũng đủ làm chỗ che chắn gần biên giới.”

[42] Ngày Ất Mùi, ra chiếu cho các quân hiệu già yếu, bệnh tật phải về các châu ngoài, được tùy ý.

[43] Hữu ty tâu: “Theo điển lễ, khi hoàng đế tế ở miếu, đi thì dùng xe ngọc lộ, về thì dùng xe kim lộ. Vì phụng an thiên thư trên xe ngọc lộ, nên hoàng đế đi đến Thái Miếu, cả đi lẫn về đều dùng xe kim lộ.” Vua nghe theo.

[44] Điện trung thị ngự sử Triệu Tương tâu: “Hán Chương Đế theo lệnh tháng, sau Đông chí có văn thư thuận dương giúp sinh, không có việc xử án, nên định không xử tù vào tháng 11, 12. Nay tháng cuối đông là tháng sinh thánh, mà vẫn xử tử tội nhân, xin chiếu cho cơ quan hữu trách từ giữa đông giữ lại các án tử chưa xử, đợi đầu xuân xem xét, nếu có tình tiết đáng thương thì tha, còn lại xử theo pháp.” Vua nói: “Việc này tốt, nhưng sợ tù nhân bị giam lâu, lại có kẻ nhân cơ hội làm điều gian.”

[45] Ngày Bính Thân, cơ quan hữu trách xin trước ngày tế 7 ngày, sai quan dùng sinh tế chia nhau tế 8 vị thần ở Thiên Tề Uyên, lại tế các núi Vân Vân, Đình Đình, Túc Nhiên, Tồ Lai, Hội Kê, và chọn đất dưới núi Thái Sơn tế các Vua đời trước đã làm lễ phong thiền; trước ngày tế 1 ngày, dùng thái lao tế núi Thái Sơn, thiếu lao tế Xã Thủ. Vua đều nghe theo.

[46] Ngày Đinh Dậu, ban chiếu rằng từ cung điện, vườn thượng uyển trở xuống đến nhà ở của hoàng thân và bề tôi, không được dùng năm màu sắc để trang trí, cấm dùng lụa may cờ phướn, lụa trắng làm hoa giả.

[47] Chiếu rằng: “Nghe nói dân huyện Lâm Hoán, châu Túc mượn danh thần dị, xây dựng chùa chiền, người gần xa đổ xô đến, gây nhiễu loạn dân chúng, nên cấm chỉ việc này.”

[48] Trước đó, vào tháng 5, ngày Bính Tý, Vua lại mơ thấy vị thần nhân trước đây, nói rằng vào đầu tháng sau sẽ ban sách trời ở núi Thái Sơn, liền bí mật dụ bảo Vương Khâm Nhược. Do đó, Khâm Nhược tâu: “Ngày Giáp Ngọ tháng 6, thợ mộc Đổng Tộ ở phía bắc đình Lễ Tuyền thấy một tấm lụa vàng kéo trên cỏ, có chữ nhưng không đọc được, bèn báo với Hoàng thành sứ Vương Cư Chính. Cư Chính thấy trên đó có tên Vua, vội báo với Khâm Nhược, Khâm Nhược cùng mọi người đến lấy được. Liền dựng đạo trường, ngày hôm sau, quỳ trao cho trung sứ mang về cung.” Tấu đến, Vua vội triệu Vương Đán và các quan báo việc, muốn tự mình ra đón, liền lệnh cho Đán làm Đạo vệ sứ.

Ngày Kỷ Hợi, Đán cùng Phù thị sứ và các quan chuẩn bị nghi trượng, đón sách trời, vào cửa tây vườn Hàm Phương. Ngày Canh Tý, quần thần đến vườn, đón và dẫn lên điện.

Ngày Tân Sửu, Vua trai giới.

Ngày Nhâm Dần, chuẩn bị xe loan giá ra, quay mặt về hướng bắc lạy dưới điện, Đạo vệ sứ và Phù thị sứ từ trên điện mang sách trời đặt trước mặt Vua, Vua lạy hai lần rồi trao cho Trần Nghiêu Tẩu quỳ đọc, nội dung viết: “Ngươi kính hiếu phụng thờ ta, nuôi dân mở rộng phúc lành. Ban cho ngươi điềm lành, trăm họ đều biết. Giữ kín lời này, hiểu rõ ý ta. Quốc thọ dài lâu, tuổi thọ lâu dài.” Đọc xong, triệu tập bách quan cho xem, rồi lại mang lên điện. Lễ dâng rượu xong, Vua trở về trước. Đán và các quan Đạo vệ, Phù thị đến điện Triều Nguyên, Vua ra đón lạy rồi vào trong. Lúc đó mưa lâu ngày bỗng tạnh, cảnh vật trong sáng, trong vườn có mây ngũ sắc, khi đọc sách trời, hơi vàng như chim phượng đậu trên điện.

[49] Ngày Quý Mão, thăng Đổng Tộ làm Bát tác phó đô đầu, Vương Cư Chính làm Hữu ban điện trực.

[50] Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu cho các tù nhân bị án tử hình ở Duyện Châu được đưa đến các châu lân cận để xét xử.

[51] Ngày Canh Tuất, ân xá cho các tù nhân bị giam ở Duyện Châu từ tội lưu đày trở xuống.

[52] Ban tặng nước suối ngọt ở núi Thái Sơn cho các quan văn võ.

[53] Ngày Tân Hợi, xuống chiếu rằng: “Nghe nói khi cử sứ giả đến các châu bên ngoài để tế lễ, chi phí lễ vật vốn không có quy định cụ thể[11], hoặc các châu huyện nhân đó mà đòi hỏi, gây ra nhiều phiền nhiễu. Nay lệnh cho các cơ quan hữu trách quy định rõ số lượng rồi ban hành.”

[54] Khai Phong phủ tâu rằng sông Huệ Dân ở huyện Uý Thị bị vỡ đê, sai sứ giả đến giám sát việc đắp đê.

[55] Ngày Nhâm Tý, lấy ý nghĩa của lễ phong thiền, đổi tên các khúc nhạc dùng trong lễ giao tế, sau khi lễ xong thì đổi lại như cũ. Về sau, lễ tế Hậu Thổ ở Phần Âm cũng làm theo cách này.

Phán Thái thường lễ viện Tôn Thích tâu: “Theo lễ văn, sau khi tế Thái miếu xong, vũ vũ dừng lại, Thái chúc dọn đậu, nhạc Phong An nổi lên, một khúc rồi dừng, sau đó nhạc Lễ An nổi lên, đó gọi là tống thần. 《Luận ngữ》 nói: ‘Ba nhà dùng nhạc Ung để dọn đậu.’ Lại trong chức Nhạc sư của 《Chu lễ》 nói: ‘Khi dọn đậu, dẫn học sĩ hát bài Triệt.’ Trịnh Huyền chú giải: ‘Tức là hát bài Ung.’ 《Giao tự lục》 chép chương Đăng ca triệt đậu, tấu nhạc Vô Xạ Vũ. Như vậy, nhạc tế tông miếu, theo lễ có chương Đăng ca triệt đậu, nay sau khi tế xong liền nổi nhạc Lễ An, e rằng có thiếu sót, xin theo lệ cũ mà thêm vào.” Vua xuống chiếu cho Phán Thái thường tự Lý Tông Ngạc cùng các quan kiểm thảo bàn bạc rồi tâu lên. Tông Ngạc tâu: “Lúc đầu soạn nhạc chương, có khúc từ Triệt đậu Phong An, nhưng Nhạc thự theo thói quen không tấu, xin theo lời Tôn Thích tâu.” Vua đồng ý.

(Việc này 《Thực lục》 không chép, 《Hội yếu》 chép vào trước tháng 11, sau tháng 6, bản chí này cũng chép cùng lúc với việc đổi tên nhạc khúc phong thiền, nay phụ vào đây.)

[56] Trước đó, các lộ cống trà mới có hơn 30 châu, đi xa hàng nghìn dặm, có nơi một năm đi lại mấy lần, Vua thương xót sự vất vả, bèn xuống chiếu đình chỉ hết.

[57] Ngày Bính Thìn, bỏ Nội viên ty, theo lời xin của Tạ Đức Quyền.

[58] Ngày Đinh Tỵ, quần thần năm lần dâng biểu xin tôn hiệu là Sùng Văn Quảng Vũ Nghi Thiên Tôn Đạo Bảo Ứng Chương Cảm Thánh Minh Nhân Hiếu, Vua đồng ý.

[59] Ngự Liễn Viện xin chế riêng một chiếc kiệu Thăng Thái Sơn Thiên Bình để lên núi Thái Sơn, nhưng Vua lo rằng nó quá nặng sẽ làm khổ người khiêng, nên ra lệnh giảm bớt. Cơ quan phụ trách nói rằng đường lên núi hiểm trở, sợ kiệu không đủ chắc chắn. Vua nói: “Nếu đường hơi khó đi, Trẫm sẽ xuống kiệu đi bộ.” Vua lại sai làm riêng hộp báu và hộp đựng sách báu, đều thu nhỏ kích thước.

[60] Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Thân, các cơ quan tâu: “Lễ tế Nam Giao chỉ có Hạo Thiên, Hoàng Địa Kỳ, Phối Đế, Nhật Nguyệt, Ngũ Phương, Thần Châu, mỗi vị dùng 12 tấm lụa; còn các vị thần nội ngoại, núi sông, biển cả, dùng 64 tấm lụa chia đều mà không đặt riêng. Theo 《Khai Bảo Thông Lễ》, lụa dâng các vị thần nội ngoại, núi sông, biển cả đều theo màu sắc phương vị, tức là đều có quy định riêng. Nay xin ở đàn Phong Tự, từ nội quan đến ngoại quan 318 vị, đàn Xã Thủ từ núi sông trở xuống 18 vị, đều dùng lụa màu theo phương vị. Lại nữa, lễ sinh tế Nam Giao, chỉ chính tọa dùng bò con, Ngũ Phương Đế, Nhật Nguyệt, Thần Châu dùng chung 22 con dê và lợn, còn 737 vị tòng tự (theo 《Tống sử》 là 337 vị) vẫn dùng số lễ sinh trước chia đều. Nay xin từ Thần Châu trở lên 12 vị đều dùng bò con, còn dê và lợn cũ dùng để bổ sung vào lễ sinh tòng tự. Lại nữa, năm Cảnh Đức, Thiên Hoàng và Bắc Cực được nâng lên hàng nhất đẳng, nay xin cũng dùng lễ sinh tòng tự để dâng.” Tấu được chấp thuận.

[61] Quảng Châu tâu rằng chủ thuyền Đà Bà Lê của nước Đại Thực nguyện mang phương vật đến Thái Sơn dâng cống, Vua xuống chiếu cho phép.

[62] Trước đây, hàng năm khi đi tế lăng, dân chúng dọc đường dâng vật phẩm, Vua xuống chiếu cho các cơ quan ban thưởng, nhưng việc này thường bị chậm trễ. Ngày Nhâm Tuất, Vua sai Hữu Chánh Ngôn tri chế cáo Chu Khởi và Cung phụng quan Cáp môn Chỉ hầu Thị Kì Húc chuyên trách việc này.

[63] Phong thiền dùng sách ngọc điệp tổng cộng bảy bản, thợ ngọc Văn Tư nói rằng dùng ngọc để chạm khắc rất khó thành, tể tướng xin thay bằng đá mạ và đá khai thác từ Giai Châu dâng lên. Vua nói: “Đây là loại đá vũ phu, xem như ngọc để dâng lên trời, theo lễ có được không?” Liền sai trung sứ đi hỏi khắp các thợ ngọc, có người tên Triệu Vinh nói rằng vào niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, được lệnh cùng các thợ khác chế tác ngọc đẹp làm sách điệp, hơn một năm mới xong, để trong kho điện Sùng Chính. Vua liền lấy ra dùng, nói: “Đây là do thánh mưu của tiên đế đã hoàn thành, để lại cho kẻ hậu sinh.” Rồi đem cho các đại thần xem. Lúc đó Vương Đán đang ở trai phòng Trung thư, Vua liền sai trung sứ đến bảo.

[64] Ngày Bính Dần, miễn thu mua cỏ thiến ở Bộc Châu. Lại hạ chiếu cho Tam ty rằng, các châu mua vật phẩm cung tiến, nếu không phải là sản vật địa phương thì bãi bỏ.

[65] Ngày Kỷ Tỵ, sai Bí thư thừa, Trực sử quán Lưu Hài tạm quyền chức Tướng tác giám, cùng nội thị Trương Thừa Tố chỉ huy người phong đá đài viên[12], Thái thường bác sĩ, Trực tập hiền viện Tống Cao cùng nội thị Hác Chiêu Tín phong đá xã thủ, đều phải đo đạc trước. Hài và Cao xin vào điện tiện để dâng mẫu đá lên Vua xem, Vua đứng dậy thay áo rồi xem. Hài là con của Lưu Bàn; Thừa Tố là con của Trương Tông Quý.

(Hác Chiêu Tín, không rõ lai lịch.)

[66] Ngày Tân Mùi, 462 cử nhân Bộc Châu là Quách Thùy cùng mọi người nhân dịp xa giá tuần du phía đông, dâng lên 2000 thạch đậu và 40.000 bó cỏ. Vua nói: “Ý tuy đáng khen, nhưng nếu nhận thì các châu khác đều cho là cống phẩm, càng thêm phiền nhiễu.” Liền ra lệnh trả giá hậu hĩnh, rồi dụ dân các châu Kinh Đông không được làm như vậy nữa.

[67] Ngày Ất Hợi, chiếu phong cha của Mỹ nhân Lưu thị là Hổ Tiệp đô chỉ huy sứ, Gia Châu thứ sử, tặng chức Dĩnh Châu phòng ngự sứ, mẹ là Bàng thị truy phong làm Kinh Triệu quận quân; cha của Tài nhân Dương thị là Sùng Nghi sứ, Tri Nghiễm, tặng chức Đơn Châu đoàn luyện sứ, mẹ là Trương thị truy phong làm Thanh Hà huyện quân.

(Theo 《Chính sử Chương Huệ Dương Hoàng hậu truyện》: Tổ phụ là Thao, cha là Tri Nghiễm, đều không làm quan. Ở đây ghi là Sùng Nghi sứ, cần xem xét lại.)

[68] Ngày Đinh Sửu, Vua nước Tam Phật Tề sai sứ đến triều cống.

[69] Ngày Ất Dậu, Vương Khâm Nhược tâu rằng việc tu sửa Viên đài, Liệu đài, dọn đường, xếp đá đã hoàn thành, từ khi khởi công đến nay chưa từng thấy có kiến hay mối gì, xin tổ chức tế lễ ở nhạc từ, được chấp thuận.

[70] Tháng này, giá gạo ở các châu Tương, Hứa, Kinh Nam, Quỳ, Quy, Hạp là 300 tiền một hộc, giá lúa mạch là 12 tiền một đấu.

[71] Tháng 8, ngày Kỷ Sửu mùng một, Vương Đán dâng tôn hiệu cho Thái Tổ là Khải Vận Lập Cực Anh Vũ Thánh Văn Thần Đức Huyền Công Đại Hiếu Hoàng đế, Thái Tông là Chí Nhân Ứng Đạo Thần Công Thánh Đức Văn Vũ Đại Minh Quảng Hiếu Hoàng đế, chiếu theo lệnh cung kính thực hiện[13].

[72] Chiếu rằng các đồ tế khí ở các đàn tế đều đặt từ trên xuống dưới, không để người phụ trách dẫm lên một cách bất kính.

[73] Hữu ty tâu: “Gần đây, mỗi khi xa giá đi tuần du, các cơ quan đều xưng là tùy giá. Theo lệnh nghi chế, những người đến chỗ xa giá gọi là đến hành tại sở. 《Thái Ung Độc Đoạn》 viết: ‘Thiên tử coi bốn biển là nhà, nên gọi nơi ở là hành tại sở.’ Từ nay về sau, mỗi khi có tuần du, xin gọi là hành tại mỗ cơ quan.” Được chấp thuận.

[74] Viện Thẩm quan tâu rằng việc xét công tội của quan lại kinh triều vốn có thời hạn, nay việc đông phong sắp đến, xin tạm ngừng. Vua cho rằng các quan từ xa đến, sợ bị trì hoãn, nên lệnh đến tháng 9 mới dừng.

[75] Ngày Canh Dần, chiếu rằng quân mã trên đường đông phong không được xuống đường dẫm lên lúa má, người vi phạm sẽ bị trị tội.

[76] Vương Khâm Nhược tâu rằng ở núi Thái Sơn mỗi ngày đều mọc linh chi, quân dân tranh nhau hái dâng lên, xin ban thưởng tiền lụa, được chấp thuận.

[77] Vua nghe nói ở phủ Khai Phong huy động dân sửa đường, ngày Tân Mão, chiếu lệnh dừng ngay việc này.

[78] Các quan tâu rằng: “Cửu cung quý thần ở đàn này là đại tế, nhưng khi tế giao thì vị trí không đầy đủ, không nên đặt ngọc. Năm Cảnh Đức đầu tiên, Thiếu phủ giám nhầm đặt chín đoạn ngọc vào vị trí tòng tự ở Viên Khâu, nay xin bỏ đi không dùng nữa.” Vua cho rằng ở đàn phong tự, tuy có các vị Thái Nhất, Nhiếp Đề, Hiên Viên, Chiêu Diêu, Hàm Trì, Thiên Nhất tòng tự, nhưng vẫn nghi ngờ tên thần có khác. Ngày Nhâm Thìn, xuống chiếu xây riêng đàn Cửu cung ở phía đông hành cung, để ngày phong tự tế hưởng.

[79] Xuống chiếu rằng những tảng đá lớn khó vượt qua trên đường lên núi thì đắp đất san bằng, hoặc đi vòng qua; cây cối chắn đường thì dùng lụa màu buộc vào cành thân, đều không được làm tổn hại.

[80] Hồi Cốt Dạ Lạc Hột lại tâu rằng Triệu Đức Minh đến xâm lấn, bèn đem quân chống cự, Đức Minh nhiều lần thua, thừa thắng đuổi theo, vượt sông Hoàng Hà.

[81] Ngày Quý Tỵ, xuống chiếu rằng ngày phong tự, cháu đời thứ 46 của Văn Tuyên Vương, người có học vị đồng học cứu là Thánh Hữu được mặc áo xanh, đứng sau các quan kinh thành để bồi vị. Trước đó, Vua hỏi Vương Đán rằng: “Ngày phong tự, Thánh Hữu có thể cho bồi vị không?” Đán tâu: “Thánh Hữu chỉ được ban học vị, chưa được mặc áo mệnh, khó xếp vào hàng ngũ.” Vì thế đặc cách ra lệnh như vậy.

[82] Các quan tâu rằng:

“Nhà Tây Hán tế trời ở đàn Thái Trị tại Cam Tuyền, tế đất ở đàn Hậu Thổ tại Phần Âm. Đến đời Hậu Hán mới định lệ tế Nam Giao và Bắc Giao. Như vậy, đàn Hậu Thổ tại Phần Âm hiện nay vốn là nơi tế thần đất của nhà Hán. Tương lai, khi đã tế Hoàng Địa Kỳ ở Xã Thủ, thì không nên tế Hậu Thổ cùng ngày. Lại xét năm Khai Nguyên thứ 12 và thứ 20 đời Đường, tế Hậu Thổ tại gò Phần Âm[14], đến năm thứ 13 phong thiền, không tế riêng Hậu Thổ.

Mong rằng khi xa giá xuất kinh[15], sai quan đến Phần Âm cáo tế, ngày phong thiền không cần tế riêng.”

Vua nghe theo, bèn sai Cấp sự trung Phùng Khởi đi tế cáo.

[83] Ngày Giáp Ngọ, Tri Xu mật viện sự Trần Nghiêu Tẩu bị cách chức khởi phục.

[84] Xuống chiếu cấm tăng ni và dân chúng trong các chùa ở kinh thành có hành vi thô tục, bắt tăng ni phải giữ gìn thanh tịnh, tu sửa và đốt hương.

[85] Ngày Bính Thân, lấy Tam ty Hộ bộ phán quan, Điện trung thị ngự sử Vương Hảo Cổ giám sát thuế thương nghiệp ở Nhuận châu; Công bộ viên ngoại lang, Trực Tập hiền viện Lưu Chất giám sát thuế thương nghiệp ở Liên Thủy quân; Thái thường thừa, Phán Tam ty Thôi khiếm bằng do ty Vương Thự giám sát việc muối ở Lư châu; Trứ tác lang, Trực Sử quán, Thông phán Duyện châu Lý Địch giám sát thuế thương nghiệp ở Hải châu. Trước đây, Vương Hảo Cổ và các quan khác giải cử nhân thi thu ở Quốc tử giám, có người làm bài sơ sài, theo luật phải cách chức, nhưng gặp lúc đại xá nên chỉ xử phạt nhẹ. Từ đó, các châu đều lấy đó làm lệ.

(Vương Hảo Cổ, Lưu Chất, không rõ lai lịch.)

[86] Nội thị Đặng Văn Khánh giám sát đạo trường ở Thái Sơn, vì lời nói khinh suất trên tiệc của Chế trí sứ, bị xuống chiếu cách chức.

[87] Ngự Liễn Viện dâng lên chiếc liễn mới chế tạo, giảm bớt hơn bảy trăm cân, chiếu chỉ từ nay thường dùng. Lại tâu rằng đệm ngồi trên xe kiệu, trước khi có chiếu chỉ dùng kim tuyến thêu làm đồ trang trí, xin tạm giữ như cũ, đợi khi cũ hỏng thì cải tạo, dùng lụa trơn thay thế.

[88] Ngày Kỷ Hợi, chiếu ban cho quần thần đi theo hộ giá, các ban quân và các hạng người tiền trang bị, so với khi tuần du thì tăng thêm một bậc.

[89] Ngày Canh Tý, đặt Ty An phủ vùng biên giới Hà Đông, lệnh cho Phó sứ An phủ và một viên Đô giám Hà Bắc đảm nhiệm việc này.

[90] Vì xa giá tuần du, các châu thuộc Kinh Đông Tây, Thiểm Tây, Hoài Nam lộ, nơi nào là địa bàn trọng yếu thì tạm tăng thêm quân đồn trú, lệnh cho các Tư sứ trở xuống làm Đô giám Trú bạc. Lại dùng Nội điện Sùng ban Lưu Văn Chất làm Đô giám Trú bạc kiêm Đô Tuần kiểm Tề châu, vì phía bắc núi Thái Sơn có đường thông đến Tề châu, nên tăng cường cảnh bị.

[91] Điện trung Thị ngự sử Triệu Tương tâu: “Ngày đón Thiên thư ở vườn Hàm Phương, trên đường rải đất làm đường ngự, dùng thanh ngang làm rào, sợ người giẫm lên, nhưng quần thần qua lại, người đi trước thường dẹp thanh ngang, cho ngựa đi trên đường ngự; lại mỗi khi gặp ngựa xe, không dừng lại xướng danh, chia đường mà đi, đều không phải là lễ của bề tôi. Nay nếu hoàn toàn theo cổ chế, không cấm đường ngự, sợ kinh sư đông đúc, cản trở xe ngựa. Xin từ nay gặp đại lễ, rải đất làm đường ngự, quần thần không được cho ngựa đi trên đó, người dẫn giá không thuộc diện này. Và mỗi khi quần thần tập duyệt, ngựa xe không được xông qua, cho phép đi ngựa hai bên, người vi phạm do Ngự sử đài xét xử.” Chiếu theo lời tâu.

[92] Ngày Tân Sửu, chiếu cho Thẩm hình viện, Khai Phong phủ từ ngày mùng một tháng chín trở đi không được tâu án tử hình, chỉ lệnh cho Trung thư nghị định thi hành.

[93] Châu Cao tâu ba người thương nhân Chiêm Thành, Chân Lạp bị Giao châu đuổi, lạc đường đến địa giới châu, xin phối thuộc vào châu này. Vua nói: “Dân phương xa, cùng khổ đến xin nương nhờ, nên cấp quần áo, tiền bạc, sai người đưa đến biên giới, thả về nước.”

[94] Ngày Giáp Thìn, chiếu rằng đường núi Phúc Kiến hiểm trở, quân sĩ chở vật dụng cho liễn, từ nay gặp ngày nghỉ tuần, tiết lễ thì đặc cách cho nghỉ.

[95] Quan Tường định nghi chú là Triều Huýnh cùng các quan dưới quyền tập luyện nghi thức tế lễ tại đàn tròn Thái Sơn ở Đô Đình dịch.

[96] Ngày Ất Tỵ, ra lệnh cấm giết mổ gia súc trong một tháng trên toàn thiên hạ, bắt đầu từ tháng mười.

[97] Hàn lâm Thị giảng học sĩ Hình Bính cùng các quan dâng lên sách 《Cảnh Đức triều lăng địa lý ký》 gồm 60 quyển, Vua ban chiếu khen ngợi.

[98] Ngày Bính Ngọ, Vương Khâm Nhược tâu rằng đường lên núi, đàn tế, lều Vua đều đã hoàn thành. Vua nói với các phụ thần: “Mỗi khi có sứ giả từ Thái Sơn trở về, Trẫm đều hỏi đầu tiên về việc lao dịch vất vả, họ đều nói cảnh vật khác thường, mọi người đều vui vẻ hoàn thành công việc.” Vương Đán cùng các quan nhân đó ca ngợi đức lớn của Vua, Vua nói: “Đây là nhờ trời ban phúc, tổ tiên tích đức mà thành, Trẫm đâu đáng nhận lấy.”

[99] Quan Tường định nghi chú lại tập luyện nghi thức tại Đô Đình dịch.

[100] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu thăng ban thứ của Thị lang hai tỉnh lên trên Thường thị tả hữu[16], hợp ban thứ với Lục thượng thư, theo lời thỉnh cầu của Trung thư môn hạ. Ban đầu, Thị lang hai tỉnh từ thời Đường Chí Đức trở đi đều do Tể thần kiêm nhiệm, chưa từng xếp thứ tự với các quan khác. Năm Thiên Phúc thứ 7 đời Tấn, bắt đầu dùng Hình bộ Thị lang Đậu Trinh Cố làm Trung thư Thị lang, từ đó xếp dưới Thường thị, và cứ thế không thay đổi. Nay mới sửa lại cho đúng.

[101] Châu Kiềm tâu rằng thủ lĩnh người Man ở động Ma Tha, Lạc Phố là Cung Hành Mãn cùng hơn 2.300 người trong tộc quy thuận, tộc này từ thời Đường đến nay chưa từng hướng về giáo hóa.

[102] Ngày Kỷ Dậu, Vương Khâm Nhược vào triều, dâng 8.139 cây cỏ linh chi.

[103] Ngày Canh Tuất, Vương Khâm Nhược tâu: “Thần từ khi đến chân núi, thường mơ thấy thần nhân xin xây thêm đình trong miếu, lại mơ thấy lần nữa như trước, và chỉ rõ phương hướng để nhận biết. Gần đây nhân khi đốc suất việc xây dựng đến đền thờ Uy Hùng tướng quân, xem tượng thần và đất miếu, đều hợp với giấc mơ, nay xin dùng tiền thừa xây đình trong miếu.” Vua đồng ý.

[104] Hình bộ Thượng thư, Tri châu Thiểm là Khấu Chuẩn dâng biểu xin đi tế lễ, Vua chuẩn tấu.

[105] Ngày Tân Hợi, xuống chiếu cho các quan văn võ già yếu, bệnh tật và còn nhỏ tuổi đều được ở lại kinh sư.

[106] Ngày Quý Sửu, Ty Chuyển vận Hà Đông tâu rằng: “Dò biết được quân Khiết Đan đang tập trung binh mã, dân biên giới rất lo sợ, mong được tăng thêm quân đồn trú.” Vua nói: “Gần đây, phía bắc cũng báo rằng người Nhung nghe tin nước ta phong tước ở phía đông, điều động vận chuyển, e rằng sẽ nhân cơ hội tiến hành thảo phạt, tập hợp quân lính củng cố thành lũy, lấy danh nghĩa đi săn để tuần tra biên giới. Hơn nữa, triều đình vốn đã giao hảo với họ, không có mâu thuẫn gì. Nếu nghe tin họ nghi ngờ gây rối mà vội tăng thêm quân phòng thủ, họ ắt sẽ càng thêm nghi ngờ.” Bèn xuống chiếu cho các quan biên giới cứ theo chế độ thường lệ, không được gây sự.


  1. Dày ba phân, chữ 'phân' nguyên bản là 'tấc', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 phần Phong Thái Sơn, 《Tống hội yếu》 Lễ 22-8, 《Tống sử》 quyển 104 phần Lễ chí sửa lại.
  2. Chỗ buộc dây đều khắc ba đường, chữ 'xử' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống hội yếu》, 《Tống sử》 và 《Thông khảo》 quyển 84 phần Giao xã khảo bổ sung.
  3. Lại làm nắp đá để đè hòm, các sách trên đều có chữ 'thập' dưới chữ 'thạch kiểm'. Xét văn dưới nói 'đều dài ba thước, rộng một thước', nên có chữ 'thập' là đúng.
  4. Dài một trượng, bản Tống, bản Tóm tắt Tống và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 phần Phong Thái Sơn đều ghi là 'dài một thước', 《Tống hội yếu》 Lễ 22-9 và 《Thông khảo》 đều giống bản này.
  5. Khắc xiên đường rãnh, 《Tống sử》 quyển 104 phần Lễ chí giống, 《Tống hội yếu》 Lễ 22-8, 22-9 và 《Thông khảo》 đều ghi là 'khắc xiên đầu'.
  6. Tương ứng với góc hòm, chữ 'ngung' nguyên bản thiếu, căn cứ theo 《Tống sử》, 《Thông khảo》 và 《Tống hội yếu》 Lễ 22-8 bổ sung.
  7. Dưới hòm đường kính ba trượng chín thước, chữ 'tam' nguyên bản là 'nhị', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và 《Tống hội yếu》, 《Tống sử》, 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 phần Phong Thái Sơn sửa lại.
  8. Cũng dùng tiếng truyền hô làm hiệu lệnh, chữ 'dùng' nguyên là 'trọng', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại
  9. Mới cho truyền hô, chữ 'mới' nguyên là 'nhưng', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 sửa lại
  10. Chữ 'dụng' nguyên là 'độ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trị tích thống loại》 quyển 5, 《Chân Tông thánh chính》 sửa lại.
  11. 'Lễ liệu' nguyên là 'Lễ khoa', theo 《Tống hội yếu》 Lễ 14-14 sửa lại.
  12. chữ 'đồ' nguyên bản viết là 'tỉ', căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 'Phong Thái Sơn', 《Tống hội yếu》 Lễ 22-14 sửa lại
  13. Ba chữ 'chiếu cung y' nguyên bản thiếu, căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống hội yếu》 đế hệ nhất chi cửu bổ sung.
  14. Lại xét năm Khai Nguyên thứ 12 và thứ 20 đời Đường, tế Hậu Thổ tại gò Phần Âm: 'Hậu Thổ' nguyên bản viết là 'Hoàng Thổ'. Xem 《Thông Điển》 quyển 45 phần Lễ chép: năm Khai Nguyên thứ 12, ngày 22 tháng 2 và năm thứ 20, ngày 21 tháng 11, tế Hậu Thổ tại gò Phần Âm; 《Thông Khảo》 quyển 76 phần Giao Xã Khảo cũng chép tương tự. 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 quyển 17 phần Phong Thái Sơn cũng chép là 'Hậu Thổ'. Nay theo đó sửa lại.
  15. Mong rằng khi xa giá xuất kinh: 'nhật' nguyên bản viết là 'tự', theo 《Trường Biên Kỷ Sự Bản Mạt》 sửa lại.
  16. Chiếu thăng ban thứ của Thị lang hai tỉnh lên trên Thường thị tả hữu, chữ 'ban' nguyên bản thiếu, căn cứ vào 《Tống hội yếu》 Nghi chế 3-8 và 《Biên niên cương mục》 quyển 7 bổ sung.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.