III. TỐNG CHÂN TÔNG
QUYỂN 70: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ NHẤT (MẬU THÂN, 1008)
Từ tháng 9 năm Đại Trung Tường Phù thứ nhất đời Chân Tông đến hết tháng 12 cùng năm.
[1] Tháng 9, ngày Kỷ Mùi, ban chiếu cáo với Thái miếu rằng: Cỏ linh chi, lúa tốt, cây điềm lành được bày trước xe thiên thư và đặt ở sáu gian thờ, đồng thời ghi rõ nơi dâng lên.
[2] Ngày Canh Thân, lệnh cho Binh bộ Thị lang Hướng Mẫn Trung tạm quyền giữ chức Lưu thủ Đông Kinh, lập tức vào cung chầu. Vua cho rằng Mẫn Trung có đức độ lâu năm, được lòng dân, nên triệu từ Tây Kinh về để dùng.
[3] Ban chiếu cho ty Quân đầu dẫn tội nhân ra trình diện, phải trình bày đầy đủ nguyên nhân phạm tội tâu lên, rồi giao cho Khai Phong phủ xét xử, từ ngày trở về sau khi đi phong thiện ở phía đông thì làm như cũ.
[4] Ban chiếu miễn thuế nước cho dân dọc theo các kênh quan ở kinh thành từ nay về sau.
[5] Hoàng thành sứ Lưu Thừa Khuê đến điện Sùng Chính dâng lên pháp vật mới chế tạo là sách trời, có mười bốn con hạc bay đến. Đinh Vị, sứ phụ trách hộ tống Thiên thư, tâu rằng có hai con hạc bay qua xe chở Thiên thư, bay lượn rất lâu.
Hôm sau, Vua nhìn Đinh Vị nói: “Hôm qua Trẫm thấy hạc chỉ bay qua xe, nếu nói là bay lượn rất lâu, nghe thì hay nhưng e không đúng sự thật, khanh nên sửa lại bản tấu này.” Đinh Vị lạy tạ và nói: “Bệ hạ lấy lòng thành kính phụng sự trời, lấy sự chân thật đối đãi muôn vật, mấy chữ này rất quan trọng, đức lớn của hoàng đế không gì hơn thế, xin giao cho Trung thư ghi vào sách thời chính.” Vua gật đầu đồng ý.
(Theo thực lục: Lưu Thừa Khuê dâng pháp vật, có mười bốn con hạc bay lượn trong sân. Bản chí chép: có mười bốn con hạc bay đến điện, lượn quanh, đối diện ngai vàng. Sách Phong thiền cũng chép như vậy. Theo lời tấu của Đinh Vị, chỉ có hai con hạc, lẽ nào đến điện có mười bốn con mà bay qua xe chỉ có hai con? Bản kỷ không chép việc Lưu Thừa Khuê dâng pháp vật, chỉ chép ngày cáo miếu có mười bốn con hạc bay đến. Thực lục chỉ chép: “Cáo miếu, có hạc bay theo xe đến điện Vạn Tuế”, không nói rõ số lượng. Bản chí chép: “Khi về đến cửa Càn Nguyên, có tám con hạc bay lượn trên không.” Lại chép: “Bốn con hạc bay theo xe, khi sách trời mới ra và khi về, đều có hai con hạc bay quanh xe.” Có lẽ bản kỷ chép là tổng số này. Như vậy, khi dâng pháp vật và cáo miếu đều có mười bốn con hạc bay đến. Nay ghi chép cả hai, ghi rõ lời Vua để đời sau có thể tra cứu.)
[6] Thái Sơn Ngọc Nữ Trì nằm trên đỉnh Thái Bình, nguồn nước vốn bị tắc nghẽn và đục. Ban đầu, khi đặt doanh trại dưới chân núi, suối Lễ Tuyền phun lên, nước trong hồ cũng dâng cao. Khi công việc xây dựng tiến lên núi, dòng chảy tự nhiên rộng ra, trong vắt có thể soi gương, vị rất ngọt ngào, mọi người đều nhờ đó mà được cứu giúp. Vương Khâm Nhược xin nạo vét và sửa chữa hồ. Bên cạnh hồ có tượng đá, bị hư hỏng nhiều, Vua xuống chiếu cho Lưu Thừa Khuê thay bằng tượng ngọc. Sau khi hoàn thành, Vua cùng các quan đại thần đến xem. Ngày Tân Dậu, sai sứ giả mài đá làm hốc, đặt vào chỗ cũ, lệnh cho Vương Khâm Nhược làm lễ tế.
[7] Ngày Nhâm Tuất, miễn thuế đất cơ bản ở châu Quỳ.
[8] Lễ nghi sứ tâu: “Theo điển lễ, hoàng đế uống rượu phúc bằng chén thượng tôn, từ Thái úy trở xuống dùng chén lôi. Nay xem xét lại, trong ngày cáo tế ở miếu và ngày phong thiền, rượu phúc mà hoàng đế uống là do thần linh ban phúc, để giao hòa với thần minh. Xin cho một viên Thượng thực phụng ngự rót rượu từ chén thượng tôn để dâng lên, để hợp với lễ văn.” Vua đồng ý.
[9] Ngày Quý Hợi, lấy quyền Tam ty sứ sự Đinh Vị làm Hành tại Tam ty sứ, Diêm thiết phó sứ Lâm Đặc làm phó.
[10] Hôm đó, đem thiên thư đặt ở điện Triều Nguyên, Vua trai giới ở hậu các của điện. Ban đầu, các quan soạn nghi lễ, chỉ trai giới một ngày, nhưng Vua đặc chiếu cho tán trai thêm một ngày.
[11] Ngày Giáp Tý, Phù thị sứ cùng các quan đem thiên thư lên xe ngọc, đến ác điện trong cửa nam của Thái miếu. Một lát sau, xa giá đến, vào ác điện làm lễ dâng rượu xong, tế cáo ở sáu gian thờ, đến gian thờ Thái Tổ và Thái Tông, báo ý nghiêm phối, Vua khóc lóc, tả hữu chấp sự đều cảm động. Trong lúc hành lễ, có mây trắng như rồng phượng và tiên nhân xuất hiện trên mái miếu, cùng mười bốn con hạc bay đến.
[12] Ngự sử trung thừa Vương Tự Tông đứng hàng lễ sai nghi thức, tự nhận tội. Vua nói: “Quan hiến đáng giữ lễ pháp.” Nhưng vì tính ông vốn thô lỗ, nên Vua không trách cứ gì.
[13] Ngày Ất Sửu, Phán Thái thường lễ viện Đỗ Hạo và các quan khác vì cung cấp nhầm ngọc tế cho thần vị Cửu cung, bị phạt một tháng lương.
[14] Ngày Đinh Mão, lấy Hoàng thành sứ, Chiêu châu đoàn luyện sứ Lưu Thừa Khuê làm Cung bị khố sứ, Nội thị phó đô tri Đậu Thần Bảo quản câu đại nội công sự.
[15] Ngày Kỷ Tỵ, sai Điện đầu cao phẩm Chu Văn Chất làm Đề cử Thiểm Tây tặc đạo sự. Vua dụ rằng: “Lễ phong thiện sắp đến, dân vùng Quan Hữu có nhiều kẻ lười biếng, lo chúng nhân cơ hội nổi loạn, quấy nhiễu dân làng. Ngươi đi, nên tùy nghi kiểm soát, ngoài binh lính thuộc quyền, nếu có việc khẩn cấp, lập tức triệu binh Phu, Diên, Phượng Tường đến ứng cứu.”
[16] Trước đó, binh lính biên thùy phía tây phản loạn chạy sang các bộ tộc phiên, cho phép bộ tộc đó bắt nộp sẽ được ban thưởng hậu hĩnh. Cũng có kẻ bắt oan binh lính đồn trú để đòi thưởng, quan phủ không xét kỹ, khiến họ bị xử oan. Vua nghe thấy, thương xót. Bèn hạ chiếu cho quan lại biên giới xem xét lại.
[17] Các quan tâu: “Theo chế độ cũ, khi xa giá tuần du, hoàng đế ngự triều buổi chiều, ngày quốc kỵ và ngày nghỉ không ngừng việc. Nay xin buổi chiều xem việc, quần thần không phải vào chầu.” Vua nghe theo.
[18] Ngày Canh Ngọ, Quyền phán Thượng thư Hình bộ Thận Tòng Cát tâu rằng cùng các quan trong tỉnh, tự xét lại việc thi cử của Thượng thư Hình bộ Ôn Trọng Thư để bổ nhiệm chức Thẩm hình tường nghị quan Bành Dũ, thấy nhiều chỗ sai sót trong việc xét án. Vua hạ chiếu hỏi Trọng Thư, Trọng Thư dẫn việc trước đây Thị lang Lễ bộ Ngụy Tường thi cử chức Tường đoạn quan Đại Lý tự của Bùi Thường, Thận Hài làm ví dụ[1]. Vua hạ chiếu cho Thượng thư tỉnh tập hợp các quan bàn định. Thượng thư Lại bộ Trương Tề Hiền tâu rằng bài thi của Thường, Hài cũng không đạt. Trước đó, Hài từng làm Tiết độ suy quan Vũ Xương, được thụ chức Trứ tác tá lang, sung chức Tường đoạn quan, đến nay xét lại, bị cách chức. Bành Dũ cũng bị bãi chức Viên ngoại lang Binh bộ. Trực sử quán Trương Phục lúc đó đang giữ chức Lễ bộ, tránh việc không soạn tờ tâu, Điện trung thừa Khâu Ung liền thay làm, Vua hạ chiếu phạt Phục tiền.
Hài là con của Tòng Cát.
(Bành Dũ, Bùi Thường, Khâu Ung, không rõ lai lịch.)
[19] Ngày Tân Mùi, đến viện Khải Thánh triều bái thần vị của Thái Tông, cáo từ để đi.
[20] Chiếu rằng: Rượu lễ dùng trong việc tế tự, lệnh cho các cơ quan chọn riêng đồ dùng, chế biến tinh tế, đến lúc tiến vào trong cung, Trẫm sẽ tự tay kiểm tra, rồi giao cho các cơ quan.
[21] Khảo công viên ngoại lang, Tri Tấn châu Tề Hóa Cơ bị tước bỏ tịch, xăm mặt đày ra Nhai châu, dù gặp ân xá cũng không được tha về. Con trai ông là Tư lý tham quân Tư châu Tề Bác, người đỗ học cứu Tề Độc đều bị tước tịch, cùng với con út Tề Địch và cháu Tề Hoán bị phân phối đến An, Đặng, Nhữ, Thái châu. Hóa Cơ đi đến đâu cũng nổi tiếng tham bạo, tính tình hung dữ, mọi người đều tránh xa, ở Tấn châu càng tàn bạo, các con nhận hối lộ hơn năm trăm tấm lụa, lại cất giữ đồ đồng, mặc áo quần thêu vàng. Việc bại lộ, sai quan đi tra xét, Hóa Cơ gian xảo sợ tội, khai không thật, ba lần thay người điều tra, lại lệnh cho Ngự sử Ngải Trọng Nhụ tra hỏi, mới nhận tội. Triều đình bàn bạc trừng trị tội ác tích tụ, nên lệnh đày cả họ, lại ban chiếu dụ Tấn châu, quan lại dân chúng không ai không vui mừng. Nguyên suy quan, Giám sát ngự sử Âu Dương Tải cùng ba người đều bị cách chức.
(Âu Dương Tải là chú của Âu Dương Tu, trong tập có bài văn bia mộ, nói rằng Tải được làm Ngự sử nhờ dựa vào Phùng Khiết Kỷ. Sách 《Ngự sử đài ký》 đã biện bạch rằng không phải như vậy, nay không theo.)
[22] Vua man Cung Bộ Xuyên là A Tù sai tướng quân Triệu Vật Bà đến triều cống. Vật Bà xin đi Thái Sơn hầu lễ, được chấp thuận.
[23] Ngày Quý Dậu, chiếu rằng: Văn võ quan phụng mệnh đến Duyện châu chuẩn bị lên núi đều mặc triều phục, lệnh cho Vương Khâm Nhược kiểm tra.
[24] Bộ quân đô ngu hậu Trịnh Thành dẫn quân tiên phong đến Thái Sơn.
[25] Ngày Giáp Tuất, lệnh cho một viên phó sứ các cơ quan kiểm tra sinh lễ và đồ tế tự dưới núi, ai không cung kính làm việc, dù gặp ân xá cũng không tha.
[26] Chiếu rằng: “Những người phụng sự tế tự lên núi, quan cấp y phục, lệnh ngày tế phải tắm rửa mặc vào. Tùy tùng, vệ sĩ đến Vận châu thì cấm ăn thịt. Dê lợn công tư không được đưa đến dưới núi.”
[27] Ngày Mậu Dần, dân Tây Kinh và các châu vì xa giá đi tuần phía đông đến cửa khuyết dâng cống, triệu vào đối đáp ban thưởng.
[28] Ngày Kỷ Mão, lấy Thiêm thư Xu mật viện sự Mã Tri Tiết làm Hành cung đô bộ thự.
[29] Chiếu cho Cấp sự trung Trương Bỉnh, Tả chính ngôn Tri chế cáo Vương Tăng quản lý các châu huyện đi qua, những bậc phụ lão đến nơi hành tại, đưa đến Cáp môn dẫn vào đối đáp, ban cho rượu thịt; các châu huyện hiện đang giam giữ tù nhân, trình bày tội trạng để tâu lên.
[30] Ngày Canh Thìn, Triệu An Nhân đến triều, dâng lên năm loại kim ngọc đan và 8.711 cây tử chi.
[31] Long Đồ các đãi chế Trần Bành Niên tâu rằng: “Thần thấy Phán Thái thường lễ viện Tôn Thích tâu nghị về việc phong tế, chỉ dùng bạch mao làm đệm. Thần xét trong 《Chu Dịch》 có câu ‘dùng bạch mao làm đệm’, 《Xuân Thu Tả Truyện》 có câu ‘bao mao không dâng lên, Vua không cúng tế, không có gì để lọc rượu’. Trịnh Huyền chú giải 《Chu Lễ》 rằng ‘mao dùng để làm rau cúng tế, cũng dùng để lọc rượu’. Như vậy, việc dùng mao có hai nghĩa là làm đệm và lọc rượu. Trịnh Hưng chú giải 《Chu Lễ》 rằng ‘bó mao dựng lên, trước khi tế rót rượu lên trên, rượu thấm xuống dưới, như thần uống, nên gọi là lọc’. Đỗ Dự chú giải 《Tả Truyện》 rằng ‘bó mao rồi rót rượu lên, dùng rượu để lọc’. Trịnh Huyền chú giải 《Chu Lễ》 rằng ‘lọc rượu là lọc rượu’, lại chú giải 《Lễ Ký》 rằng ‘lọc bằng mao, bỏ cặn đi’. Như vậy lại có hai nghĩa là rót rượu và lọc rượu. Nay khi định ra nghi thức, Tôn Thích cũng nói về nghĩa này, nhưng vì trong kinh điển có những cách hiểu khác nhau, việc này còn nghi vấn, khó lòng đoán định, nên trong nghi thức vẫn giữ cả hai thuyết làm đệm và lọc rượu. Nay Tôn Thích cho rằng trong tế lễ tông miếu có nghi thức rót rượu uất sưởng, nên có thể bó mao rót rượu, nhưng học giả không hiểu ý này, lại dùng tục lệ rót rượu thông thường, cho rằng các buổi tế lễ đều phải bó mao lọc rượu, điều này rất sai lầm.
Thần xét trong 《Luận Ngữ Sớ》 có câu: ‘Trong tế lễ tông miếu, trước khi giết sinh vật, rót rượu uất sưởng xuống đất để cầu thần’. Đây chỉ nói rót rượu uất sưởng xuống đất, không nói dùng mao. Nếu theo lời Trịnh Huyền, thì mao dùng để lọc rượu[2]; nếu theo lời Trịnh Hưng và Đỗ Dự, thì cả trời đất và tông miếu đều rót rượu. Lại nữa, 《Chu Lễ》 chép dùng tiêu mao để tế thần trời, 《Tả Truyện》 lại nói ‘bao mao không dâng lên, Vua không cúng tế’, xét về tế lễ, thì việc này thông dụng cho cả trời đất và tông miếu là rõ ràng. Huống chi Trịnh Hưng, Đỗ Dự đã có lời nói về việc bó mao rót rượu, Hứa Thận trong 《Thuyết Văn》 cũng nói ‘lỗi là tế rượu’. Như vậy, nghĩa của việc rót rượu đã được Trịnh Hưng, Đỗ Dự, Hứa Thận nói đến từ thời Hán, Tấn, sao có thể gọi là tục lệ thông thường được?
Tuy nhiên, lễ phong thiền trong sử sách trước không ghi chép đầy đủ, chế độ thời Khai Nguyên là chi tiết nhất. Xét trong 《Huyền Tông Thực Lục》 và 《Đường Hội Yếu》 đều chép rằng ‘lúc ấy ở Phủ Châu có ba ngọn cỏ mao mọc, người dâng thư nói rằng Tề Hoàn Công muốn làm lễ phong thiền, Quản Di Ngô nói ở vùng Giang, Hoài có ba ngọn cỏ mao dùng để lọc rượu, mới có thể làm lễ phong thiền. Các quan tể tướng tâu rằng: ‘Thần đã hỏi khắp nơi về cỏ mao cống, thấy cỏ ở Nguyên Giang là tốt nhất[3], đã gửi thư đến Nhạc Châu để lấy. Nay nghe nói Phủ Châu có cỏ mao, xin cho tiến sáu bó, dùng chung với cỏ ở Nguyên Giang’. Lúc ấy, các quan tể tướng là Trương Thuyết, Nguyên Can Diệu, các quan biên soạn là Trương Thuyết, Từ Kiên, Vi Thao, Khang Tử Nguyên, Hầu Hành Quả, đều là những người am hiểu cổ điển, được gọi là bậc đại nho. Nếu lễ phong thiền không có nghĩa lọc rượu, lúc ấy sao không có ai bác bỏ? Đã cho lấy cỏ mao để dùng, đủ chứng tỏ lễ nghi rõ ràng.
Thần nghĩ rằng việc rót rượu lên mao đã được ghi trong kinh điển; tục lệ rót rượu cũng đã được triều đình thực hiện từ lâu. Nếu cho rằng chỉ khi dâng chén rượu mới thành lễ, e rằng lòng thành kính chưa thấu đến hoàng thượng, mà lời chê bai việc thay đổi sẽ càng lan rộng trong dân chúng. Vì vậy, xin bác bỏ lời tâu của Tôn Thích.” Vua nghe theo.
[32] Ngày Tân Tỵ, ban chiếu cho quân sĩ các châu ngoài đến kinh thành làm việc, khi trở về được cấp áo gấm để tiễn đi.
[33] Ngày Nhâm Ngọ, bắt đầu cấp giày đinh cho các quan hành sự và vệ sĩ lên núi, vì đường núi nguy hiểm và trơn trượt.
[34] Trước đây, Đinh Vị xin lập Ty Tiền Đầu Tử theo hầu xa giá[4], mỗi khi ban tiền giày cho các quân, chỉ cấp đầu bài, chỉ định nơi nhận tiền, quân sĩ nhờ người nhà đến lĩnh. Sau đó ban chiếu cho Điện tiền đô chỉ huy sứ Tào Xán hỏi ý các quân, quân sĩ đều nói: “Theo hầu xa giá mà được tiền, khó mang theo. Người thân ở doanh trại được tiền để chi dùng, ơn Vua thật sâu nặng.” Vì vậy lập Ty Tiền Đầu Tử, khi xa giá đi về ban thưởng, không có sai sót.
(Việc Đinh Vị và tiền thưởng xem thêm ở phần phụ lục.)
[35] Ngày Quý Mùi, Tả chánh ngôn, Trực sử quán, quyền quản câu Kinh Đông chuyển vận ty sự Trương Tri Bạch tâu: “Năm Hàm Bình, thiên hạ dâng nhiều điềm lành, lúc ấy vùng Hà, Hoàng chưa bình định, thần từng tâu xin bãi bỏ hết. Nay thiên hạ vô sự, điềm lành cùng đến, xin lấy các điềm lành ở Thái Sơn, theo từng loại mà vẽ lại, làm thành hai bản chính phụ, một bản cất ở Bí các, một bản nộp vào Trung vi, đợi khi cung Chiêu Ứng hoàn thành, dùng để trang trí các bức vẽ, lưu truyền mãi mãi.” Vua đồng ý.
(Xem thêm ngày Bính Tuất tháng 2 năm thứ 2.)
[36] Ngày Giáp Thân, lấy Ngự sử Mã Lượng làm Chánh đán sứ sang nước Khiết Đan chúc mừng mẹ Vua, Tây Kinh tác phường sứ Ngụy Chiêu Dịch làm phó; Đô quan viên ngoại lang Tôn Thích làm Chánh đán sứ sang nước Khiết Đan chúc mừng Vua, Thị cấm, Cáp môn chi hậu Tiết Di Khuếch làm phó.
(Chiêu Dịch là con của Hàm Tín. Di Khuếch, không rõ lai lịch.)
[37] Ngày Ất Dậu, Vua thân hành tập lễ phong thiền ở điện Sùng Chính. Ban đầu, quan Lễ đã tập dượt hai lần, và nói rằng việc này thuộc về các quan, không có văn bản nào quy định việc đế vương phải thân hành tập luyện. Vua nói: “Trẫm muốn thể hiện lòng thành kính, há ngại khó nhọc sao?” Sau khi tập xong, Vua nói với các quan phụ tá: “Vừa rồi thấy nghi lễ có nhiều chỗ chưa hợp lý. Ví như khi thiên thư chưa xuống đàn viên, Trẫm đã xuống trước; lại nữa, kim quỹ xuống đàn trước thiên thư, sau khi tống thần xong mới đặt ngọc quỹ vào hòm[5], quan Lễ nghi sứ tấu rằng lễ xong trước khi đốt lửa, có vẻ chưa hợp lý; đặt quỹ vào hòm, Tướng tác giám lập tức dẫn người đến niêm phong, sợ gây ồn ào, nên bàn lại với quan Lễ rồi tâu lên.”
Các quan tâu: “Theo 《Khai Bảo thông lễ》, thì đốt lửa xong mới niêm phong sách; theo lệ cũ thời Khai Nguyên, thì niêm phong hòm xong mới đốt lửa. Nay nếu không niêm phong sách trước thần linh, thì không thể hiện được lòng thành kính, hoặc niêm phong hòm xong rồi mới tống thần, thì cũng là xúc phạm. Mong đợi khi lễ hiến tế cuối cùng xong, hoàng đế lên đàn, niêm phong ngọc quỹ, đặt vào hòm, đóng dấu xong[6], tiếp đó uống rượu phúc, tống thần, nhạc ngừng, đốt lửa. Thiên thư xuống, tiếp đó kim quỹ xuống. Quan Lễ nghi sứ tấu rằng lễ xong, hoàng đế trở về chỗ nghỉ, đợi niêm phong hòm xong, lại lạy đàn xem xét. Vì lễ tế đã xong, không cần cử nhạc nữa.” Vua nghe theo.
Lại hỏi quan Lễ về việc á hiến và chung hiến đều không cử nhạc, quan Lễ tâu rõ: “Theo 《Khai Bảo thông lễ》, khi Vua thân hành tế giao, trên đàn đặt đăng ca, khi Vua lên xuống, dâng lễ, uống rượu phúc thì cử nhạc; dưới đàn đặt cung huyền, khi hạ thần, đón lễ[7], rút văn vũ, dẫn vũ vũ, đón tiễn Vua thì cử nhạc. Á hiến và chung hiến, lên xuống, ở giữa lúc rút văn vũ và dẫn vũ vũ. Khi các quan đảm nhiệm việc tế, không đặt cung huyền và hai điệu múa, nên ba lần hiến, lên xuống đều dùng đăng ca. Nay trên núi đặt đăng ca, dưới núi đặt cung huyền và hai điệu múa, trên đàn viên đài á hiến và chung hiến theo lệ thân tế, không có văn bản nào quy định việc cử nhạc.” Vua cho rằng khi đối diện với trời đất, nghiêm cẩn phối hợp với tổ tông, không muốn phân biệt đẳng cấp, đặc biệt ra lệnh cho á hiến và chung hiến đều cử nhạc như đăng ca.
[38] Tháng 9, người Man ở châu Cao, châu Thuận đến dâng cống và từ biệt. Vua dụ rằng: “Hãy yên ổn trong bộ tộc, đừng xâm phạm lẫn nhau.” Có người tự trình bày rằng thân thuộc bị người động lân cận giết, xin được đi báo thù. Vua nói: “Việc đã qua rồi, đừng bàn nữa.” Tất cả đều lạy rồi lui ra.
(Việc này theo《Hội yếu》, là sự việc tháng 9.)
[39] Tháng này, các lộ Kinh Đông, Kinh Tây, Hà Bắc, Hà Đông, Giang, Hoài, Lưỡng Chiết, Kinh Hồ, Phúc Kiến, Quảng Nam đều được mùa lớn, giá gạo mỗi đấu là 7, 8 đồng[8].
[40] Mùa đông, tháng 10, ngày Mậu Tý (mùng một), Vua nói với Vương Đán rằng: “Trẫm cho rằng lễ phong thiền không phải là tế lễ thường, từ hôm nay sẽ ăn chay.” Vương Đán tâu: “Bệ hạ sắp phải chịu rét[9], đi đường xa, bảo vệ thánh thể, e rằng không tiện. Huống chi lễ Nam Giao cũng là tế trời đất, chưa từng nghe nói cấm ăn thịt trước. Mong rằng sau khi trai giới, hoặc sau khi tán trai, sẽ bàn việc dùng đồ chay.” Rồi ba lần dâng biểu khẩn khoản, nhưng Vua không cho.
[41] Xuống chiếu rằng các nội thần truyền tuyên, lấy đồ vật đều phải mang theo văn tự có ấn ngự bảo làm hiệu, lại phải ban xuống mẫu trước, giao cho cơ quan có trách nhiệm để phân biệt thật giả.
[42] Tri châu Quỳ là Hầu Diên Thưởng tâu rằng các bộ Man ở động Khê Tây Nam trước nay chưa từng dâng cống, nay mang phương vật đến chúc mừng, xin được đến Thái Sơn, Vua đồng ý.
[43] Ngày Canh Dần, Vua xuống chiếu lấy Ngự sử trung thừa Vương Tự Tông làm quyền Ngự sử đại phu, giữ chức Khảo chế độ sứ, Hữu chánh ngôn, Tri chế cáo Chu Khởi làm quyền Trung thừa, giữ chức Phó sứ. Khi đi qua các châu huyện, phải thăm hỏi những việc bất tiện trong dân gian và giá cả hàng hóa, những xe cộ, y phục, cân đo không đúng phép[10], thì nêu rõ quy chế mà cấm chỉ; những người có tài năng xuất chúng, hành vi khác thường mà ẩn dật không ra làm quan, thì cùng với quan lại địa phương bàn bạc tiến cử; những người góa bụa, cô đơn không thể tự nuôi sống được, thì tùy nghi cứu tế; những quan lại có chính tích đặc biệt, dân chúng được hưởng ơn huệ, hoặc những kẻ không giữ được liêm sỉ, mờ mịt về chính sự, những người con hiếu, cháu thuận, chồng nghĩa, vợ tiết được làng xóm khen ngợi, đều phải ghi chép tường tận tâu lên; những quan lại biết rõ lợi hại trong dân gian, cũng phải ghi chép tâu lên.
[44] Ty Thiên tâu rằng năm ngôi sao đi thuận, cùng một màu.
[45] Ngày Tân Mão, các quan lo việc đặt sẵn vị trí nghi trượng Thiên thư ở cửa Càn Nguyên. Trước khi đồng hồ nước chỉ giờ thứ ba, từ trong cung rước Thiên thư ra cửa Càn Nguyên, đặt lên xe ngọc, nghi trượng hoàng huy, cổ xúy tiền hậu bộ, uy nghi đạo môn, các quan hộ tống theo hầu, các quan theo hầu vái lạy dưới điện. Một lát sau, Vua đội mũ Thông Thiên, mặc áo tía, ngồi xe lớn rời kinh sư, đến hành cung Hàm Phương Viên.
[46] Vua xuống chiếu rằng các quan lo việc tế tự và người giữ chức vụ phải hết lòng cung kính phụng sự, nếu có ai lơ là, thì Hiến đài và Giám tế sứ phải xét tâu, gặp ân xá cũng không được tha.
[47] Ngày Nhâm Thìn, đến trạm Trần Kiều, sai Cung uyển sứ Triệu Thừa Hú đi kiểm tra các bàn tế và đồ cúng trên núi và dưới núi.
[48] Chiếu rằng: Tất cả những người phạm tội ở hành tại đều phải đến trình với Đô bộ thự Mã Tri Tiết tại hành cung, các quân thì giao cho Điện tiền phó đô chỉ huy sứ Lưu Khiêm xét tội và xử lý; những trường hợp nặng thì xử theo quân pháp, không cần tâu lên. Những người phạm tội ở các châu huyện thì giao cho Quân đầu ty, chưa được dẫn đến yết kiến, lệnh cho Xu mật viện xem xét và chỉ đạo. Nhà Vua chú tâm vào việc tế lễ, không muốn xử phạt, lại lo dân chúng khinh nhờn pháp luật, nên ban chiếu này để cảnh cáo trước. Từ khi ban chiếu đến khi xong việc, chưa từng giết một người nào, chỉ có hai người bị tội lưu đày.
[49] Ngày Quý Tỵ, dừng ở huyện Trường Viên.
[50] Ngày Giáp Ngọ, dừng ở huyện Vi Thành. Vương Khâm Nhược tâu rằng: Ở núi Thái Sơn, cỏ linh chi mọc lại rất nhiều; năm nay thượng nguồn sông Hoàng Hà mưa nhiều, tuy có lúc tràn bờ nhưng vẫn chảy giữa dòng, không gần hai bên bờ, nên việc đắp đê so với năm thường tiết kiệm được hàng trăm vạn công sức.
[51] Ty An phủ vùng biên giới Hà Bắc tâu rằng: Quân mã phòng thủ biên giới của Khiết Đan sau khi nhận được mệnh lệnh đã rút hết, dân chúng yên ổn, thương nhân qua lại không dứt.
[52] Ngày Ất Mùi, dừng ở huyện Vệ Nam.
[53] Ngày Bính Thân, dừng ở châu Thiền. Sai Điện tiền phó đô chỉ huy sứ Lưu Khiêm và Tây Kinh Tả tàng khố phó sứ Triệu Thủ Luân kiểm tra những người lên núi ở cửa sơn môn, ghi tên vào sổ rồi mới cho lên.
[54] Ngày Đinh Dậu, dừng ở dịch trạm Vĩnh Định. Chiếu rằng: Nếu nghi trượng của xa giá không thể qua cổng thành thì đi vòng bên ngoài thành. Khi đó, xe lớn đến châu Thiền, quan chức cho rằng cổng thành thấp, định phá bỏ, nhưng nhà Vua không cho, nên ban chiếu này.
[55] Ngày Mậu Tuất, dừng ở châu Bộc. Chiếu rằng: Các quan lớn ở các châu Vận, Tề, Đơn, Truy phải đến núi Thái Sơn để hầu lễ. Quân sĩ hộ đê sông Hoàng Hà trên đường xa giá đi qua đều được ban thưởng đặc biệt.
[56] Ngày Kỷ Hợi, dừng ở huyện Phạm.
[57] Ngày Canh Tý, dừng ở huyện Thọ Trương.
[58] Ngày Tân Sửu, dừng ở châu Vận.
[59] Ngày Nhâm Dần, Vua dừng chân. Tri chế cáo Chu Tốn tâu rằng đã đem ngọc điệp, ngọc sách đến dịch trạm Tường Loan[11], có ánh sáng thần hiện lên từ ngọc sách của Hạo Thiên, Vua liền sai Hàn lâm học sĩ Lý Tông Ngạc chạy đến tạ ơn.
[60] Vua ban chiếu rằng các châu mỗi tuần phải thiết đãi các tướng sĩ cấm quân đóng trú, nhưng các quan viên bản quân lại không được dự, từ nay nên cho họ cùng tham dự.
[61] Ngày Quý Mão, Vua sai Nhập nội cao ban Đặng Thủ Ân đi kiểm tra lại các lễ vật tế đàn[12].
[62] Ngày Giáp Thìn, Vua ban chiếu rằng những nơi dừng chân của đoàn tùy tùng không được phá hoại nhà cửa, đồ đạc, cây cối của dân, kẻ nào vi phạm sẽ bị trị tội nặng.
[63] Vua ban chiếu rằng các trạm dịch dọc đường chỉ dùng để chuyển văn thư, nhưng nghe nói có sứ thần bắt phu phen chở nặng chạy ngựa, khiến họ không chịu nổi, từ nay nếu không có chỉ dụ thì không được tùy tiện sai khiến.
[64] Ngày Ất Tỵ, đoàn xuất phát từ Vận Châu, tối đến dịch trạm Nghênh Loan.
[65] Ngày Bính Ngọ, đoàn dừng chân ở dịch trạm Tường Loan. Vua sai Hành cung đô bộ thự Mã Tri Tiết đóng quân ở cửa núi, Đô đại quản câu sơn hạ công sự Điện tiền phó đô chỉ huy sứ Lưu Khiêm, Đô đại đề cử sơn hạ quân mã Mã quân đô ngu hậu Trương Mân[13], Bộ quân đô ngu hậu Trịnh Thành tùy tùng lên núi, phụ trách việc canh gác.
[66] Tam ty sứ tại hành tại Đinh Vị tâu: “Từ kinh thành đến Thái Sơn, vàng bạc, lương thảo đều có dư. Dân chúng cũng không bị quan phủ bắt đóng góp, giá cỏ mỗi bó không quá ba đến năm đồng, giá lúa mạch mỗi đấu không quá mười đồng.”
[67] Ngày Đinh Mùi, đoàn xa giá vào cung Phụng Cao ở huyện Can Phong, Vua đến trước ngọc sách Hạo Thiên dâng hương lễ bái hai lần để tạ ơn ánh sáng thần.
[68] Chiêm Thành, Đại Thực và các nước phiên thuộc đem sản vật địa phương đến dâng hiến bên đường. Khách phiên thuộc Đại Thực là Lý Ma Vật dâng ngọc khuê dài một thước hai tấc, tự nói rằng ngũ đại tổ của mình được từ tay người Tây Thiên là Khuất Trưởng Giả, truyền lại rằng: “Hãy cẩn thận giữ gìn vật này, đợi khi thánh quân Trung Quốc hành lễ phong thiền thì lập tức đem dâng.”
[69] Ngày Mậu Thân, Vua trai giới tại điện Mục Thanh. Vương Khâm Nhược và các quan dâng lên 38.250 cây cỏ lạ từ núi Thái Sơn.
[70] Ngày Kỷ Dậu, mây ngũ sắc xuất hiện trên đỉnh núi, Vua cùng các cận thần lên đình phía sau để ngắm nhìn, đặt tên đình là Thụy Vân. Tri chế cáo Chu Tốn phụng mệnh mang ngọc sách, điệp cùng các quan hành sự ở đàn viên đài lên núi trước. Vua thấy đường từ núi Hồi Mã Lĩnh đến cửa Thiên Môn hiểm trở, bèn cấp cho mỗi người hai tấm ván ngang, hai đầu buộc lụa màu, chọn quân thân tòng đẩy kéo lên.
[71] Xuống chiếu cho các quan chuyển vận sứ Hà Bắc, Kinh Đông và các quan triều đình về kinh chưa được yết kiến, cho phép vào cửa để bồi vị.
[72] Ngày Canh Tuất, trước khi đồng hồ nước chảy được năm khắc, Vua đội mũ Thông Thiên, mặc áo lụa đỏ, ngồi xe kim lộ, đầy đủ nghi trượng, đến cửa núi thì đổi sang mặc áo ngoa, đi kiệu bộ để lên núi. Nghi trượng, quân hộ vệ đứng dàn dưới chân núi. Quân hộ vệ cầm cờ vàng, quân thân tòng từ chân núi dọc theo đường núi đến đỉnh Thái Bình, cứ hai bước lại có một người, xen kẽ cờ lụa màu. Ngựa cung phụng dừng ở trại ngự giữa đường. Á hiến là Ninh Vương Nguyên Ốc, chung hiến là Thư Vương Nguyên Xưng, lỗ bạ sứ Trần Nghiêu Tẩu theo hầu lên núi. Có đám mây vàng che phủ kiệu, Vua đi qua chỗ hiểm trở thì xuống kiệu đi bộ. Các quan bàn tăng thêm quân hộ vệ, nhưng Vua đều từ chối. Người theo hầu có kẻ mệt mỏi, nhưng Vua vẫn khí thế hăng hái. Đến trại ngự, Vua triệu các cận thần đến xem suối Ngọc Nữ và hai tấm bia của Đường Cao Tông và Đường Minh Hoàng. Đêm hôm trước, trên núi có gió lớn, xé rách màn trướng, đến sáng vẫn chưa dứt. Khi Vua đến, thời tiết trở nên ôn hòa, gió lặng, các quan phụng tự, điểm soạn tập nghi ở đàn viên đài, ánh sáng lành và mây lành cùng chiếu sáng lẫn nhau. Đêm đó, dưới núi bãi bỏ cảnh giới.
[73] Ngày Tân Hợi, tế lễ Trời Đất tại đàn Viên Đài, lấy Thái Tổ và Thái Tông làm phối hưởng. Sai các quan tế lễ Ngũ Phương Đế và các thần tại đàn Phong Tự, Nghi vệ sứ dâng thiên thư bên trái Thượng đế. Vua mặc áo cổn, đội mũ miện dâng lễ, tùy tùng và hộ vệ đều giảm bớt nghi trượng, chỉ dừng ở cửa đàn, đèn lồng dẫn đường cũng bỏ đi. Nhiếp Trung thư thị lang Chu Khởi đọc văn ngọc sách và ngọc điệp. Vua uống rượu phúc, Nhiếp Trung thư lệnh Vương Đán quỳ tâu rằng: “Trời ban cho hoàng đế Thái Nhất thần sách, tuần hoàn không ngừng, mãi mãi bảo vệ muôn dân.” Sau ba lần dâng lễ, đóng hòm vàng và hòm ngọc. Vương Đán dâng hòm ngọc đặt vào hòm đá, Nhiếp Thái úy Phùng Chửng dâng hòm vàng xuống[14], Tướng tác giám chỉ huy người phụ trách đóng hòm đá. Vua lại lên đài xem xét xong, trở về lều ngự. Ty thiên giám tấu rằng mây lành bao quanh đàn, trăng có ánh sáng vàng. Các tể thần dẫn các quan chúc mừng, trên núi và dưới núi truyền hô vạn tuế, tiếng vang động núi non. Hôm đó, Vua trở về cung Phụng Cao, các quan đón rước tại cửa núi, mặt trời có quầng sáng, khí vàng dày đặc.
[74] Ngày Nhâm Tý, làm lễ thiền tế Hoàng Địa Chi ở núi Xã Thủ, theo nghi thức phong tế. Vua đến chân núi, mặc áo bào, đi bộ ra khỏi nơi nghỉ. Các quan hầu cận nói đường núi dốc trơn, xin Vua ngồi kiệu. Vua nói: “Đón thần gần kề, há dám không đi bộ!” Năm vị sứ giả lại khẩn khoản xin, nhưng Vua vẫn không đồng ý. Đêm trước trời âm u, gió mạnh, không thể thắp nến. Đến khi hành lễ, gió lặng hẳn, bầu trời quang đãng, ngọn nến cháy đều. Lễ phong tế xong, khí tím bao phủ đàn tế, ánh sáng vàng như dải lụa quấn quanh hộp đựng thiên thư[15]. Thả hết các loài chim quý, thú lạ do bốn phương dâng lên ở chân núi. Xa giá trở về cung Phụng Cao, mặt trời có quầng, mây năm sắc xuất hiện. Tiếng nhạc vang lên, người xem chật đường, tiếng reo hò động trời đất. Vua xuống chiếu đổi cung Phụng Cao thành cung Hội Chân, tu sửa thêm điện các, cốt sao cho nghiêm trang sạch sẽ. Thượng khanh Cửu Thiên Ty Mệnh được gia hiệu là Bảo Sinh Thiên Tôn, Thanh Đế được gia hiệu là Quảng Sinh Đế Quân, Thiên Tề Vương được gia hiệu là Nhân Thánh, đều sai sứ đi báo cáo.
(Việc gia hiệu cho Ty Mệnh là do lời tâu của Vương Trung Chính, xem sự việc ngày Tân Mão tháng 2 năm thứ 2).
[75] Ngày Quý Sửu, các quan thiết lập nghi trượng, cung huyền dưới đàn triều cận, đàn nằm ở phía nam cung Phụng Cao[16], vuông chín trượng sáu thước, cao chín thước[17], có bốn lối lên, phía nam có hai lối. Vua mặc áo cổn, đội mũ miện, ngự tại điện Thọ Xương trên đàn để nhận lễ chúc mừng[18]. Các quan văn võ của Trung thư môn hạ, hoàng thân, tướng sĩ các quân, sứ giả các nơi đến chúc mừng, người thi cử, khách nước ngoài, bô lão, tăng đạo đều đứng hàng. Đại xá thiên hạ, những tội thường xá không tha cũng đều được tha. Tướng sĩ các quân trong ngoài, theo lệ Nam Giao, đặc biệt được cấp thêm. Các quan văn võ đều được thăng cấp, ban cho quan đã về hưu một quý lương theo phẩm hàm, quan Kinh triều mặc áo đỏ, xanh đủ 15 năm thì được đổi màu áo. Châu Duyễn, châu Vận được miễn thuế hạ thu và thuế nhà năm sau, đồng thời miễn thuế phú, công dịch hai năm. Các châu huyện mà xa giá đi qua được miễn thuế nhà năm sau một nửa, các quân châu Hà Bắc, Kinh Đông cung ứng việc Đông Phong được miễn bốn phần mười, hai kinh và Hà Bắc được miễn ba phần mười, các lộ khác được miễn hai phần mười, thuế nhà vĩnh viễn không phải đóng bằng hiện vật. Quân Đức Thanh, Thông Lợi được miễn thuế thêm một năm.
Lệnh cho phủ Khai Phong và các châu quân mà xa giá đi qua khảo xét và tiến cử những người chăm chỉ học từ chương, thông hiểu kinh điển, tu dưỡng đạo đức, những người tài năng bị chìm đắm ở chức vụ thấp hoặc người cao tuổi không làm quan nhưng có đức hạnh đáng khen, nơi nào có thì báo lên. Sứ thần Tam ban đủ năm năm thì được khảo khóa. Con cháu họ Tiền ở Lưỡng Chiết, họ Trần ở Tuyền Châu, họ Mạnh nước Thục, họ Lý ở Giang Nam, họ Mã ở Hồ Nam, họ Cao ở Kinh Nam, họ Lưu ở Quảng Nam, Hà Đông chưa được hưởng bổng lộc thì cho phép sử dụng. Ban cho thiên hạ được uống rượu ba ngày. Đổi huyện Can Phong thành huyện Phụng Phù. Cấm chặt củi trong vòng bảy dặm dưới chân núi Thái Sơn. Mở tiệc lớn ở điện Mục Thanh, lại mở tiệc chiêu đãi các quan cận thần và bô lão Thái Sơn ở cửa điện, ban cho bô lão quần áo, trà và lụa.
[76] Bắt đầu bàn việc đại xá, Vua nói với tể tướng rằng: “Lần xá này khác với lệ thường[19], chỉ những điều mà lệ xá thường không thể thi hành được, các khanh hãy ghi chép lại các điều khoản để cùng bàn bạc, cốt sao cho ân huệ thực sự đến được với dân.” Vua ăn chay tại hành cung, Triều Huýnh dâng sớ xá tội đã soạn. Theo lệ cũ, khi triệu học sĩ vào đối đáp, thiên tử đội mũ, còn học sĩ chỉ đi giày. Huýnh cho rằng đang tiến hành đại lễ, bèn cầm hốt xin vào đối, Vua vào, thay y phục tiếp kiến.
[77] Ngày Giáp Dần, xa giá rời huyện Phụng Phù, dừng lại ở dịch trạm Thái Bình. Hôm đó, bắt đầu dùng lại bữa ăn thường ngày. Ban cho các quan theo hầu viên thuốc trừ lạnh và áo bông hoa tím. Vua thương cảm Vương Đán và các quan vì đã lâu chỉ ăn rau, Đán và mọi người đều lạy tạ, riêng Thiêm thự Xu mật viện sự Mã Tri Tiết nói: “Chỉ có một mình bệ hạ là ăn rau, bọn thần trên đường đi, chưa từng không ăn thịt riêng.” Vua nhìn Đán và mọi người hỏi: “Lời Tri Tiết nói có đúng không?” Mọi người lại lạy tạ nói: “Quả thật như lời Tri Tiết nói.” Tri Tiết tính tình chất phác thẳng thắn như vậy.
(Điều này căn cứ theo 《Tư Mã Quang ký văn》.)
[78] Chiếu rằng ngày mùng một tháng mười một sẽ đến huyện Khúc Phụ bái yết Văn Tuyên Vương.
[79] Ngày Ất Mão, dừng lại ở dịch trạm Hồi Loan. Các ty chuyển vận Kinh Đông Tây, Hà Bắc, Thiểm Tây, Hoài Nam, Giang Nam đều tâu rằng, từ khi có chiếu phong thiện đến nay, các châu cử sứ tiến cống, man di vào cống và việc qua lại công tư, ngày đêm nối tiếp nhau, làng xóm yên tĩnh, giá cả rất rẻ, lúc này từ kinh sư đến Thái Sơn đường sá đông đúc, tuyệt không có trộm cướp.
[80] Ngày Bính Thìn, dừng lại ở châu Duyễn, đặt châu làm Đại đô đốc phủ, đặc biệt cho uống rượu ba ngày.
[81] Chiếu rằng những người được tuyển chọn cấp giấy thiêm phù và phá của công để viết trao cho, theo lệ cũ phải nộp tiền quan, nay đặc biệt miễn.
(Việc tháng mười trong 《Hội yếu》, việc thiêm phù cần tra cứu thêm.)
[82] Tháng 11, ngày Mậu Ngọ (mùng một), Vua mặc áo cổn đến miếu Văn Tuyên Vương dâng rượu tế. Trong và ngoài miếu bày nghi trượng cờ vàng, gia thuộc họ Khổng đứng hầu. Các quan định nghi lễ chỉ vái chào, nhưng Vua đặc biệt lạy hai lần. Lại đến nhà Thúc Lương Hột. Sai Hình bộ thượng thư Ôn Trọng Thư cùng các quan chia nhau tế 72 vị tiên hiền[20], các tiên nho cùng Thúc Lương Hột và họ Nhan. Vua làm bài tán khắc vào bia đá trong miếu. Lại đến Khổng Lâm, vì cây cối um tùm chắn đường, Vua xuống kiệu cưỡi ngựa, đến mộ Văn Tuyên Vương dâng lễ bái tế. Xuống chiếu gia tôn thụy hiệu là Huyền Thánh Văn Tuyên Vương, bài chúc văn được khắc vào bia, đồng thời tu sửa miếu đền, cấp 10 hộ dân gần đó để trông coi phần mộ và miếu thờ[21]. Lại xuống chiếu để lại các đồ tế khí do chính tay Vua dâng.
Hôm sau, lại sai Lại bộ thượng thư Trương Tề Hiền cùng các quan dùng lễ Thái lao tế, ban cho nhà họ Khổng 30 vạn tiền, 300 tấm lụa. Phong cho Khổng Thánh Hữu, cháu đời thứ 46, người đỗ đồng học cứu, làm Phụng lễ lang, cùng 6 người thân thuộc gần được ban chức tước hoặc tứ xuất thân. Lại truy phong Thúc Lương Hột làm Lỗ quốc công, họ Nhan làm Lỗ quốc thái phu nhân, mẹ của Bá Ngư là Tịnh Quan thị[22] làm Vận quốc thái phu nhân.
Trước đó, triều đình ra chiếu cho các cơ quan hữu trách tra cứu các điển lệ tôn vinh Khổng Tử thời Hán, Đường. Ban đầu định truy tôn hiệu đế, nhưng có người cho rằng Khổng Tử là bề tôi của nhà Chu, mà nhà Chu chỉ xưng vương, nên không nên gia phong hiệu đế, do đó chỉ tăng thêm mỹ hiệu. Sách 《Xuân Thu Diễn Khổng Đồ》 viết: “Mẹ Khổng Tử nằm mộng cảm ứng với Hắc Đế mà sinh ra ông, nên gọi là Huyền Thánh.” 《Trang Tử》 viết: “Điềm đạm Huyền Thánh, là đạo của bậc Vương không ngôi.” Vì thế lấy đó làm tôn hiệu.
Lại truy tôn Tề Thái Công là Chiêu Liệt Vũ Thành Vương, lệnh cho Thanh Châu lập miếu thờ; Chu Văn Công là Văn Hiến Vương, lệnh cho huyện Khúc Phụ lập miếu thờ.
[83] Lấy Hữu Chánh ngôn, Tri chế cáo Chu Tốn quyền giữ chức Tri Duyện Châu.
(Sách 《Giang Hưu Phục Tạp Chí》 chép: Chu Tốn soạn chiếu, viết rằng “mỗ quan vốn có tài làm quan, Chân Tông lệnh ra trấn nhậm”. Cần tra cứu thêm.)
[84] Vương Khâm Nhược và các quan tâu rằng dân huyện Khúc Phụ là Đông Dã Nghi bảy đời cùng ở chung một nhà, dân huyện Can Phong là Đậu Ích sáu đời cùng ở chung một nhà. Triều đình ra chiếu khen ngợi và cho treo biển ở cổng nhà, lại ban tặng lụa.
[85] Ngày Kỷ Mùi, Vua ngự ở lầu Đàm Khánh, dịch quán Hồi Loan, xem diễn tuồng, kéo dài ba ngày.
[86] Ngày Canh Thân, ban yến cho các quan phụ tá, thân vương và bách quan ở chùa Diên Thọ, kéo dài hai ngày. Có con rùa vàng nhỏ như hạt du bay đậu vào tay áo trẻ chăn trâu, Đinh Vị bắt được dâng lên, Vua liền sai trung sứ đem cho quần thần xem.
[87] Nội thị Sử Sùng Quý tâu rằng theo chiếu chỉ, các sứ giả phiên quốc đến dự lễ đều được dự vào hàng ngũ, xin ban áo tía, hốt ngà để về nước làm vẻ vang, Vua đồng ý.
[88] Ngày Nhâm Tuất, rời Duyện Châu, dừng chân ở huyện Trung Đô. Vương Khâm Nhược và Triệu An Nhân trở về huyện Phụng Phù, Vua ra chiếu lệnh ăn chay khi lên núi Thái Sơn, xem xét việc phong thiền.
[89] Ngày Quý Hợi, dừng chân ở Vận Châu. Vua thấy đường phố trong thành chật hẹp, hỏi ra mới biết rằng: “Lúc đầu dời thành, đường phố rộng rãi. Sau đó quan lại địa phương xây thêm nhà chợ để thu thuế.” Vua liền ra chiếu phá bỏ.
[90] Ngày Giáp Tý, ban yến cho bách quan ở hành cung.
[91] Ngày Ất Sửu, Vua ngự ở lầu Thăng Trung Diên Phúc ban yến cho các quan theo hầu, ban yến cho các bậc phụ lão ở dưới lầu.
[92] Chiếu cho các Tiết độ sứ, Quan sát sứ, Phòng ngự sứ, Đoàn luyện sứ, Thứ sử nhân việc đông phong làm các châu Trú bạc bộ thự, Kiềm hạt, đều được ban áo mặc, đai vàng, khí tệ. Theo chế độ cũ, phiên hầu ở ngoài[23], gặp đại lễ không có lệ ban thưởng, nay đặc cách ban cho.
[93] Ngày Bính Dần, đến huyện Thọ Trương.
[94] Ngày Đinh Mão, đến huyện Phạm. Ban cho miếu Huyền Thánh Văn Tuyên Vương ở huyện Khúc Phụ bộ 《Cửu Kinh》, 《Tam Sử》, lệnh cho châu Duyễn chọn Nho sinh đến giảng giải. Lại ban cho sách ngự chế, ngự thư của Thái Tông, cùng kinh sử cho châu Duyễn.
[95] Ban cho các tri châu Duyễn, Vận dê, rượu, tiền, lệnh mở tiệc chiêu đãi các quan thuộc.
[96] Hành cung ty tâu: “Có lính Phụng Nhật hộ giá là Bành Phan, ở trước miếu Xã Thủ gặp một ông già, y phục chỉnh tề, nói: ‘Đường lên núi khác với trước đây, mọi việc đều cảm ứng, đều là do đức lớn của thánh nhân. Các quan theo hầu đều là người từng tham gia tế lễ ở núi nhạc cùng Đường đế, chỉ có tám người không phải, nhưng bốn người còn sống và bốn người đã mất.’ Nói xong liền đi về hướng tây nam, không biết đi đâu.”
[97] Ngày Mậu Thìn, đến châu Bộc.
[98] Ngày Kỷ Tỵ, mở tiệc chiêu đãi các quan theo hầu ở lầu Cáo Thành Quân Khánh, còn các bậc phụ lão thì ở dưới lầu.
[99] Chiếu rằng các vật dụng của quan tế lễ cần vận chuyển về, đợi đến mùa xuân năm sau sẽ vận chuyển bằng đường thủy từ sông Thanh Hà, Quảng Tế về kinh sư; các lính phu dịch đều được cho về doanh, lại được ban thưởng.
[100] Khả hãn Dạ Lạc Hột của Hồi Cốt Cam Châu, Bảo Vật Công chúa và Tể tướng của họ, đều cử sứ giả đến cống, chúc mừng việc đông phong.
[101] Ngày Canh Ngọ, đến dịch trạm Vĩnh Định. Sai Hàn lâm học sĩ Lý Tông Ngạc đến tế ở miếu Hà Độc châu Thiền.
[102] Ngày Tân Mùi, đến châu Thiền. Đến miếu Hà Độc làm lễ tế, lấy huyện lệnh Đốn Khâu kiêm chức Miếu lệnh. Lấy phụ lão Lã Lương ở châu Duyễn làm Trợ giáo bản châu, vì Lương là người đầu tiên xin đông phong.
[103] Ngày Nhâm Thân, mở tiệc chiêu đãi các quan theo hầu và các bậc phụ lão ở điện Diên Hi nơi trú chân, hành cung ở phía nam sông, đất đai chật hẹp, nên ở phía nam cung dựng một điện bằng vải che, nhân đó ban tên là Diên Hi.
[104] Vương Khâm Nhược, Triệu An Nhân từ châu Duyễn đến yết kiến.
[105] Tộc Tông Ca, đại thủ lĩnh Ôn Bô sai sứ giả đến triều cống.
[106] Ngày Quý Dậu, từ Thiền Châu xuất phát, dừng chân ở huyện Vi Thành. Mở tiệc chiêu đãi các quan theo hầu và bô lão tại hành cung.
[107] Ngày Giáp Tuất, dừng chân ở huyện Trường Viên. Mở tiệc chiêu đãi các quan theo hầu và bô lão tại hành cung.
[108] Ngày Bính Tý, từ dịch trạm Trần Kiều xuất phát, dừng chân ở vườn Hàm Phương. Lúc này, dân chúng từ các vùng lân cận, Hoài Điện, Kinh Đông, Hà Sóc từ núi Thái Sơn đón xa giá, chạy theo để được nhìn thấy long nhan, người đông nghẹt trên đường.
[109] Ban chiếu tăng thêm 600 người trong đội nghi trượng Thiên Thư, sau đó lấy 1.600 người làm định chế.
[110] Gia phong hiệu cho Hà Độc là Hiển Thánh Linh Nguyên Công, sai Hữu Gián nghị đại phu Tiết Ánh đến phủ Hà Trung, Tỷ bộ viên ngoại lang Đinh Cố Ngôn đến Thiền Châu làm lễ tế cáo. Lại sai Tiết Ánh làm lễ tạ ở Hậu Thổ Phần Âm.
[111] Ban chiếu rằng từ nay, các chức Thiên Thư nghi vệ sứ phó, Phù thị sứ, Đô giám, Giáp thị, mỗi khi gặp đại lễ thì cùng với Ngũ sứ được bổ nhiệm, theo lời thỉnh cầu của Đinh Vị.
[112] Ngày Đinh Sửu, xa giá từ núi Thái Sơn trở về. Phù thị sứ Đinh Vị phụng rước Thiên Thư về đại nội. Vua ngự ở lầu Càn Nguyên, triệu các quan cận thần xem quân sĩ mặc giáp cưỡi ngựa trở về doanh trại. Ban cho bá quan nghỉ ba ngày, Trung thư, Xu mật viện nghỉ một ngày. Vua đi tuần thú tế lễ, đi về tổng cộng 47 ngày, chưa từng gặp mưa tuyết, tiết trời đông giá lạnh nhưng khí trời ôn hòa, điềm lành xuất hiện nhiều, mọi người đều cho rằng đó là do lòng thành cảm thông, ý trời giúp thuận vậy.
[113] Ngày Nhâm Ngọ, sứ giả nước Khiết Đan là Tả Vũ vệ thượng tướng quân Tiêu Vĩnh, Khải Thánh tiết độ sứ Gia Luật Lưu Ninh, Phó sứ Tả Kiêu vệ đại tướng quân Đổng Kế Trừng, Vệ úy thiếu khanh Dương Hựu Nguyên đến chúc mừng lễ Thừa Thiên.
[114] Chiếu lấy ngày mồng 3 tháng giêng là ngày Thiên thư giáng xuống, đặt làm tiết Thiên Khánh, cho nghỉ 5 ngày. Ở kinh sư, tại Thượng Thanh cung lập đạo trường 7 ngày, các tể tướng thay nhau túc trực. Đến ngày bãi đạo trường, các quan văn võ và chức nội đều tập trung, được ban yến tại Tích Khánh viện. Tối hôm đó, kinh sư treo đèn. Trong 5 ngày không được dùng hình phạt, cấm giết mổ. Các châu lập đạo trường 3 ngày, các quan cũng được ban yến. Đinh Vị xin biên soạn và viết lời tán về các điềm lành sau khi Thiên thư giáng xuống, vẽ tranh tại Chiêu Ứng cung. Chiếu cho Đinh Vị cùng Long Đồ các đãi chế Thích Luân, Trần Bành Niên cùng biên soạn, lời tán giao cho các quan Trung thư, Môn hạ, Xu mật, Lưỡng chế, Thượng thư, Thừa lang, Cấp gián, Đãi chế, Quán các chia nhau viết.
[115] Ngày Quý Mùi, Vua nói với Vương Đán rằng: “Gần đây xem các tấu chương từ biên giới, đều nói năm nay vật giá rất rẻ, cỏ khô 3 đồng đổi được 2 bó, lúa mạch và thóc mỗi hộc hơn 100 đồng, đây là lúc dân chúng tích trữ. Năm được mùa hay mất mùa vốn là lẽ thường, nhưng theo lời dạy của người xưa, không gì bằng chuẩn bị trước. Huống chi phương Bắc muốn giữ quan hệ hòa hảo, tỏ rõ tình ý, chỉ cần giữ vững biên cương là đủ để yên ổn dân chúng. Có người nói giặc nhiều mưu mẹo, sắp cướp phá, đó không phải là nhìn xa trông rộng.” Vương Đán nói: “Từ khi nước ta kết hòa hảo với Khiết Đan, dân chúng Hà Sóc mới được yên ổn, tuy mỗi năm phải cống nạp, nhưng so với chi phí dùng binh, không đến một phần trăm. Trước đây bệ hạ lên núi phong thiện cáo thành, trời đất giúp thuận, đó là do nhân sự hòa hợp nên thiên tượng ứng nghiệm.”
[116] Chiếu ban riêng cho châu Tịnh, châu Đại được uống rượu 3 ngày. Khi ấy, sứ thần thừa thụ tâu rằng tiệc rượu trước đây không thịnh soạn, các quan quân hiệu không được dự hội.
[117] Ngày Giáp Thân, sai Tể tướng Vương Đán làm Thái úy, dâng sách tôn thụy cho Thái Tổ, Thái Tông; Tri Xu mật viện sự Vương Khâm Nhược và Tham tri chính sự Phùng Chửng làm Trung thư lệnh, đọc sách văn. Lễ xong, Vua thân hành tế lễ ở sáu miếu. Trước đó, Vua xuống chiếu cho các quan bàn bạc về nghi thức bái biểu tiến danh của bách quan, và nói: “Việc khánh thành núi cao, ca ngợi tổ tông, tuy là lòng hiếu thảo, nhưng thực chất là lễ cát[24]. So với việc ban đầu tôn miếu hiệu, lý có khác. Xét thời Đường tu sửa tám lăng, và dời hai tổ Ý Tổ, Hiến Tổ, lễ xong đều có chúc mừng. Mong rằng ngày đó, cho phép bách quan đến cửa cung bái biểu chúc mừng.” Vua đồng ý.
[118] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu từ nay tế cáo trời đất, xã tắc, tông miếu, núi sông, thì đất hậu thổ cũng phải tế, ghi vào lệnh.
[119] Tháng 12, ngày Đinh Hợi mùng một, phong Hoàng đệ bát muội là Vạn Thọ Trưởng Công chúa làm Tùy Quốc Trưởng Công chúa, gả cho Hữu Long Vũ tướng quân, Phò mã đô úy Lý Tuân Húc. Tuân Húc là con của Kế Xương, ban đầu tên là Húc, Vua thêm chữ Tuân, và cho làm con của Sùng Củ.
[120] Sai Trung sứ đi các lộ biên giới ban thưởng cho các Bộ thự, Kiềm hạt dê, rượu, lệnh mở tiệc chiêu đãi quan lại, tướng hiệu.
[121] Xuống chiếu đường Thái Sơn dùng nhà cửa, kho tàng, dịch trạm làm hành cung vẫn giữ nguyên, nơi đặt Thiên thư phải cẩn thận bảo vệ.
[122] Xuống chiếu các châu mà đoàn Đông phong đi qua, các quân hiệu trong thành chặn xa giá kêu ca về việc lâu năm chưa được thăng chuyển, thì đặc cách thăng chuyển.
[123] Lệnh cho các quân trong ngoài không được bắt lính đóng góp, làm quân trang xa hoa. Trước đây, tướng đồn Ninh Sóc ở phủ Hưng Nguyên bắt quân lính mặc gấm vóc để làm đẹp quân đội, quân lính không đủ tiền, bèn bỏ trốn làm giặc, Vua biết chuyện, nên có lệnh cấm này.
[124] Ngày Canh Dần, Tri Xu mật viện sự Vương Khâm Nhược tâu rằng: “Hoàng đế nhận sách tôn hiệu, trăm quan đứng hàng chúc mừng, bọn thần cùng các quan chức phó ở trên điện đứng hầu, muốn đợi khi dâng sách bảo xong, Thái úy về vị trí, bọn thần sẽ dẫn đầu các quan đứng hầu trên điện đọc lời chúc mừng.” Vua đồng ý.
[125] Ngày Tân Mão, Vua ngự đến điện Triều Nguyên nhận sách tôn hiệu.
[126] Ngày Nhâm Thìn, Vua đến viện Khải Thánh bái yết điện thờ Thần vị của Thái Tông.
[127] Vua sai Đinh Vị, Lý Tông Ngạc, Thích Luân, Trần Bành Niên biên soạn sách 《Phong Thiền Ký》, theo lời thỉnh cầu của Bành Niên.
[128] Ngày Ất Mùi, sứ Khiết Đan là Tiêu Vĩnh từ biệt về nước. Theo lệ cũ, khi sứ Khiết Đan từ biệt, phải ban yến, không xử lý chính sự. Vua vì đã nghỉ nhiều ngày, lo việc cơ mật bị đình trệ, sai trung sứ bảo Trung thư, Xu mật viện cho phép tâu việc trước.
[129] Vua xuống chiếu cho các hộ nấu muối ở phía nam châu Lộ từ nay gặp ngày Tết Nguyên đán, Đông chí, Hàn thực, đều được nghỉ ba ngày, số muối thu trong những ngày đó được miễn.
[130] Các quan tâu rằng việc tế lễ không nên quá nhiều, xin bỏ lễ hưởng tháng chạp ở Thái Miếu, còn miếu Hoàng hậu và miếu Nguyên Đức Hoàng thái hậu vẫn giữ như cũ, Vua đồng ý.
[131] Ngày Đinh Dậu, Vua ban cho các quan phụ chính rượu thượng hạng dùng trong lễ phong thiền ở Thái Sơn cùng nước suối mới ở Ngọc Nữ, Bạch Long, Vương Mẫu trì.
[132] Vua xuống chiếu cho Ty Lưu thủ Đông Kinh và các nội thần chưởng sự ở kinh đô[25] không được ban thưởng thì đặc cách ban cho.
[133] Vua bổ nhiệm Lang A thuộc bộ tộc Đạo ở châu Diên làm Thị cấm, ban tên là Trung Thuận. Bộ tộc này ở phía tây châu, phía bắc giáp đất Phiên châu Khánh, Ty Kiềm hạt tâu rằng quân triều đình mỗi lần xuất chinh đều nhờ họ dẫn đường, nên ban thưởng.
[134] Ngày Kỷ Hợi, Vua đến chùa Phổ An bái yết tượng thánh của Nguyên Đức Hoàng thái hậu.
[135] Ngày Canh Tý, phong Dạ Lạc Hột của người Hồi Cốt làm Đặc tiến, Trung Thuận Bảo Đức Khả Hãn Vương, mẹ ông ta là Hiền Minh Bảo Vật Công Chúa, các sứ giả tiến cống đều được ban quan chức và áo mũ. Dạ Lạc Hột thường nói rằng bản đạo của mình đã chống lại Triệu Đức Minh, xin triều đình phát binh và bổ nhiệm một Khổng Mục Quan đến bản đạo. Triều đình ban chiếu dụ rằng Đức Minh đã thuận theo mệnh lệnh, và lo ngại rằng quan lại đến đó sẽ gây phiền nhiễu, chỉ sai sứ giả cùng đi.
[136] Ngày Tân Sửu, Công bộ Thượng thư, Bình chương sự Vương Đán được phong làm Trung thư Thị lang, kiêm Hình bộ Thượng thư, Bình chương sự; Sở Vương Nguyên Tá làm Thái phó, Tả Vệ Thượng tướng quân, vẫn như trước dưỡng bệnh; Ninh Vương Nguyên Ốc làm Hộ Quốc, Trấn Quốc Tiết độ sứ, Thư Vương Nguyên Xưng làm Bình Giang, Trấn Giang Tiết độ sứ, đều kiêm Thị trung; Quảng Lăng Quận Vương Nguyên Nghiễm làm Chiêu Vũ, An Đức Tiết độ sứ, tiến phong làm Vinh Vương.
[137] Cùng ngày, Vua nói với Vương Đán rằng: “Tiên đế mỗi khi phong chức cho tể thần, thân vương, ban chế thì không ngự ở điện Sùng Đức để thiết triều, đây là có lệ cũ. Ý chỉ là để phong chức cho tể tướng, thân hiền, cho thấy đế vương không chuyên quyền chăng?”
(Theo 《Hội yếu》, cần xem xét thêm.)
[138] Ngày Quý Mão, Tri Xu mật viện sự Vương Khâm Nhược, Tham tri chính sự Phùng Chửng, Tri Xu mật viện sự Trần Nghiêu Tẩu, Tham tri chính sự Triệu An Nhân, Thiêm thự Xu mật viện sự Mã Tri Tiết đều được thăng quan một bậc; Thái tử Thái sư, Lai Quốc công Lữ Mông Chính được tiến phong làm Từ Quốc công; các quần thần đều được ban ơn theo thứ tự.
[139] Ngày Giáp Thìn, phong Tuyên chính sứ, Ân Châu Đoàn luyện sứ Lý Thần Phúc làm Tuyên khánh sứ, kiêm Chiêu Châu Phòng ngự sứ. Trước đây, các chức sứ tối cao chỉ đến Tuyên chính, Vua đặc biệt lập thêm chức sứ để khen thưởng Thần Phúc.
[140] Ban chiếu rằng các quan Đề điểm hình ngục là triều thần, sứ thần không phân biệt phẩm trật, cùng các chức Đô Ngu hậu trong các ban, các quân đều được ban ơn cho một người con.
[141] Ban chiếu rằng các cung quan, lăng miếu trong thiên hạ có tên trong địa chí, có công với dân chúng, đều được tu sửa, tôn vinh.
[142] Lại có chiếu chỉ cho các ty chuyển vận ở Giang, Hoài, trong bộ nội mỗi nơi phải dự trữ lương thực đủ dùng trong ba năm để phòng ngừa lũ lụt và hạn hán. Trước đây, gạo từ Giang, Hoài đều được chuyển về kinh sư. Đến nay, Ty Thiên giám tâu rằng vùng Dương, Sở sẽ gặp lũ lụt và hạn hán, nên phải phòng ngừa.
[143] Ngày Đinh Mùi, ban chiếu rằng từ nay các bài chúc văn tế lễ Tứ Độc đều phải được tiến trình lên. Theo chế độ cũ, trong các lễ tế thường, Học sĩ viện chỉ tiến trình bài chúc văn tế Ngũ Nhạc, còn Tứ Độc thì không, nên mới có chiếu chỉ này.
[144] Trước đó, Vua nói với Vương Đán rằng: “Hoàng thân giữ chức vệ binh rất nhiều, nên xếp theo thứ tự lâu năm để cho họ cai quản các quận.” Do đó, Tả Giám môn vệ Đại tướng quân Đức Ung cùng tám người khác được bổ nhiệm làm Thứ sử, Hữu Lĩnh quân vệ Tướng quân Doãn Thăng cùng năm người khác được thăng chức. Đức Ung đã tại chức 18 năm, Doãn Thăng đã tại chức 7 năm. Đức Ung là con thứ tư của Đình Mỹ.
[145] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu cho Thái thường tự soạn nhạc chương mới về Thiên thư, để dùng trong lễ tế trời tại Viên Khâu. Lại có chiếu lấy những điềm lành đặc biệt từ khi Thiên thư giáng xuống và bàn việc phong thiền, soạn thành nhạc khúc riêng để dùng trong các buổi triều hội và yến tiệc. Thái thường tự xin dùng khúc “Thụy An” để hiến tế Thiên thư trong lễ giao tự, khúc “Linh Văn” để dùng khi Thiên thư thăng giáng; lại xin dùng năm khúc “Lễ Tuyền”, “Thần Chi”, “Khánh Vân”, “Linh Hạc”, “Thụy Mộc” trong các buổi triều hội, và xin giao cho hai chế soạn lời, Vua đồng ý.
[146] Phục Châu Phòng ngự sứ, Phò mã Đô úy Sài Tông Khánh được ân điển từ Khang Châu chuyển đến Phục Châu, nhưng không đến tạ ơn, bị Hữu ty tố cáo, xử theo tội vi phạm chế độ, phải chuộc tội bằng 30 cân đồng, nhưng được chiếu chỉ giảm nhẹ, chỉ phạt hai tháng lương.
[147] Đại đô đầu Ngụy Tiến Vũ và thủ lĩnh động chủ Đàm Giá Đồ từ Đại Động ở Thần Châu mang phương vật đến cống.
[148] Tư Đạc Đốc ở Tây Lương phủ sai sứ đến cống ngựa.
[149] Ngày Canh Tuất, thiết lập tám sương ngoài thành mới của kinh sư. Vua thấy ngoài cửa thành, dân cư đông đúc, theo lệ cũ chỉ có Huyện úy của Xích huyện quản lý, nên đặc biệt đặt sương lại, giao cho Kinh phủ thống quản.
[150] Ngày Tân Hợi, lệnh cho Thượng thư Hộ bộ Khấu Chuẩn làm Tri Thiên Hùng quân kiêm Trú bạc Đô bộ thự. Sứ giả Khiết Đan từng đi qua Đại Danh, nói với Khấu Chuẩn rằng: “Tướng công uy tín cao, sao không ở Trung thư?” Khấu Chuẩn đáp: “Hoàng thượng cho rằng triều đình không có việc gì, cửa Bắc cần người giữ chìa khoá, không phải tôi thì không ai làm được.”
[151] Ngày Nhâm Tý, sứ giả Khiết Đan là Tả Vũ vệ Thượng tướng quân Tiêu Tri Khả, Hưng Quốc Tiết độ sứ Tiêu Lưu Ninh, Phó sứ Sùng Lộc khanh Thành Vĩnh, Thiếu phủ giám Từ Bị đến chúc mừng năm mới. Nội thị cao phẩm Vương Thừa Huân tâu rằng, nghe nói sứ giả chúc mừng năm mới, một người là em của Quốc mẫu, một người là thân thích của Quốc mẫu, đều là người được tin cậy, mong ban ân điển nhiều hơn bình thường. Hoàng đế cho rằng lễ nghi đã định, không cho phép. Thừa Huân là con của Văn Thọ.
[152] Ngày Giáp Dần, lấy Nam Nha làm Tích Khánh viện. Trước đây, yến tiệc thường tổ chức ở Thượng thư tỉnh hoặc Đô đình dịch, lễ sinh thần thì tổ chức ở chùa Tướng Quốc. Hoàng đế cho rằng nấu nướng và cười đùa trong chùa là không tôn kính, nên sai nội thần chọn nơi rộng rãi để thay thế. Nam Nha vốn là phủ đệ của Thái Tông khi còn làm Doãn Kinh, sau đó Tần vương và Hứa vương kế tục ở đó, về sau bỏ trống nên dùng làm viện.
[153] Chiếu lệnh các châu quân ven biển và liền kề với các động, nếu chức Thông phán cao hơn Tri châu thì phải xem xét điều chỉnh.
[154] Chiếu lệnh Tiến tấu viện không được báo cáo việc triều đình không đúng thời, sai năm viên Tiến tấu quan làm bảo lãnh, ai vi phạm sẽ bị xử tội vi chế.
(Theo 《Hội yếu》, không rõ tháng.)
[155] Năm đó, toàn quốc có 7.908.555 hộ, 17.803.401 nhân khẩu.
[156] Chúa Khiết Đan truy tôn miếu hiệu của A Bảo Cơ là Thái Tổ, Đức Quang là Thái Tông, Nguyễn là Thế Tông[26], (Ngột Dục) Minh là Mục Tông, (Thuật Luật) Hiền là Cảnh Tông, (theo 《Minh ký》). Lại truy tặng Đông Đan Nhân Hoàng Vương Bội là Nhượng Quốc Hoàng Đế[27], Tự Tại Thái tử Nguyễn là Cung Thuận Hoàng Đế.
- Trọng Thư dẫn việc trước đây Thị lang Lễ bộ Ngụy Tường thi cử chức Tường đoạn quan Đại Lý tự của Bùi Thường, Thận Hài làm ví dụ. Chữ 'thô' nguyên bản thiếu, theo 《Tống hội yếu》 chức quan 15-35, nghi chế 8-3 bổ sung. ↵
- Theo 《Tống Hội Yếu Lễ》 quyển 22, mục 7, chép là 'mao chỉ dùng để lọc rượu'. ↵
- Nguyên bản chữ 'thịnh', theo bản trong các và sách trên sửa thành 'thắng'. ↵
- Chữ 'trí' trong 'Đinh Vị thỉnh trí tùy giá sứ tiền đầu tử ty' nguyên là 'thự', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và bản các sửa lại. 'Sứ tiền' trong bản Tống và bản Tống toát yếu viết là 'Tiện tiền', có lẽ đúng, các chỗ sau cũng vậy. ↵
- Tống thần xong mới đặt ngọc quỹ vào hòm 'hòm' nguyên văn là 'đá', theo 《Tống hội yếu》 lễ 22-17 sửa lại. ↵
- Đóng dấu xong 《Tống hội yếu》 lễ 22-17, 《Tống sử》 quyển 104 Lễ chí đều chép là 'đóng dấu bùn xong rồi trở về vị trí'. ↵
- Đón lễ 'lễ' nguyên văn là 'tổ', theo bản Tống, bản tóm tắt Tống và 《Tống hội yếu》 lễ 22-17, 《Thái thường nhân cách lễ》 quyển 42, 《Tống sử》 quyển 126 Nhạc chí sửa lại. ↵
- Chữ 'thập' dưới 'tiền thất bát' nguyên có, theo các bản khác mà bỏ. Xét bản Tống, bản tóm tắt Tống và《Tống sử toàn văn》quyển 6, 《Tục thông giám》quyển 27 đều ghi là '7 đồng', 《Tống sử》quyển 7 phần Chân Tông kỷ thì ghi là '7, 8 đồng'. ↵
- Chữ 'hỗ' nguyên là 'bạt', theo các bản khác và《Trường biên kỷ sự bản mạt》quyển 17 phần Phong Thái Sơn mà sửa. ↵
- 'Như' trong 'xe cộ y phục cân đo không đúng phép' vốn bị thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử toàn văn》 quyển 6 bổ sung. ↵
- Chữ 'ngọc sách' trong nguyên văn bị thiếu, căn cứ vào 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 và ý văn dưới đây để bổ sung. ↵
- Chữ 'chư' trong nguyên văn bị thiếu, căn cứ vào các bản khác và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 để sửa lại. ↵
- Chữ 'quân' trong nguyên văn viết là 'nhân', căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 để sửa lại. ↵
- Nhiếp Thái úy Phùng Chửng dâng hòm vàng xuống: Chữ 'Nhiếp' nguyên bản thiếu, chữ 'Kim' nguyên bản viết là 'Ngọc', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 phần Phong Thái Sơn, 《Tống sử》 quyển 104 phần Lễ chí sửa lại. ↵
- Ánh sáng vàng như dải lụa quấn quanh hộp đựng thiên thư: 'Quang' nguyên văn là 'khí', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Tống sử》 sửa lại. ↵
- Đàn nằm ở phía nam cung Phụng Cao, chữ 'đàn' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 bổ sung. ↵
- Cao chín thước, ba chữ này nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 quyển 4, phần Chân Tông Tường Phù bổ sung. ↵
- Ngự tại điện Thọ Xương trên đàn để nhận lễ chúc mừng, chữ 'điện' nguyên bản thiếu, căn cứ theo bản Tống, bản Tống toát yếu và sách 《Trường biên kỷ sự bản mạt》, 《Trị tích thống loại》 bổ sung. ↵
- Lần xá này khác với lệ thường 'Lệ thường' nguyên bản là 'Thường thời', theo bản trong các sách và đoạn trích dẫn từ 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 mà sửa. ↵
- 'Tử' nguyên bản chép là 'nhân', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và 《Tống sử》 quyển 105, Lễ chí sửa lại. ↵
- 'Miếu' nguyên bản chép là 'mộ', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và 《Tống sử》 đã dẫn sửa lại. ↵
- 'Tịnh Quan thị' nguyên bản chép là 'Khai Quan thị', theo bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống và 《Tống đại chiếu lệnh tập》 quyển 156, chiếu truy phong Thúc Lương Hột làm Tề quốc công sửa lại. Tiền Đại Hân trong 《Nhị thập nhị sử khảo dị》 (sau đây gọi tắt là 《Khảo dị》) quyển 70 nói rằng bia Lễ khí đời Hán, bia đá đời Tống ở Khổng miếu tại Khúc Phụ và bia đá đời Nguyên tại huyện Cú Dung đều chép là 'Tịnh Quan thị', có thể chứng minh. ↵
- phiên hầu ở ngoài 'phiên' nguyên là 'phiền', căn cứ theo các bản và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 'Phong Thái Sơn' sửa lại. ↵
- 'Cát' nguyên là 'Cổ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu và Tống hội yếu nghi chế 7-1, Trị tích thống loại quyển 4 Chân Tông Tường Phù sửa lại. ↵
- Chữ 'nội thần' nguyên bản viết là 'đại thần', theo bản hoạt tự và 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 17 sửa lại. ↵
- 'Nguyễn' nguyên văn là 'Cảnh', căn cứ theo 《Liêu sử》 quyển 5, Thế Tông kỷ sửa lại. ↵
- 'Vương' nguyên văn thiếu, 'Nhượng' nguyên văn là 'Hộ', căn cứ theo 《Khiết Đan quốc chí》 quyển 14, Đông Đan Vương truyện và 《Liêu sử》 quyển 3, Thái Tông kỷ thượng, quyển 14, Thánh Tông kỷ, quyển 64, Hoàng tử biểu, quyển 72, Nghĩa Tông Bội truyện sửa lại và bổ sung. ↵