"

I. TỐNG THÁI TỔ

QUYỂN 7: NĂM CÀN ĐỨC THỨ 4 (BÍNH DẦN, 966)

Từ tháng giêng năm Càn Đức thứ 4 đời Thái Tổ đến hết tháng 12 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Đinh Mão (mùng 1), Vua ngự tại điện Văn Minh để nhận triều lễ.

[2] Ngày Ất Hợi (mùng 9), sai trung sứ lo việc an táng vợ của Xu mật trực học sĩ Triệu Phùng là Chu thị. Lúc đó, Triệu Phùng đang tạm quyền cai quản Lãng châu. Vua nghe tin vợ ông bị bệnh mất ở kinh đô, nên ra lệnh cho quan lo việc tang lễ. Triệu Phùng tính tình tàn nhẫn, khi ở Lãng châu, gặp lúc giặc nổi lên, tấn công thành. Ông chống cự có công, nhưng sau khi việc yên, số người bị giết gần đến nghìn nhà.

[3] Ngày Bính Tý (mùng 10), sai Cung phụng quan đô tri Tào Thủ Kì (Thủ Kì, chưa rõ lai lịch) cùng người khác đến Giang Lăng, Phượng Tường, ban tiền lụa cho gia quyến của các quan lại nhà Thục giả, người bệnh thì cấp thuốc men.

[4] Ngày Bính Tuất, ban chiếu rằng: “Các viên phán quan của ba ty là Diêm Thiết, Độ Chi, Hộ Bộ, ngoài việc thi hành công việc của bản ty, từ nay nếu có việc thay đổi chế độ, phân bổ, điều chỉnh, tăng giảm điều lệ, chuyển vận cung ứng, những việc liên quan đến khởi xướng đều phải bàn bạc kỹ lưỡng, cẩn thận từ đầu, đảm bảo sự hợp lý.

Nếu việc chưa rõ ràng, cần phải tham khảo, thì nên gửi văn bản hỏi các ty khác. Các ty khác sau khi nhận được công văn, phải trả lời đầy đủ, nêu rõ được hay không, mới được thi hành. Nếu trì hoãn, sẽ bị xử phạt. Nếu nhờ đó mà thay đổi, hợp lý và thuận tiện, thì cũng phải tấu trình, và được tính vào thành tích.

Nếu trong triều đã tham khảo nhiều lần mà việc vẫn chưa quyết định[1], thì cho phép gửi văn bản hỏi các lộ chuyển vận sứ về lợi hại. Các ty chuyển vận khi nhận công văn cũng phải trả lời theo quy định này, trừ trường hợp có việc quân cấp bách. Nếu việc làm của tam ty sứ không đúng, các phán quan bản ty phải kiên quyết tham khảo. Nếu sự việc rõ ràng mà không tuân theo, thì cho phép trình lên để quyết định. Hoặc việc đã được trình bày, xưng là theo chỉ thị thi hành, nhưng chưa thuận tiện, cũng cho phép chỉ ra. Nếu phán quan bản ty tránh việc không nói, thì cho phép phán quan bộ khác hoặc các lộ chuyển vận sứ trực tiếp tấu trình lợi hại.

Việc thưởng phạt phải được thực hiện nghiêm ngặt. Các phán quan của mỗi ty phải ghi chép thành tích vào sổ, cùng với phán sứ ký tên[2], đến cuối năm sẽ xét xử thăng giáng. Nếu biết rõ lợi hại mà im lặng, sẽ bị xử lý ngay, không cần đợi cuối năm. Mỗi ty sẽ đặt một viên suy quan, phụ trách xử lý công án và quản lý công việc của ty, cấp riêng con dấu. Nếu tam ty sứ phát hiện phán quan khởi xướng việc không đúng, cũng phải ghi vào sổ. Các chuyển vận sứ nếu thấy việc làm của tam ty bất tiện cho dân, được phép thẳng thắn tấu trình, không được che giấu. Những việc làm và tấu trình đề nghị điều chỉnh, cũng phải ghi vào sổ và trình lên mỗi quý, để căn cứ xét định thứ hạng và thực hiện thăng giáng.”

[5] Ngày Đinh Hợi, lấy Khách tỉnh sứ Đinh Đức Dụ làm Tây Xuyên đô tuần kiểm sứ, cùng Dẫn tiến phó sứ Vương Ban, Nội ban đô tri Trương Tự cùng dẫn quân mấy nghìn người đến Tây Xuyên, lúc này đảng của Toàn Sư Hùng vẫn chưa bị tiêu diệt hết.

(Trương Tự, không rõ lai lịch.)

[6] Ngày Kỷ Sửu, Vua ngự đến vườn Nghênh Xuân để yến tiệc và bắn cung.

[7] Ban chiếu bãi bỏ các khoản thuế vô danh mà các Thứ sử thời Ngụy Thục ở Đạt Châu đã đặt ra đối với thuộc hạ.

[8] Bắc Hán xâm lấn, Vua ra lệnh cho các trấn phía tây bắc xuất quân chống lại.

[9] Tháng này, quân Khiết Đan lại xâm phạm Dịch Châu, Giám quân Nhiệm Đức Nghĩa (Đức Nghĩa, không rõ lai lịch) đánh đuổi chúng. Lệnh cho Quan Nam binh mã đô giám cùng các Thứ sử các châu Hùng, Bá, Doanh, Mạo dẫn quân bản bộ tổ chức săn bắn ở vùng biên giới U Châu để phô trương uy vũ.

(Theo ‘Quốc sử Khiết Đan truyền’, ‘Bản kỷ’ chỉ ghi việc phô trương uy vũ ở Quan Nam và bốn châu, không ghi việc của Nhiệm Đức Nghĩa, mà đến tháng giêng năm Khai Bảo thứ tư mới ghi việc của Đức Nghĩa, e rằng ‘Bản kỷ’ có sai sót.)

[10] Tháng 2, ngày Quý Mão, Vua thân hành xem xét việc xây dựng cung thành, rồi ngự đến vườn Bắc để yến tiệc và bắn cung.

[11] Ngày Bính Thìn, An Quốc tiết độ sứ La Ngạn Hoàn tâu rằng cùng với Tây thượng cáp môn phó sứ Điền Khâm Tộ đại phá quân Bắc Hán ở trại Tĩnh Dương, chém hơn nghìn thủ cấp, bắt sống tướng Lộc Anh cùng nhiều người khác, thu được 300 ngựa và hơn 3 vạn khí giới.

[12] Vua nước Vu Điền sai con là Đức Tòng đến cống phương vật.

[13] Lúc đầu, tướng giặc Đỗ Thừa Chiết ở Du châu cướp bóc dân chúng, bao vây thành châu, viện binh bên ngoài không đến. Phán quan Biện Chấn thân chinh dẫn quân sĩ chống giữ, bị tên lạc bắn trúng. Vua ra chiếu cho cắt bỏ vết thương, nhưng vết thương quá nặng nên không thể chỉ huy quân, quân châu bị tổn thất nặng, thu quân giáp đào tẩu trong đêm.

Thứ sử Trần Thủ Tập (Thủ Tập, chưa rõ.) và Thông phán Thị Cư Phương đầu hàng giặc. Thừa Chiết vào chiếm phủ châu, dùng chức quan giả và hối lộ lớn để dụ Biện Chấn, Chấn đều chém sứ giả của chúng. Sau đó, Chấn sai người thuyết phục tên tướng giặc Trần Chương, trình bày uy đức của triều đình, chỉ rõ họa phúc. Chương vốn là hiệu úy bản châu, vừa sợ hãi vừa tin tưởng, bèn phục binh đánh Thừa Bao. Thừa Bao không chuẩn bị, quân giặc tan vỡ lớn. Chấn cùng Thủ Tập chia quân dẹp yên bọn giặc còn lại. Sau đó, quan lại tâu rằng Thủ Tập và Cư Phương từng thất thủ đầu hàng giặc, đáng tội chết. Chấn nhờ công trước được tha tội.

Ngày Đinh Tỵ, Thủ Tập được bổ làm Giáo luyện sứ ở Truy châu, miễn chức Cư Phương. Chấn là người Thành Đô.

(Truyện Biện Chấn chép Thủ Tập là Trần Văn Tập, nay theo ‘Thực lục’.)

[14] Ngày Tân Dậu, lệnh cho các châu ở tây bắc cấp ruộng, nông cụ và hạt giống cho những người sinh khẩu bị bắt từ Bắc Hán.

[15] Quyền tri Cống cử Vương Hỗ tâu rằng có 6 người đỗ tiến sĩ, 9 người đỗ các khoa khác. Vua sợ bỏ sót nhân tài, lại sai xét trong số những người không trúng tuyển, chọn những người ưu tú, xếp hạng rồi thăng bổ.

[16] Ngày Giáp Tý, miễn giảm một nửa thuế hạ năm nay cho các châu ở Tây Xuyên, những nơi không có mùa màng thì miễn thuế.

[17] Nhạc châu tâu rằng lửa cháy thiêu rụi gần hết nha môn, kho tàng, nhà cửa của dân.

[18] Tháng 3, ngày Quý Dậu, ra chiếu bãi bỏ nghĩa thương, vì dân chúng chịu nhiều khoản đóng góp chồng chéo, lại thành gánh nặng phiền nhiễu.

[19] Ngày Giáp Tuất, lần đầu ban củi lửa cho bách quan.

[20] Chiêm Thành cử sứ sang triều cống.

[21] Ngày Ất Hợi, Điện tiền đô úy Dương Nghĩa mắc bệnh nặng mất tiếng. Vua đến thăm nhà ông, ban cho hai trăm vạn tiền, lệnh vẫn nắm quân như cũ.

Dương Nghĩa trung trực, không có lòng dạ khác, nên Vua giao phó việc quân mà không hề nghi ngờ. Tuy không thể nói, nhưng chỉ tay ra lệnh, mọi người đều tuân theo, quân chính nghiêm túc. Có người tiểu đồng tên là Điền Ngọc, giỏi đoán ý Dương Nghĩa, mỗi khi tâu việc trước mặt Vua hoặc tiếp khách, hoặc răn dạy thuộc hạ, Dương Nghĩa đều quay lại nhìn Điền Ngọc, vẽ chữ trong lòng bàn tay, Điền Ngọc đều hiểu hết. Nhờ đó, Điền Ngọc thay Dương Nghĩa trình bày, đều như ý của ông.

[22] Ngày Kỷ Mão, các châu ở Hoài Nam tâu rằng có mấy ngàn dân đói từ Giang Nam đến xin gia nhập, lệnh cho các nơi mở kho phát chẩn cứu đói.

[23] Ban cho tướng sĩ vùng biên cương trà và gừng.

[24] Ngày Quý Mùi, ban chiếu các trưởng lại ở các châu Xuyên, Hiệp xem xét xóa bỏ những khoản thu nhỏ nhặt còn lại từ thời Hậu Thục mà chiếu chỉ trước chưa xóa bỏ, đều được tùy nghi bãi bỏ.

[25] Nhà sư Hành Cần và một trăm năm mươi người khác xin du hành Tây Vực, Vua ban chiếu cho phép, lại ban ba vạn tiền để lên đường.

[26] Ngày Ất Dậu, Vua đến vườn Ngọc Tân, cho quân lính tập bắn cưỡi ngựa, ban rượu cho các quan đi theo.

[27] Mùa hạ, tháng tư, ngày Đinh Dậu, Vua nước Chiêm Thành là Tất Lợi Đà Bàn sai sứ dâng phương vật cống hiến.

[28] Cấm các châu ở Kinh Hồ chế tạo bùa chú.

[29] Ngày Canh Tuất, tu sửa xong điện Sùng Nguyên, đổi tên thành điện Càn Nguyên. Triệu tập các cận thần và tướng hiệu đến xem. Ban cho cận thần đồ dùng quý, tướng hiệu lụa, thợ làm việc thì ban tiền.

[30] Phòng ngự sứ cũ ở châu Giáng là Quách Đình Vị người Bành Thành (Đình Vị, lần đầu xuất hiện vào năm Hiển Đức thứ tư) được làm Lưu hậu ở Tĩnh Giang, quyền tri châu Tử.

Thời Hậu Thục có các hộ trang điền, hộ chuyên chân đều trực thuộc châu tướng, hộ nuôi chim ưng hàng ngày dâng chim trĩ và thỏ, hộ săn bắn hàng năm nộp da thú, lại có các hương tướng, đô tướng thay nhau quấy nhiễu dân lành. Đình Vị đến, đều bãi bỏ hết.

[31] Ngày Nhâm Tý, bãi bỏ việc hàng năm phải cống chim ưng ở châu Quang, thả những người nuôi chim ưng về nhà.

[32] Ngày Đinh Tỵ, Tiết độ sứ Thiên Đức của Khiết Đan là Vu Diên Siêu cùng con là Nhân Ái đến đầu hàng. Phong cho Diên Siêu (Diên Siêu và Nhân Ái chưa từng xuất hiện trước đây) làm Hữu Thiên Ngưu vệ đại tướng quân, kiêm Tiết độ sứ Thiên Đức.

(‘Thực lục’ đến ngày Canh Thân mới chép việc Diên Siêu được phong Hữu Thiên Ngưu vệ đại tướng quân, nay ghi chung lại đây.)

[33] Tiến sĩ Lý Ái (theo ‘Tống sử’ và ‘Tục thông giám’ của Tiết Ứng Kỳ đều ghi là Lý Ái) ở Hà Nam phủ bị xử trượng, đày ra đảo Sa Môn. Lý Ái không tin Phật giáo, từng viết sách hàng ngàn chữ, đặt tên là ‘Diệt tà tập’, lại thu thập kinh Phật may thành chăn đệm, bị các nhà sư tố cáo. Doãn Hà Nam tâu lên việc này, nên ông bị lưu đày.

[34] Ngày Mậu Ngọ, phong Tiền Duy Trị, Lưỡng Chiết nha nội đô chỉ huy sứ kiêm Đài Châu đoàn luyện sứ, làm Ninh Viễn tiết độ sứ, vẫn giữ chức Lưỡng Chiết nha nội đô chỉ huy sứ như trước. Tiền Duy Trị là con trưởng của Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục.

[35] Ngày Canh Thân, Vua đến thăm bệnh ở phủ của Yến Quốc trưởng công chúa.

[36] Ngày Tân Dậu, ban chiếu rằng vùng Giang Nam liên tiếp mất mùa, cho phép dân chúng ven sông qua sông kiếm củi và buôn bán, chỉ cấm thương nhân như trước.

(Chép ở ‘Bản kỷ’ tháng bảy, nay theo ‘Thực lục’.)

[37] Tháng này, ban chiếu rằng: “Giữ gìn việc xuất nạp là trách nhiệm của quan lại. Nếu cố gắng tích lũy thặng dư, tất sẽ dẫn đến bóc lột. Tri quân Quang Hóa là Trương Toàn Thao (Toàn Thao chưa thấy chép) tâu rằng: ‘Tam ty lệnh các viên chủ ở các trường, viện, nếu có thặng dư thóc hơn một vạn thạch, cỏ hơn năm vạn bó, thì báo tên lên để xin thưởng.’ Nếu không tăng thuế dân, giảm lương quân, thì sao có thể đạt được? Nên bãi bỏ việc này, không ban hành nữa. Ngoài định mức hao hụt do quan lại quy định, nghiêm cấm việc này.”

(‘Thực hóa chí’ chép chiếu này vào tháng tư năm Càn Đức thứ tư, không rõ ngày. Trương Toàn Thao là người Giang Đông. Chép lại ở tháng hai năm Hưng Quốc thứ hai, có lẽ chính là Toàn Thao này.)

[38] Tháng năm, ngày Ất Sửu mùng một, ban chiếu rằng: “Các châu thuộc Xuyên, Hạp, nếu còn giữ lại chính lệnh hà khắc của nước Thục ngụy làm hại dân chúng, mặc dù đã nhiều lần ban chiếu cấm và bãi bỏ, nhưng quan lại vẫn không tuân thủ thi hành, không nỡ trị tội hết. Từ nay, không được để bộ khúc đảm nhiệm các công việc cũng như buôn bán trong khu vực, tranh giành lợi ích với dân, ai vi phạm sẽ xử theo pháp luật.”

[39] Ngày Canh Ngọ, ngự đến vườn Ngọc Tân mở tiệc bắn cung.

[40] Ngày Quý Dậu, bắt đầu lệnh cho các cơ quan pháp định dùng văn thêu thay cho màu sắc.

[41] Đường chủ sai sứ đến cống, chúc mừng điện Văn Minh hoàn thành.

[42] Ngày Giáp Tuất, Quang lộc thiếu khanh Quách (?) bị xử tử chợ. Quách (?) giữ chức Tri Vệ Châu, vì tham nhũng bị tố giác, triều đình sai Tả thập di Viên Nhân Phượng điều tra việc này, tội chưa đến mức xử tử, lại sai Tả thập di Trương Thuần xem xét lại, rồi mới đưa ra xử theo pháp luật.

(Nhân Phượng, Thuần, không rõ lai lịch.)

[43] Trước đó, Vua sai Hữu thập di Tôn Phùng Cát (Phùng Cát, không rõ lai lịch) đến Thành Đô thu thập sách vở và vật phẩm của nước Thục ngụy.

Ngày Ất Hợi, Phùng Cát trở về, những vật phẩm mang về đều không đạt chuẩn, lệnh đốt hết, sách vở giao cho Sử quán. Mạnh Sưởng sử dụng đồ dùng xa hoa vượt lễ, ngay cả vật dụng tiện tặn cũng trang trí bằng bảy báu, Vua liền ra lệnh đập vỡ, nói rằng: “Sử dụng xa xỉ như vậy, không mất nước sao được?” Vua luôn thực hành tiết kiệm, thường mặc áo giặt sạch, xe ngựa và đồ dùng đều giản dị, trong cung chỉ treo rèm lau sậy viền vải xanh, màn trong cung không có hoa văn. Vua từng lấy giày gai và áo vải cũ ban cho tả hữu, nói: “Đây là những thứ ta từng dùng trước đây.” Khai Phong doãn Quang Nghĩa nhân dịp dự yến trong cung, thong thả nói: “Bệ hạ ăn mặc quá sơ sài.” Vua nghiêm mặt nói: “Ngươi không nhớ lúc ở doanh trại Giáp Mã sao?”

[44] Vua ban đầu sai Thừa tướng soạn niên hiệu chưa từng có ở các triều trước để đổi niên hiệu hiện tại. Sau khi bình định nước Thục, có cung nữ Thục được tuyển vào cung, Vua nhân xem qua đồ đạc của họ, tìm thấy một chiếc gương cũ, mặt sau gương có khắc chữ “Càn Đức tứ niên đúc”, Vua giật mình, lấy gương cho Thừa tướng xem và hỏi: “Sao đã có gương đúc từ bốn năm trước đây?” Các quan đều không trả lời được.

Vua bèn triệu Học sĩ Đào Cốc, Đậu Nghi đến hỏi, Nghi nói: “Đây chắc là vật của nước Thục, ngụy chúa Vương Diễn trước đây từng dùng niên hiệu này, có lẽ chiếc gương được đúc vào năm đó.”

Vua liền hiểu ra, cảm thán rằng: “Thừa tướng phải dùng người biết đọc sách.”

Từ đó, Vua càng coi trọng các bậc nho thần. Triệu Phổ vốn nổi tiếng về tài xử lý công vụ nhưng học vấn không nhiều, Vua thường khuyên ông đọc sách, Phổ từ đó không rời sách.

(Sự việc này không rõ xảy ra vào thời điểm nào, vì không liên quan đến sự kiện cụ thể, nên được chép kèm sau việc thu thập sách vở và bảo vật của ngụy Thục.)

[45] Vua tính nghiêm túc, ít nói, chỉ thích đọc sách. Dù ở trong quân ngũ, vẫn tay không rời sách. Khi nghe nói nhân gian có sách quý, Vua không tiếc bỏ tiền mua.

Năm Hiển Đức, khi theo Thế Tông bình định đất Hoài, có kẻ dèm pha với Thế Tông rằng: “Triệu tướng quân khi đánh chiếm Thọ châu, đã mang theo mấy xe đồ, toàn là hàng quý giá.” Thế Tông sai người đến kiểm tra, mở hết các hòm, chỉ thấy mấy ngàn quyển sách, không có gì khác.

Thế Tông lập tức triệu Vua đến, dạy rằng: “Khanh đang làm tướng soái cho Trẫm, mở mang bờ cõi, nên chú tâm vào việc chuẩn bị khí giới, việc gì phải mang theo sách?”

Vua cúi đầu tâu: “Thần không có mưu kế gì cao siêu để giúp đỡ Thánh đức, lại được giao trọng trách, thường lo không đảm đương nổi, nên thu thập sách để mở rộng kiến thức, tăng thêm trí tuệ.”

Thế Tông khen: “Hay!”

[46] Ngày Bính Tý, ban chiếu cho các quan chức thuộc Tây Xuyên và châu huyện rằng: [3] những người trước đây nhận lương bằng vật phẩm thay thế, từ nay sẽ được cấp lương thực tế.

[47] Ngày Đinh Sửu, ra lệnh cho các châu cử người dưới quyền điều tra dân chúng, nếu có ai để cha mẹ, thân thuộc bị bệnh mà không mời thầy thuốc chữa trị, thì xử phạt nặng. (Sách ‘Thực lục’ chỉ nói riêng về Tây Xuyên, nay theo ‘Bản kỷ’).

[48] Ngày Canh Dần, Vua thân chủ trì thi khoa chế cho các cử nhân như Khương Thiệp ở dưới lầu Tử Vân, ung dung bảo với Hàn lâm học sĩ Thừa chỉ là Đào Cốc rằng: “Võ Tắc Thiên chỉ là một nữ chủ, tuy hình phạt có lúc oan uổng, nhưng cuối cùng không giết Địch Nhân Kiệt, nhờ đó mà giữ được ngôi báu, lý do chính là ở đây.” Nhân đó, bàn luận về được mất của các đế vương đời trước, đến chiều tối mới thôi. Bài thi của Khương Thiệp và các người khác văn lý sơ sài, không đáp ứng được sách vấn, nên đều ban rượu thịt rồi cho về.

[49] Bảo Ninh lưu hậu, Hổ Tiệp tả hữu sương Đô ngu hậu, quyền tri Thị vệ bộ quân ty sự Vương Kế Huân cậy được ân sủng ngạo ngược, bị thuộc hạ kiện tụng, giao cho Trung thư tìm xét sự thật. Tháng sáu, ngày Kỷ Hợi, bãi bỏ chức vụ quân sự của Kế Huân, sai Tả kim ngô vệ đại tướng quân Đỗ Thẩm Quỳnh thay thế. Phong Kế Huân làm Chương Quốc lưu hậu.

[50] Tả thập di, quyền tri Duy Châu là Từ Hùng do giấu giếm vật của quan phủ bị tước chức, lưu đày ra đảo Sa Môn.

[51] Ngày Giáp Thìn, sông Hoàng Hà vỡ đê tại huyện Quan Thành, châu Thiền, nước chảy vào địa phận Đại Danh, phá hủy nhà cửa dân chúng.

[52] Vương Toàn Bân đánh bại tướng giặc Toàn Sư Hùng ở trại Quán Khẩu, bắt được hai nghìn tay chân. Sư Hùng đem quân rút về Kim Đường.

(Sách ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ đều không ghi sự kiện này, ‘Bản kỷ’ ghi dưới sự kiện sông Hoàng Hà vỡ đê mà thiếu ngày. Theo ‘Thực lục’, sông Hoàng Hà vỡ đê vào ngày 11 tháng 6 năm Giáp Thìn. Ngày 13 là Bính Ngọ, ‘Bản kỷ’ chép chiếu cấm nuôi hoạn quan, cùng với ‘Thực lục’, nhưng không có ngày Ất Tỵ ghi chép. Vậy thì việc Vương Toàn Bân đánh bại Toàn Sư Hùng cũng phải là ngày 11 tháng 6, Giáp Thìn chăng? Cần xem xét thêm. ‘Bình Thục thực lục’ chép Toàn Sư Hùng đã chết vì bệnh ngày 27 tháng 11 năm thứ hai tại Kim Đường, khác với ‘Quốc sử’. Nay chỉ theo ‘Quốc sử’.)

[53] Ngày Bính Ngọ, ban chiếu chỉ cho phép quan trong cung từ 30 tuổi trở lên mới được nuôi một đứa con, dân thường không được nuôi trẻ nam làm hoạn quan.

[54] Thứ sử Lễ Châu là Bạch Toàn Thiệu bị miễn chức vì để thuộc hạ nhiễu dân, chiếm đoạt tài sản.

[55] Ngày Đinh Mùi, Vua ban chiếu sai Chuyển vận sứ Tây Xuyên là Thẩm Nghĩa Luân ở Thành Đô chép bản kinh ‘Kim Cương’ bằng chữ vàng bạc, rồi truyền về kinh đô[4].

[56] Ngày Tân Hợi, các tộc người Man ở Nam Châu dâng một trống đồng, xin quy thuận.

[57] Ngày Giáp Dần, Tiết độ sứ Hoành Hải của Khiết Đan là Tang Tiến Hưng (Tiến Hưng, không rõ lai lịch) đến hàng, được phong làm Tả Thiên Ngưu Vệ tướng quân. Thiên Vương Nương Tử và Tể tướng Doãn Việt của nước Tháp Thản đều cử sứ giả đến triều cống.

(Sách ‘Quốc sử’ và ‘Hội yếu’ đều ghi là vào mùa hè năm thứ tư, nên ghi chép ở đây. Các bản ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ không có ghi chép này.)

[58] Tháng 7 mùa thu, ngày Ất Sửu, Vua ban chiếu: “Từ nay, quan lại và dân chúng các châu không được tự tiện đến kinh sư xin giữ lại các chức Tiết độ sứ, Quan sát sứ, Phòng ngự sứ, Đoàn luyện sứ, Thứ sử, Tri châu, Thông phán, cùng các chức Mạc phủ, Châu huyện. Nếu thực sự có thành tích trị lý xuất sắc, muốn xin lưu giữ, hoặc xin dựng bia tụng đức, thì cho phép người địa phương trình bày, tâu lên chờ xét.”

[59] Ngày Bính Dần, Vua ban chiếu từ kinh đô đến Thành Đô, các châu huyện dọc đường, nơi nào có quan lại, tướng tác của nước Thục cũ và thân thuộc của họ bị bệnh, đều cấp thuốc men, ban tiền bạc.

[60] Ngày Mậu Thìn, Vương Toàn Bân tâu rằng thủ lĩnh các tộc người Tây Nam Di kiêm Thứ sử Bá Châu là Đổng Cảnh (theo ‘Tống sử’ và ‘Tục thông giám’ của Tiết Ứng Kỳ, đều ghi là Đổng Hạo) xin quy thuận.

[61] Ngày Kỷ Tỵ, Vua đến xưởng đóng thuyền, rồi đến vườn phía bắc của Khai Phong Doãn để yến tiệc và bắn cung.

[62] Ngày Quý Dậu, ban tiền bạc cho tướng sĩ hành dinh Tây Xuyên, số lượng có chênh lệch.

[63] Ngày Giáp Tuất, phong An Thủ Trung, nguyên là Thứ sử Vĩnh Châu ở Tấn Dương, làm Thứ sử Hán Châu.

Thủ Trung trước đây chỉ huy quân đồn điền ở Hà Âm, khi quân triều đình chiếm được Hưng Nguyên, Vua triệu Thủ Trung đến và nói: “Phong tục xa xôi ở đó hà khắc, Nam Trịnh là nơi tập trung dân cư, khanh hãy vì Trẫm mà vỗ về và hòa hợp họ.” Lập tức sai Thủ Trung quyền lãnh chức Tri Hưng Nguyên. Sau đó, Thủ Trung được điều đến Hán Châu, lúc bấy giờ quân triều đình chưa trở về, chi phí cung ứng tăng gấp bội, kho công không đủ, Thủ Trung bèn lấy tiền riêng giúp thêm. Mỗi khi Vua sai sứ giả đến, đều dặn rằng: “An Thủ Trung ở Thục, biết tự kiềm chế bản thân, ngươi gặp hắn, hãy học theo cách làm người của hắn.”

[64] Ngày Đinh Sửu, Thứ sử Khê châu là Điền Tư Thiên dâng đồng cổ và đặc sản địa phương để tiến cống.

[65] Ngày Mậu Dần, cấm việc đúc tiền tư ở Hoài Nam đạo.

[66] Ngày Canh Thìn, ban chiếu bãi bỏ thuế mễ hôn ở Kiếm Nam đạo.

[67] Hạ lệnh cho dân Hoa châu không phải nộp thuế năm nay vì hạn hán.

[68] Ngày Đinh Hợi, cấp bổng lộc cho các quan châu huyện từ hộ dân.

(Chiếu thư viết theo lệnh năm Càn Hựu thứ hai đời Hán. Xét sử cũ ghi vào tháng 7, nhưng Thông giám không chép.)

[69] Miễn một nửa thuế mùa thu năm nay cho dân các châu Xuyên, Hạp.

[70] Tái lập quân Tĩnh Nhung ở Tử châu.

[71] Lệnh cho các châu xây dựng sảnh Kiểm Nạp tại nha môn để thu thuế dân.

[72] Tháng này, bổ nhiệm Khổng Nghi, cháu đời thứ 44 của Khổng Tử, làm Chủ bạ huyện Khúc Phụ. Nghi thi đỗ Tiến sĩ không đạt, nhân dâng thư kể về gia thế, nên được đặc mệnh.

[73] Tháng 8, ngày Đinh Dậu, ban chiếu xóa bỏ các khoản nợ tư của dân Tây Xuyên từ thời thần liêu nước Thụ ngụy.

[74] Ngày Tân Sửu, triệu tập Tể tướng, Xu mật sứ, Khai Phong doãn, Hàn lâm học sĩ Đậu Nghi, Tri chế cáo Vương Hỗ cùng các quan yến tiệc dưới lầu Tử Vân. Nhân bàn việc dân, Vua nói với Tể tướng Triệu Phổ rằng: “Dân hạ ngu dù không phân biệt được đậu lúa, nhưng nếu phiên hầu không biết nuôi dưỡng, chỉ chuyên hà khắc, Trẫm quyết không dung thứ.” Phổ đáp: “Bệ hạ thương dân như thế, chính là tấm lòng của Nghiêu, Thuấn vậy.”

(Sách ‘Hội yếu’ cho là ngày 9 tháng 8 năm Càn Đức nguyên niên, nay theo ‘Thực lục’. ‘Bản kỷ’ ghi Đậu Nghi đến tháng 11 năm nguyên niên mới làm học sĩ, Vương Hỗ đến tháng 2 năm thứ 3 mới nhận chức tri chế cáo, sao có thể năm nguyên niên tháng 8 đã cùng dự yến? ‘Hội yếu’ nhầm vậy.)

[75] Ngày Nhâm Dần, xuống chiếu rằng: Ngự sử đài trừng trị kẻ gian tà, Lại bộ tuyển chọn quan lại, Hình bộ xét xử ngục tụng, đều được xem là việc khó, đáng được ưu đãi đặc biệt. Các cơ quan Ngự sử đài, Lại bộ thuyên Nam tào, Hình bộ, Đại Lý tự, từ chức Tri tạp Thị ngự sử[5], Lang trung, Thiếu khanh trở xuống, người nào trong bản ty giữ việc đủ ba năm đều được thăng chức. Ngự sử trung thừa, Thượng thư, Thị lang, Đại Lý khanh, sẽ bàn riêng để khen thưởng. Còn các Lệnh sử, Phủ sử được bổ nhiệm về các ty và được lưu lại, đều được giảm một kỳ tuyển chọn.

[76] Trước đó, Vua từng nói với Triệu Phổ: “Xu mật trực học sĩ, Hữu gián nghị đại phu Phùng Toản tài năng và sức lực hiếm có trong đương thời, quả là bậc kỳ tài.” Vua thường muốn trọng dụng ông.

Triệu Phổ trong lòng ghen ghét Toản, nhân lúc Thục vừa bình định, bèn đưa Toản ra làm quan ở Tử Châu, ngầm sai người thân tín làm nô bộc riêng của Toản để dò xét lỗi lầm của ông. Qua một năm, người nô bộc bỏ trốn về, đánh trống Đăng văn, tố cáo Toản cùng Giám quân Lăng cẩm phó sứ Lý Mỹ, Thông phán Điện trung thị ngự sử Lý Liêu mưu việc gian lợi. (Lý Mỹ, Lý Liêu, không rõ lai lịch.) Vua vội triệu Toản và những người liên quan về kinh, trực tiếp chất vấn, giao cho Ngự sử tra xét, nhưng lời khai của người nô bộc phần nhiều vu khống.

Triệu Phổ lại sai người đến Đồng Quan kiểm tra hành lý của Toản, phát hiện dây lưng vàng cùng các vật quý giá khác, đều được đóng dấu để hối lộ Lưu Tiên, lúc đó Tiên đang làm mạc khách dưới quyền Hoàng đệ Khai Phong doãn Quang Nghĩa. (Lưu Tiên, không rõ lai lịch.) Toản và những người liên quan đều nhận tội. Khi vụ án kết thúc, Triệu Phổ tâu lên Vua, nói rằng Toản và những người liên quan đáng tội chết.

Vua muốn tha tội, nhưng Triệu Phổ cương quyết không đồng ý, Vua đành chấp nhận, ngày Canh Tuất, hạ chiếu tước bỏ danh tịch, Toản bị lưu đày đến đảo Sa Môn, Lý Mỹ đến đảo Hải Môn, Lưu Tiên bị cách chức. Lý Liêu trước đây từng cùng Vương Đức Duệ làm mạc khách dưới quyền Vương Nhiêu, (Vương Đức Duệ, không rõ lai lịch.) Vua vì Hiếu Minh Hoàng hậu nên biết ông. Đức Duệ tính cách khinh suất, còn Liêu cẩn thận và trung hậu, Vua coi nhẹ Đức Duệ mà trọng Liêu. Đến lúc này, Liêu được đặc cách miễn tội lưu đày. Không lâu sau, ông được phục chức Ngự sử.

(Lưu Tiên, được nhắc đến trong truyện của Giả Viêm, nói rằng ông từng làm việc dưới quyền Thái Tông khi còn là phiên vương, đến chức Hộ bộ lang trung, năm Thiên Hi cho cháu ông là Tòng Giản làm Tam ban phụng chức. Không rõ lúc đó ông giữ chức gì ở Khai Phong phủ. ‘Chân Tông thực lục’ năm Thiên Hi thứ tư tháng tư chép rằng mẹ của Tiên là Trương dâng biểu nói rằng Tiên từng làm mạc khách dưới quyền Thái Tông, đã mất hơn ba mươi năm, con cháu không được hưởng bổng lộc. Vua thương xót nên cho Tòng Giản làm quan. Nhưng cũng không ghi rõ Tiên giữ chức gì. Ngày Đinh Sửu tháng chín năm Kiến Long thứ ba, Lưu Tiên từ chức Phán quan Khai Phong phủ, Hình bộ viên ngoại lang được thăng làm Công bộ lang trung. Như vậy, Tiên khi ở phiên phủ thực sự giữ chức Phán quan. ‘Tân lục’ lại nói rằng Lưu Tiên và những người liên quan đã bị xử lý theo chiếu chỉ khác, có lẽ dây lưng vàng của Toản không chỉ hối lộ cho Tiên một người. Đại để, ‘Tân lục’ và ‘Cựu lục’ chép việc này dường như có điều gì đó kiêng kỵ, nên không chi tiết, cần xem xét kỹ hơn.)

[77] Ngày Tân Hợi, ngự đến vườn Ngọc Tân tổ chức tiệc bắn tên.

[78] Ngày Nhâm Tý, ở châu Hoành xảy ra vụ cháy lớn, thiêu rụi nha môn, kho tàng và nhà cửa của dân chín trăm khu.

[79] Ngày Giáp Dần, ban chiếu rằng vụ lúa mùa hạ đã thu hoạch, vụ mùa thu cũng trúng mùa, lệnh cho các quan châu huyện khuyên dân chăm lo dự trữ, ngăn ngừa thói chơi bời, để phòng năm mất mùa.

(Vương Xưng ‘Đông Đô Sự Lược’ chép: Chiếu viết: “Ca tụng năm được mùa vang trong thơ ca, lời dạy về dự trữ lưu truyền trong sách vở. Nay ba mùa không có thiên tai, trăm họ được yên ổn, nơi đồng ruộng không còn tiếng than thở, trên luống lúa còn sót những bông mẩy. Các quan châu huyện có trách nhiệm chăn dắt dân chúng, nên khuyên bảo họ nhân năm được mùa, lo tích trữ, để khi gặp năm mất mừa, không đến nỗi thiếu thốn. Xưa kho đụn đầy đủ, lễ nghi mới hưng thịnh, nên cấm dân cờ bạc, không để họ sống nhàn hạ, khuyên họ tiết kiệm, tránh phung phí lúa gạo, nghiêm khắc ban hành điều lệ, cho hợp ý Trẫm.”)

[80] Ngày Ất Mão, Vua ngự đến điện Giảng Vũ, thân hành xét tù, phần lớn được ân xá hoặc giảm tội.

[81] Sông Hoàng Hà vỡ đê ở châu Hoạt, làm hỏng đê lớn Linh Hà, ban chiếu lệnh Điện tiền đô chỉ huy sứ Hàn Trọng Uân, Mã bộ quân đô đầu Vương Đình Nghệ, đốc suất hàng vạn binh lính và dân phu sửa chữa. Ruộng dân bị nước ngập đều được miễn thuế mùa thu. Đến tháng mười, đê xây xong, nước sông trở lại dòng cũ. Đình Nghệ là con của Vương Cảnh.

[82] Tháng Nhuận tháng tám, ngày Giáp Tý, đổi trấn Quán Khẩu thành quân Vĩnh Khang.

[83] Vương Toàn Bân tâu rằng đánh bại tướng giặc Lã Hán, chiếm được châu Nhã. Hán chạy đến châu Lê rồi bị thuộc hạ giết chết, xác ném xuống nước.

(Cả hai bộ ‘Tân Lục’ và ‘Cựu Lục’ đều không chép việc này. ‘Bản Kỉ’ chép sự việc này sau ngày Bính Dần và trước ngày Ất Hợi. Ngày Bính Dần là mồng 5, ngày Ất Hợi là ngày 14. Không rõ sự việc này xảy ra đúng ngày nào. Xem ‘Thực lục’, tháng này ngày Ất Sửu, dùng tửu phường sứ Hỗ Kế Năng quyền coi châu Nhã. Ngày Ất Sửu là mồng 3. Có lẽ triều đình nhờ Vương Toàn Bân tâu chiếm được châu Nhã, mới bổ nhiệm Hỗ Kế Năng, nên dời việc này chép trước ngày Ất Sửu, cần phải xét kỹ thêm.)

[84] Lúc đầu, nước Thục lập quân Tĩnh Nam để án ngữ vùng Cung Lai, Bách Trượng, cha con Tào Quang Thực tiếp tục giữ chức vụ này.

Sau đó, Quang Thực được thăng làm Du dịch sứ bộ đạo Vĩnh Bình. Có người Di là Trương Trung Lạc thường kết bọn cướp bóc, lại căm giận Quang Thực từng giết đồ đảng của mình, nhân lúc nước Thục diệt vong, đêm đó dẫn mấy ngàn người vây kín nơi ở của Quang Thực, hò reo tiến đánh. Quang Thực cõng mẹ, cầm kích phá vòng vây mà ra, bọn giặc sợ hãi không dám tới gần. Quang Thực đem cả nhà hơn 300 người tháo chạy, bọn giặc giết sạch không sót một ai. Chúng còn đào mộ cha ông, phá nát quan tài.

Quang Thực đến gặp Toàn Bân kể rõ sự việc, vẽ lại địa hình trọng yếu của châu Nhã cùng kế hoạch dùng binh đánh chiếm, xin quân triều đình tấn công trước. Toàn Bân cảm phục sự dũng cảm của ông, bèn sai làm hướng đạo cho đại quân, quả nhiên hạ được thành, bắt sống Trung Lạc để trả thù.

Toàn Bân bèn bổ nhiệm Quang Thực làm Đô chỉ huy sứ Nghĩa quân. Quang Thực lại đem quân dẹp sạch bọn giặc còn sót ở châu Lê. Toàn Bân sai Quang Thực quyền tri châu Lê, kiêm chức Đô tuần kiểm sứ hai châu Lê, Nhã. Ông an dân chiêu tập, người Man Di đều cảm phục.

[85] Ngày Ất Sửu, châu Tào báo nước sông dâng ngập huyện Nam Hoa, làm hư hỏng nhà cửa dân chúng.

[86] Ngày Bính Dần, xuống chiếu cho những quan lại và dân chúng bị bắt vào đất Thục hơn 15 năm, ngoài phần mộ ra, ruộng nhà không được đòi lại.

[87] Ngày Kỷ Tỵ, châu Thiền báo nước sông dâng ngập địa giới huyện Vệ Nam, dân chúng phải lên gò cao để tránh lũ.

[88] Ngày Canh Ngọ, truy bắt được hơn mười kẻ vô lại trong quân Điện tiền, lệnh xăm chữ và đày đến giám Nghĩa Phong.

[89] Ngày Quý Dậu, ra lệnh cho các tướng hiệu Điện tiền, Thị vệ duyệt binh lớn trong quân đội.

[90] Từ thời Ngũ đại trở lại đây, thường kiểm tra ruộng đất đã khai khẩn để định thuế hàng năm. Quan lại nhân đó làm bậy, thuế má không đều. Do vậy, dân chúng thất nghiệp, ruộng đất bỏ hoang nhiều, Vua lấy làm xót xa thương xót. Ngày Ất Hợi, hạ chiếu cấm chỉ, cho phép dân khai khẩn đất đai, châu huyện không được kiểm soát, chỉ lấy ruộng đang canh tác làm mức thuế.

(Vương Xưng ‘Đông Đô Sự Lược’ chép: Chiếu rằng: Từ thời Ngũ đại đến nay, binh loạn liên tiếp, quốc dụng không đủ, thuế khóa nặng nề. Trẫm từng trải qua gian nan, hiểu rõ nỗi khổ của dân, tiết kiệm chi tiêu, chưa từng tăng thuế, ưu đãi người gặp thiên tai, thường xuyên miễn giảm thuế. Các quan lại tại chức, hãy rõ ràng truyền đạt, từ nay dân chúng ai có thể trồng dâu, táo, khai khẩn đất hoang, chỉ nộp thuế cũ.)

[91] Ngày Quý Mùi, châu Vận tâu rằng nước sông Hoàng Hà tràn vào địa giới.

[92] Ngày Ất Dậu, Thứ sử Truy châu Lý Xử Vân mất. Vua đặc cách bãi triều một ngày. Truy tặng chức Tuyên đức tiết độ sứ. Sai trung sứ lo việc tang, ban đất chôn cất tại Thiên Kiều, Lạc Dương.

[93] Ngày Kỷ Sửu, Vua đến vườn phía bắc của Khai Phong doãn, rồi bắn cung ở vườn sau.

[94] Lấy Đoàn luyện sứ Lệ châu Hà Kế Quân làm Phòng ngự sứ bản châu.

[95] Đường chủ sai sứ sang cống, giúp tu sửa điện Càn Nguyên.

(Bản kỷ và Tân lục đều không chép việc này, chỉ có Cựu lục chép vào ngày Kỷ Sửu.)

[96] Ra chiếu rằng: Các quân Điện tiền, Thị vệ cùng các sứ thần giám hộ biên phòng, không được chọn người tài giỏi trong Trung quân làm quân riêng.

[97] Thảo dân Lư Nghị (Nghị, chưa rõ lai lịch.) tâu rằng: Các quan Tây Xuyên đã không còn tuân thủ hạn chế trong việc bổ nhiệm, có người nhận lệnh nhưng không đến, nhờ đó chiếm chỗ gần địa phương. Xin xử phạt những người đó. Chiếu cho thêm thời hạn một tháng, nếu vi phạm sẽ bị cách chức. Ban cho Nghị tư cách Đồng học cứu xuất thân.

[98] Tháng này, ra chiếu tìm sách thất lạc. Phàm quan lại và dân chúng ai có sách vở đến dâng, lệnh cho Sử quán xem qua mục lục, nếu trong quán chưa có thì thu nhận. Người hiến sách được đưa đến Học sĩ viện để thi vấn về lý lẽ làm quan, nếu đủ năng lực làm quan, sẽ báo tên lên triều đình. Năm ấy, Tam lễ Thiệp Bật, Tam truyền Bành Cán, Học cứu Chu Tải đều ứng chiếu dâng sách, tổng cộng 1.228 quyển, lệnh phân chia đặt tại thư phủ. Ban cho Bật và những người kia danh hiệu khoa bảng.

(Theo ‘Hội yếu’.)

[99] Vương Toàn Bân cùng những người khác giải Tôn Tiến, Ngô Côi và 27 người đến kinh thành, Vua thân chính tra hỏi tình trạng làm loạn của họ, tất cả đều nhận tội. Ngày mùng một tháng chín, [nhằm ngày] Nhâm Thìn, họ bị xử tử ngoài cổng thành. Tôn Tiến đặc biệt hung ác, nên bị tru di cả họ. Trước đây, trong nhóm giặc có một số lính thú từ Tây Xuyên đào ngũ hoặc mất tích, có người xin xét xử và giết vợ con của họ. Vua hỏi ý Xu mật sứ Lý Sùng Củ, Sùng Củ đáp: “Bọn chúng làm phản trốn tránh, đáng bị tội diệt gia, nhưng tra xét sổ sách thì số người chết có thể lên đến hơn vạn.” Vua nói: “Trẫm lo rằng trong số đó có người bị giặc ép buộc, không phải do bản tâm.” Vì vậy, tha hết và không xử tử.

[100] Ngày Canh Tý, lễ Trùng Dương, Vua mở tiệc tại điện Trường Xuân.

[101] Ngày Giáp Thìn, nước Chiêm Thành sai sứ dâng voi đã thuần hóa.

[102] Ngày Ất Tỵ, Vua đến hồ Giáo Thuyền, rồi đến vườn Ngọc Tân, xem quân sĩ bắn cưỡi ngựa.

[103] Ngày Bính Ngọ, Vua ban chiếu cho Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục phụng dưỡng 5 hộ ở huyện Cối Kê để lo việc thờ tự mộ Vũ và cấm chặt củi tại đó, xuân thu dùng lễ Thái Lao.

[104] Ngày Ất Mão, Vua sai Hình bộ Viên ngoại lang Hòa Hiến đổi xây đàn Nam Giao, cách kinh thành khoảng 9 dặm. Sau đó lại dừng lại.

[105] Ngày Bính Thìn, Tả vệ Đại tướng quân, quyền Điểm kiểm Thị vệ bộ quân ty sự, được tặng chức Thái Bảo, Ninh Quốc Tiết độ sứ, thụy là Cung Hi, Đỗ Thẩm Quỳnh mất.

[106] Ngày Đinh Tỵ, Vua cho Long Tiệp Tả Hữu sương Đô chỉ huy sứ Đảng Tiến người huyện Mã Ấp quyền coi việc Thị vệ bộ quân ty. Trước đây, các tướng cấm quân từ chức Đô Ngu hậu trở lên đều ghi số quân mình quản lý lên cây gậy cầm tay, gọi là “Trượng ký”, giống như “Hốt ký” vậy. Đảng Tiến vốn là người ngoại tộc, không biết chữ, một hôm Vua hỏi ông số quân là bao nhiêu, ông không đáp được, liền giơ gậy lên nói: “Tất cả đều ở đây.” Vua cười, khen ông trung thực, càng thêm trọng đãi. Khi Đảng Tiến mặc giáp trụ, râu ria dựng đứng, ánh mắt như điện, trông giống như thần nhân.

[107] Phủ Phổ Châu báo rằng thỏ ăn hết vụ mùa thu gần hết.

[108] Ngày Canh Thân, Vua ban chiếu rằng: “Triều đình vừa thiết lập chức tân tá, kiêm đặt thêm duyện thuộc, cùng tham gia chính sự quận, cốt giữ đúng chiếu lệnh, há để kẻ tôi tớ phá vỡ kỷ cương, can dự vào công vụ? Trước đây đã từng ban bố ước thúc, ghi rõ trong giáp lệnh. Gần đây, tiết độ sứ Vũ Ninh là Cao Kế Xung, nguyên là tướng quân tòng chinh Cao Tòng Chí, tự tiện làm rối loạn chế độ, vi phạm hiến pháp, cuối cùng vì tham nhũng mà bị bại lộ, khiến phải lưu đày. Các phiên hầu, châu mục hãy cẩn thận tuân theo chiếu trước, đừng tự chuốc lấy hối hận.”

[109] Mùa đông, tháng mười, ngày Tân Dậu mùng một, Vua ban chiếu cho Thái thường tự, từ nay các buổi đại triều hội lại sử dụng hai điệu múa. Trước đây, cuối niên hiệu Thiên Phúc nhà Tấn, trung nguyên nhiều biến cố, lễ nhạc dần bị bỏ phế. Vua bèn sai phán Thái thường tự là Hòa Hiện tìm hiểu và khôi phục, đặc biệt chế tạo 36 bộ cung huyền bày ở sân, hai giá đăng ca đặt ở điện thượng, lại đặt 12 án cổ xúy, cùng các loại cờ, mâu, thược, trạch mà vũ nhân cầm và trang phục của họ, đều theo đúng chế độ cũ.

[110] Ngày Quý Hợi, Vua ban chiếu cho các lăng miếu của đế vương các đời đều được cấp người canh giữ và tế lễ, cấm chặt phá, các châu trưởng lại, huyện lệnh tá phải thường xuyên kiểm tra.

[111] Trước đây, thứ sử Hưng Châu là Vương Tấn Khanh được bổ làm thứ sử Hán Châu. Lúc đó giặc cướp hoành hành, Tấn Khanh nghiêm chỉnh vũ bị, đặt ra phương lược, bắt giết sạch sẽ, không để sót tên nào. Nhờ vậy, bọn giặc lớn không dám xâm phạm địa giới của ông. Tuy nhiên, ông lại nổi tiếng tham nhũng, Vua tiếc tài nên không hỏi tội. Khi mãn nhiệm về kinh, ông xin nghỉ bệnh để nhận chức tản quan, ngày Ất Sửu, được bổ làm Tả giám môn vệ tướng quân, phụng triều thỉnh. Tấn Khanh dâng 10 tấm gấm quý và 10 lạng bạc để tạ ơn. Vua muốn lấy liêm chính để răn dạy, bèn ban chiếu từ chối không nhận. Tấn Khanh là người Hà Sóc.

[112] Ngày Kỷ Tỵ, Vua ban chiếu cho các châu trưởng lại, bảo các lệnh úy ở huyện Thục cấm kỳ trưởng, tiết cấp không được nhân việc thu thuế và tuần tra mà quấy nhiễu dân làng, mưu cầu tài vật; các trấn tướng cũng không được lấy danh nghĩa tuần tra muối rượu mà quấy rối dân chúng.

[113] Ngày Nhâm Thân, cung trai nam giao bị hư hỏng, Vua ra chiếu tước bổng một tháng của quyền phán tam ty Triệu Biền và độ chi phán quan Hầu Trắc, vì tội không kịp thời tu sửa. Các lại thuộc chưởng sự của Thái thường tự đều bị phạt tiền.

(Bản truyện của Biền ghi rằng ông bị tước bổng một quý vì tội làm hư hại lương thực quân đội và không kiểm tra kỹ lưỡng, đó là chuyện năm ngoái. Việc cung trai bị hư hỏng không được ghi trong bản truyện, nay theo “Tân lục”. Việc cho Biền làm tam ty sứ là sai, nay theo bản truyện và “Bách quan biểu”.)

[114] Ngày Bính Tý, đổi tên quân Bảo Ninh ở Lãng Châu thành quân An Đức.

[115] Vua ra chiếu: “Thời Ngụy Thục, các tướng trấn thủ biên quận thường sai nha hiệu mang lễ vật vào Kiềm Nam và các viện[6] cùng các châu Tư, Phí, Bá, Di, Lão, Nam, Thần, Cẩm, thường dùng của riêng mua chuộc để đổi lấy hậu lễ. Nghe nói người dân tộc Di, Lão rất khổ vì việc này. Từ nay, các châu khi cử sứ giả đi, không được nhận cống phẩm của họ.”

[116] Trước đó, Vua cho rằng nhã nhạc có âm thanh quá cao, gần với sầu bi, bèn sai Thái thường tự Hoà Hiện bàn luận về lý lẽ của việc này. Hiện dâng sớ tâu: “Âm thanh của tháng mười hai chứa đựng sự tĩnh lặng, bậc thánh nhân thời xưa đã thiết lập phép tắc để diễn xuất nó. Trước hết lập kích thước làm thành luật lã, ba phần tăng giảm, trên dưới sinh ra nhau, lấy hợp với âm thanh, gọi là hình khí. Chỉ vì kích thước dài ngắn không thể truyền lại qua sách vở, nên phải dùng những hạt thóc đen xếp chồng để tìm chuẩn mực, nhưng đời sau thử nghiệm lại có khi không phù hợp. Thần cho rằng cây đo bóng bằng đồng ở Tây Kinh có thể kiểm nghiệm phép tắc cổ xưa, đó chính là thước đá trên cột đo bóng tại Ty Thiên đài hiện nay. Lấy thước do Vương Phác quy định đem so sánh, ngắn hơn thước đá bốn phân, âm nhạc cao có lẽ là do nguyên nhân này. Cột đo bóng có thể đo được trời đất, thì ống luật quản cũng nên lấy đó làm chuẩn mực.”

Vua bèn ra lệnh theo phép cổ chế tạo thước mới và ống Hoàng chung dài chín tấc, sai thợ kiểm nghiệm âm thanh, quả nhiên thấp hơn ống do Vương Phác quy định một luật. Lại lấy những hạt thóc đen từ núi Dương Đầu, Thượng Đảng đem xếp thành thước để kiểm nghiệm luật quản, cũng rất khớp nhau. Vua lại hạ lệnh cho Thượng thư tỉnh tập hợp bàn bạc, mọi người đều đồng ý. Bèn đúc lại mười hai ống luật quản để lấy âm thanh, từ đó nhã nhạc mới có âm điệu hài hoà.

[117] Tháng mười một, ngày Quý Tỵ, là ngày đông chí. Vua ngự đến điện Càn Nguyên nhận chầu xong, sau đó mặc thường phục ngự tại điện Đại Minh, quần thần dâng lời chúc thọ, lần đầu sử dụng nhã nhạc đăng ca cùng hai điệu múa Văn đức và Vũ công[7], ban rượu năm tuần rồi lui.

[118] Từ khi bình định phương Nam, các châu đều đặt chức Thông phán, vốn không phải là phó nhị, cũng không thuộc hàng thuộc quan, nên thường xung đột với các trưởng lại. Họ thường nói: “Ta là Giám châu, triều đình cử ta đến để giám sát các ngươi.” Mọi hành động của trưởng lại đều bị họ khống chế. Có người cho rằng việc này quá đáng, nên giảm bớt quyền lực của họ.

Ngày Ất Mùi, ban chiếu lệnh các Thông phán ở các đạo, châu không được lạm quyền, tư lợi, phải cùng trưởng lại liên ký thì mới được ban hành văn thư.

(Sách ‘Hội yếu’ chép: Lúc đó, do mới tuyển dụng quan lại từ triều đại trước, lo họ chưa quen việc, nên có mệnh lệnh này. Lời chiếu trong ‘Bản kỷ’ cũng giống với ‘Hội yếu’. Chỉ có ‘Tân lục’ là khác, nay theo ‘Tân lục’, lại thêm thông tin từ ‘Quy điền lục’ của Âu Dương Tu.)

[119] Chương quốc lưu hậu Vương Kế Huân từ khi bị tước binh quyền, thường uất ức, chuyên lấy việc xẻo thịt nô tỳ làm vui, số người bị hại trước sau rất nhiều. Một hôm trời mưa, tường đổ, đám nô tỳ chạy thoát, đến cửa thành kêu oan. Nhà Vua kinh hãi, sai trung sứ đến tra hỏi, thu thập đầy đủ các việc phạm pháp của Kế Huân.

Ngày Đinh Dậu, ban chiếu tước bỏ quan tước của Kế Huân, buộc ông về nhà riêng, đồng thời lệnh cho quân lính canh giữ. Sau đó, ông bị đày đến Đăng châu, nhưng chưa đến nơi thì được đổi làm Phó suất của Hữu Giám môn Vệ.

[120] Ngày Mậu Tuất, [triều đình] ban chiếu rằng các quan làm Trưởng sử ở Kinh Hồ, Tây Thục mới nhận lệnh, chưa thể hiểu rõ mọi việc, cần dựa vào các liêu thuộc để giúp việc trị lý. Dù việc lớn hay nhỏ, đều nên cùng Thông phán, Phán quan hoặc Lục sự bàn bạc quyết định.

[121] Vua từng thấy Hàn lâm học sĩ kiêm Lễ bộ thượng thư Đậu Nghi khi ở Trừ Châu không chấp nhận cho thân lại lụa (việc xảy ra vào tháng 3 năm Hiển Đức thứ 3), nên thường khen ông giữ vững nguyên tắc, nhiều lần nói với các đại thần rằng muốn dùng ông làm tướng. Triệu Phổ vì e ngại Đậu Nghi cương trực, liền dẫn Tiết Cư Chính và Lữ Dư Khánh vào tham gia chính sự. Đào Cốc, Triệu Phùng, Cao Tích[8] lại cùng nhau kết bè kết đảng, cùng sức bài xích Đậu Nghi, khiến ý định của Vua phải gián đoạn.

Ngày Quý Sửu, Đậu Nghi qua đời. Vua thương cảm, nói với tả hữu rằng: “Trẫm phúc mỏng, trời sao đoạt mất Đậu Nghi của Trẫm nhanh vậy?” Ban chiếu ưu đãi, truy tặng ông chức Hữu bộc xạ.

Vua từng nghỉ mát ở vườn sau, triệu Đậu Nghi vào soạn chiếu. Khi Đậu Nghi đến cửa vườn, thấy Vua đang ngồi cởi khăn, đi chân đất, liền dừng lại không chịu vào. Hoàng môn sứ tâu lên, Vua tự nhìn rồi mỉm cười, vội lấy mũ áo mặc chỉnh tề rồi mới triệu vào. Chưa kịp tuyên chiếu, Đậu Nghi đã vội nói: “Bệ hạ sáng nghiệp truyền ngôi, nên lấy lễ mà thị hiện cho thiên hạ. Thần tuy bất tài, không đủ động được thánh ý, chỉ sợ hào kiệt nghe mà tan rã.” Vua liền nghiêm mặt xin lỗi. Từ đó, mỗi khi gặp cận thần, Vua không bao giờ quên mặc áo mũ.

(Có người cho việc này là do Đào Cốc, sai vậy. Cốc chắc không làm được thế. ‘Đinh Vị đàm lục’ cũng ghi chép là Đậu Nghi.)

[122] Ban chiếu sửa đổi lại phép muối và rượu, nới rộng điều lệ: muối nhập lậu tới 100 cân, hay nấu kiềm đến 50 cân; lại viên buôn bán hay nhập lậu 100 cân trở lên mới bị xử tử. Muối dùng cho tằm đưa vào thành thị hay thương nhân nhập lậu từ 300 cân trở lên, xử thêm dịch, lưu, trượng, đồ cũng được giảm nhẹ. Tư tạo rượu rồi đưa vào thành quách từ 50 cân, hay vào thôn xóm từ 100 cân trở lên; rượu tư đưa vào cấm địa từ 2 thạch đến 3 thạch, hay đến nơi có quan thự từ 4 thạch đến 5 thạch trở lên mới bị xử tử. Phép ngày càng nhẹ, nên người phạm cũng ít đi.

[123] Tháng mười hai, ngày Canh Thìn, chém đầu tên yêu nhân Trương Long Nhi và hai mươi ba người khác. Long Nhi có tài ảo thuật, cùng với vệ sĩ Dương Mật, Lý Bỉ, Nhiếp Uân, Lưu Huy, Mã Thao, thừa chỉ Tái Chương, và dân thường Vương Dụ đã cùng mưu đồ việc bất chính, việc bị phát giác, đều bị xử tử. Long Nhi cùng Dương Mật, Lý Bỉ, Nhiếp Uân đều bị tru di tộc.

[124] Vua đích thân ra vườn sau xem xét ba trăm người không trúng tuyển trong kỳ thi võ nghệ ở điện tiền, tất cả đều được bổ nhiệm làm chức vụ bên ngoài.

(Theo sách ‘Hội yếu’.)

[125] Năm đó, Vua nước Vu Điền là Lý Thánh Thiên sai con trai là Đức Tòng đến cống nạp sản vật địa phương.

[126] Châu Bồng xin dùng tơ thuê phân phối cho dân dệt lụa lăng, trả công cho họ, nhưng chiếu chỉ không cho phép.

(Theo sách ‘Bản chí’.)

[127] Đinh Đức Dụ cùng Tây Xuyên binh mã đô giám Trương Diên Thông người Lộ Thành dẫn quân bắt giặc đô thống Khang Tộ, xé xác ở chợ. Khang Diên Trạch vừa xây thành Phổ Châu, Vương Khả Liêu lại tập hợp quân các châu đến đánh, Diên Trạch đánh đuổi họ, truy kích đến Hợp Châu. Toàn Sư Hùng chết bệnh ở Kim Đường, đồng đảng của hắn suy tôn Tạ Hành Bản làm chủ, La Thất Quân làm Tá Quốc Lệnh Công. La Thất Quân cùng Tống Uy Hoài, Đường Đào Kiên chiếm nơi hiểm yếu ở Đồng Sơn lập trại. Diên Trạch phá tan Tạ Hành Bản, chiếm Đồng Sơn, bắt La Thất Quân. Đức Dụ cùng Vương Toàn Bân chia quân chiêu phủ, bọn giặc đều dẹp yên.

(Những việc này, phần chính sử cùng các sách tân, cựu lục đều không ghi rõ, không biết đích xác thời gian nào, nay tạm ghi vào cuối năm. Chinh phạt Nhã Châu vào tháng Nhuận tháng tám, truyện Vương Toàn Bân chép Toàn Sư Hùng chết, đều xảy ra sau khi chiếm Nhã Châu, thời điểm đó có thể suy đoán được. Riêng việc Khang Tộ bị bắt, Lưu Trạch, Vương Khả Liêu thua chạy, căn cứ theo truyện Đinh Đức Dụ và Khang Diên Trạch, đều không thấy ghi chép thời gian cụ thể. Truyện Diên Trạch lại nói Vương Toàn Bân đã giết hàng binh Thành Đô, Diên Trạch liền xuất binh đánh bại Lưu Trạch, Vương Khả Liêu, đây là sai lầm. Sư Hùng vừa đóng giữ Quán Khẩu, Lưu Trạch mới hợp lực với Lã Hán, đuổi Thứ sử Phổ Châu Lưu Sở Tín, còn Diên Trạch truy đuổi Vương Khả Liêu đến Hợp Châu. Điều này chắc chắn xảy ra sau khi Diên Trạch nhậm chức Thứ sử Phổ Châu, chứ không phải trước khi làm Tây Xuyên binh mã đô giám. Nếu không, Diên Trạch vừa rời Thành Đô, sao có thể nhanh chóng qua Phổ, Hợp được?)

[128] Bắc Hán chủ sai Thị vệ đô ngu hậu Lưu Kế Khâm đi chiếm lại Liêu Châu.

(Việc này căn cứ theo ‘Cửu Quốc Chí’ và ‘Thập Quốc Kỷ Niên’, các sách khác đều không có. Tháng giêng năm Càn Đức thứ hai chiếm Liêu Châu, nhưng không thấy ghi người nhậm chức đô thủ mới, hoặc quả thật lại để mất. Ngày Ất Mùi tháng ba năm Càn Đức thứ sáu, mới ghi Lý Thủ Tiết làm Đoàn luyện sứ Tề Châu nhận chức Tri Liêu Châu.)

[129] Nam Hán Tây bắc diện chiêu thảo sứ Ngô Hoài Ân bị thuộc hạ sát hại. Trước đó, Nam Hán chủ sai Hoài Ân đóng chiến thuyền ở Quế Châu. Hoài Ân giám sát việc thi công nghiêm ngặt, phàm thấy vật liệu có tốt xấu không đồng hay quy cách sơ sài, liền đánh đập ngay, nên những người làm việc đều oán hận. Đến khi thuyền rồng đóng xong, Hoài Ân tự mình đến kiểm tra, lấy vải quấn tay, sờ khắp các móc và lan can. Lúc đó, thợ Khu Ngạn Hi đang ở bên cạnh, liền vung rìu chém đầu Hoài Ân rơi xuống thuyền, tả hữu đều kinh hãi bỏ chạy. Mấy ngày sau, bắt được Ngạn Hi, chém ở chợ.

Hoài Ân làm tướng lập nhiều công lao, khi bị hại, người trong nước càng thêm lo sợ. Nam Hán chủ lệnh Phan Sùng Triệt thay chức vụ của ông.

(Hoài Ân, xuất hiện lần đầu năm Thiên Phúc thứ 8. Sùng Triệt, xuất hiện năm Quảng Thuận thứ 2, đều là hoạn quan. Sách ‘Cửu Quốc Chí’ phần ‘Thế gia’ chép rằng Hoài Ân bị sát hại vào năm Đại Bảo thứ 3. Năm Đại Bảo thứ 3 tức năm Hiển Đức thứ 6 sử xưa. Theo truyện về Hoài Ân, sau khi quân Vương lấy được Sâm và Liên, Hoài Ân mới chết. Lại theo truyện Phan Sùng Triệt, Sùng Triệt thay Hoài Ân hơn một năm thì bị bãi chức, mà phần ‘Thế gia’ chép việc Sùng Triệt bị bãi vào mùa xuân năm Đại Bảo thứ 12, vậy việc Hoài Ân bị sát hại nên chép vào cuối năm này. Sau khi quân Vương lấy Sâm Châu 6 năm mới lấy Liên Châu, nay gộp nói Sâm và Liên có lẽ là sai. Không rõ Phan Sùng Triệt thay Hoài Ân bằng chức gì, cần tra cứu thêm. Tư Mã Quang trong ‘Sóc Ký’ viết việc này vào tháng 4 năm Kiến Long nguyên niên, và nói rằng Hoài Ân bị hại vào ngày Canh Thìn tháng đó, là ngày thuyền rồng hoàn thành. Có lẽ dựa theo ‘Thập Quốc Kỷ Niên’, nay không theo cách chép đó.)


  1. 'Sự' do vị quyết, nguyên văn là 'Báo', theo các bản sửa lại.
  2. Cùng với phán sứ ký tên, nguyên văn là 'Trí', theo các bản sửa lại.
  3. Lương của các quan Tây Xuyên và châu huyện, nguyên văn là 'Khoa tiền'. Theo chế độ nhà Tống, trong bổng lộc của trăm quan có 'liệu tiền', nay căn cứ vào bản các và 'Tống hội yếu' chương Chức quan 57, phần 18 mà sửa.
  4. 「truyền về kinh đô」, chữ 'về' nguyên bản là 'đến', theo bản trong các kho lưu trữ sửa lại.
  5. Chữ 'Thị' trong 'Tri tạp Thị ngự sử' vốn bị thiếu, dựa theo Tống bản, Tống toát yếu bản và Tống hội yếu chức quan 59 phần 2, Tống đại chiếu lệnh tập quyển 160 mà bổ sung.
  6. 'Các viện' - các bản khắc ghi là 'tỉnh viện'.
  7. 'Lần đầu sử dụng nhã nhạc đăng ca cùng hai điệu múa Văn đức và Vũ công'. 'Văn đức' nguyên bản viết là 'Văn minh', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và sách Ngọc Hải quyển 105, Tống sử quyển 126, chí Nhạc mà sửa lại.
  8. Gốc viết là 'Cao Tứ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản cùng biên niên cương mục quyển 1, Tống sử quyển 269 truyện Đào Cốc sửa đổi.

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.