I. TỐNG THÁI TỔ
QUYỂN 8: CÀN ĐỨC NĂM THỨ 5 (ĐINH MÃO, 967)
Từ tháng giêng năm Càn Đức thứ 5 đời Thái Tổ đến tháng 12 cùng năm.
[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Dần, mùng 1, Vua ngự ở điện Càn Nguyên nhận triều nghi, nâng vị trí của các Tiết độ sứ lên hàng trong Long trì, trên cả Kim Ngô tướng quân. Theo lệ cũ, những Tiết độ sứ không kiêm chức Bình chương sự đều ở dưới hàng khanh, giám, nay đặc cách thay đổi điều này.
[2] Ngày Tân Mão, lệnh cho các trưởng quan của các châu Khai Phong, Đại Danh phủ, Vận, Thiền, Hoạt, Mạnh, Bộc, Tề, Truy, Thương, Lệ, Tân, Đức, Hoài, Bác, Vệ, Trịnh kiêm nhiệm chức Hà đê sứ của châu mình.
[3] Ngày Giáp Ngọ, Cung phụng quan Vương Hán Anh bị đánh trượng và phối lưu đến nha môn châu Thái, vì tội lúc làm Giám áp ở Tân Tân đã tự ý sử dụng gạo quan.
[4] Ngày Đinh Dậu, ra chiếu cho Lại bộ Lưu nội tuyển, những người đã bãi nhiệm trước ngày mùng 1 tháng giêng năm Càn Đức thứ 5 đều được lệnh về kinh và miễn thủ tuyển chờ bổ nhiệm.
[5] Ngày Mậu Tuất, chia phái sứ giả điều động hàng vạn dân đinh từ các huyện vùng kinh sư và các quận lân cận để sửa đê. Từ đó, việc này trở thành thông lệ hàng năm, bắt đầu từ tháng giêng và hoàn thành vào cuối xuân.
[6] Ngày Tân Sửu, ban cho dân các châu Tây Xuyên giảm một nửa thuế hạ năm nay.
[7] Ra chiếu rằng, do thời bình, mùa màng tốt tươi, nên tăng số ngày thắp đèn trong dịp Thượng nguyên lên thành năm đêm.
[8] Ban đầu, Lữ Dư Khánh đến Thành Đô, Vương Toàn Bân chỉ lo việc quân sự, từng nói với người thân: “Ta nghe xưa nay các tướng lĩnh nhiều người không thể giữ trọn công danh, ta muốn xin cáo bệnh về phía đông, may ra tránh được hối hận.” Có người khuyên: “Nay giặc cướp đầy rẫy, không có chiếu chỉ thì không thể dễ dàng rời đi.” Vương Toàn Bân bèn thôi. Sau đó, bề tôi và dân chúng Ngụy Thục thường đến triều đình tố cáo Vương Toàn Bân, Vương Nhân Thiệm, Thôi Ngạn Tiến cùng những người khác khi phá Thục đã cưỡng đoạt con gái, ngọc lụa, tự ý mở kho phủ, chiếm đoạt của cải cùng nhiều việc phi pháp khác.
Sứ giả mỗi khi từ Thục về triều, Vua hỏi han, đều nắm rõ sự tình. Do đó, Vua cho triệu hồi các tướng cùng lúc, Vương Nhân Thiệm vào yết kiến trước, Vua chất vấn, Nhân Thiệm liền đổ lỗi cho các tướng khác, hy vọng tự giải thoát, nhưng Vua nói: “Nhận kỹ nữ của Lý Đình Khuê, mở kho Phong Đức lấy vàng bạc, đây chẳng phải là việc của các tướng đó sao?” Vương Nhân Thiệm hoảng sợ, không thể đáp.
Vua thấy Vương Toàn Bân và các tướng mới lập công, không muốn giao họ cho ngục lại, bèn lệnh Trung thư Môn hạ bắt Vương Nhân Thiệm, Vương Toàn Bân, Thôi Ngạn Tiến cùng các người tố cáo ra đối chất. Tổng cộng những của cải chiếm đoạt và giấu giếm lên tới 64 vạn 4.800 quan tiền, chưa kể những báu vật trong cung Thục và kho ngoại phủ không được ghi chép[1]. Lại xét việc tự ý khấu trừ tiền trang bị của binh sĩ, giết hàng binh khiến giặc nổi lên, Vương Toàn Bân, Vương Nhân Thiệm, Thôi Ngạn Tiến đều nhận tội.
[9] Ngày Nhâm Tý, lệnh Ngự sử đài tập hợp bách quan ở triều đường, bàn tội của Vương Toàn Bân và những người khác.
[10] Ngày Quý Sửu, bách quan dâng biểu nói rằng Vương Toàn Bân, Vương Nhân Thiệm, Thôi Ngạn Tiến đáng tội chết, nhưng Vua đặc cách tha tội.
[11] Ngày Giáp Dần, thiết lập Sùng Nghĩa quân ở Tùy Châu, Chiêu Hóa quân ở Kim Châu. Lấy Trung vũ Tiết độ sứ Vương Toàn Bân làm Sùng Nghĩa Lưu hậu, Vũ tín Tiết độ sứ, Thị vệ Bộ quân Đô chỉ huy sứ Thôi Ngạn Tiến làm Chiêu Hóa Lưu hậu. Xu mật Phó sứ, Tả vệ Đại tướng quân Vương Nhân Thiệm (theo ghi chép trong ‘Tống sử Đế kỷ’ và ‘Tể tướng biểu’, đều ghi là Hữu vệ Đại tướng quân.) bị cách chức, giáng làm Hữu vệ Đại tướng quân.
[12] Ngày Bính Thìn, Vua ban chiếu cho Vương Toàn Bân, Vương Nhân Thiệm, Thôi Ngạn Tiến và các tướng lĩnh nguyên thuộc hạ của ba người này rằng: những ai từng nhận con gái, ngựa, vàng lụa từ dân chúng và sĩ đại phu nước Thụ giả (tức nước Thục bị xem là “ngụy”), đều phải lập tức trả lại cho chủ cũ; còn các tướng sĩ trong quân đội nếu có nhận những thứ đó, sẽ không bị truy cứu.
[13] Ngày Đinh Tị, phong Nội khách tỉnh sứ Tào Bân làm Tuyên huy nam viện sứ, kiêm lĩnh chức Tiết độ sứ Nghĩa Thành; Thị vệ mã quân đô chỉ huy sứ, Tiết độ sứ Ninh Giang Lưu Quang Nghĩa đổi sang kiêm lĩnh chức Tiết độ sứ Trấn An; Long tiệp tả sương đô chỉ huy sứ Trương Đình Hàn làm Thị vệ mã quân đô ngu hậu, kiêm lĩnh chức Tiết độ sứ Chương Quốc; Hổ tiệp tả sương đô chỉ huy sứ Lý Tiến Khanh làm Bộ quân đô ngu hậu, kiêm lĩnh chức Tiết độ sứ Bảo Thuận. Trương Đình Hàn và Lý Tiến Khanh trước đây đều là Đô chỉ huy sứ Hành doanh mã bộ quân đường Quy Châu, theo Lưu Quang Nghĩa bình định nước Thục, lại không gây nhiễu việc quân chính, nên được ban thưởng.
Vương Nhân Thiệm khi ấy chỉ trích các tướng, riêng nói rằng: “Người thanh liêm, cẩn thận, không phụ sứ mệnh của Bệ hạ, chỉ có Tào Bân mà thôi.”
Vua vốn đã biết Tào Bân giỏi đảm đương chức vụ, nên ban thưởng cho ông đặc biệt hậu hĩnh. Tào Bân vào triều từ chối và nói: “Các tướng đều mắc tội, chỉ có thần nhận thưởng, sao có thể tự yên lòng? Thần không dám vâng chiếu.” Vua đáp: “Khanh có công mà không có lỗi, lại không tự khoe khoang. Nếu có chút lỗi nhỏ nào, Vương Nhân Thiệm há lại giấu giếm cho khanh sao? Thưởng phạt là phép thường của quốc gia, không thể từ chối.”
Lý Tiến Khanh là người Tấn Dương. Vua từng đến hồ Giảng Vũ, đứng bên bờ xem tập trận thủy chiến. Bèn nói với tả hữu rằng: “Mọi người đều nói quên mình vì nước, nhưng chết là điều khó với ai cũng vậy, nói thì dễ thôi.” Tiến Khanh đáp: “Với thần, lệnh chết thì chết vậy.” Liền nhảy xuống hồ. Vua vội sai mấy chục thủy công vớt ông lên, suýt thì ngất đi. Vua khiến các tướng dốc sức liều mình, đại khái như vậy.
[14] Ngày Mậu Ngọ, Vua ban lụa và thóc cho gia đình Vương Kế Đào và Cao Ngạn Huy. Kế Đào trước đây có hiềm khích với Thông sự xá nhân Điền Khâm Tộ. Khâm Tộ từng vu cáo Kế Đào, Vua cho ngựa trạm triệu Kế Đào về triều để hỏi tội, nhưng ông bị bệnh chết trên đường. Vua mới biết việc ông dẫn quân đầu tiên đánh giặc, bị thương nặng, nên cùng Ngạn Huy được hưởng ân thưởng dành cho người tử nạn.
[15] Tháng hai, ngày Canh Thân, mùng một, ngự đến xưởng đóng thuyền, rồi ngự đến phía tây thành, xem binh sĩ tập bắn cung và cưỡi ngựa.
[16] Ngày Giáp Tý, Tham tri chính sự Tiết Cư Chính và Lữ Dư Khánh, đều được thăng chức Lại bộ thị lang.
[17] Ngày Ất Sửu, lấy Tây Xuyên chuyển vận sứ, Cấp sự trung Thẩm Nghĩa Luân làm Hộ bộ thị lang, sung chức Xu mật phó sứ. Lúc đầu, Nghĩa Luân theo quân vào Thành Đô, ở một mình tại chùa, ăn chay, các quan của nước Thụy Thục có người đem châu báu và đồ kỳ lạ hiến tặng, nhưng ông đều từ chối. Khi trở về phía đông, trong rương chỉ có vài cuốn sách tranh mà thôi. Vua từng hỏi thong thả Tào Bân về việc các quan thiện hạnh như thế nào, Tào Bân đáp: “Thần chỉ giám sát quân đội, việc thẩm tra quan lại không phải là chức phận của thần.” Vua cố hỏi, Bân chỉ tiến cử Nghĩa Luân là người có thể đảm đương. Vua nghe nói Nghĩa Luân có tiết tháo trong sạch vượt trội, bèn đề bạt sử dụng.
[18] Ngày Kỷ Tỵ, ban chiếu rằng các chức Tuần kiểm, Giám áp bắt được kẻ trộm cướp và người phạm tội buôn bán muối, rượu, đều giao về địa phương xét xử theo luật, không được tùy tiện quyết định.
[19] Ngày Nhâm Thân, Quyền tri cống cử Lư Đa Tốn tấu lên danh sách mười người đỗ tiến sĩ. Lại sai Tham tri chính sự Tiết Cư Chính ở Trung thư phúc khảo, tất cả đều đỗ, bèn ban cho học vị Cập đệ.
[20] Ngày Quý Dậu, Ngự sử đài tâu rằng: “Thần xem thấy Đại Lý tự xử tội phạt tù lao dịch, ngoài những người được đổi tội bằng tiền đồng, còn có những kẻ bị đưa đến giám sở Tướng tác để làm việc[2]. Giám Tướng tác trước đây kiêm nhiệm chức Nội tác sứ[3], lại có các cơ quan Tả hiệu, Hữu hiệu, Trung hiệu, trước đây các công việc lao dịch đều do các cơ quan này đảm nhiệm, nhưng hiện nay chỉ còn tên mà không còn sử dụng lao dịch nữa. Nếu gặp việc tế tự cần cung cấp nước lửa, thì có quan cung cấp của bản ty lo. Xin lệnh cho Đại Lý tự sau khi xử tội phạt tù lao dịch theo thể thức quy định[4], đều đưa về các xưởng thủ công để làm việc.” Vua đồng ý.
Từ đó về sau, những quan viên phạm tội bị phạt đi đày, phần nhiều được đưa về các châu ngoại biên quản, hoặc giao cho các hiệu quân quản lý. Những kẻ phạm tội chết nhưng được khoan hồng, phần nhiều bị đánh trượng, xăm mặt, đày đến các châu xa xôi, nếu được ân xá thì di chuyển gần hơn, miễn khỏi quân tịch. Phàm những quan viên phạm tội, phần nhiều được đặc xử, có khi bị cách chức, có khi được giao lại công việc, nếu tội tham nhũng nặng, thì bị đày đi; hoặc xử phạt giáng chức, từ nơi xa dần dần được chuyển về gần, trải qua ba bốn lần ân xá, hoặc được bổ nhiệm lại, nhằm cảnh cáo những kẻ tham lam và giữ gìn phẩm cách quan lại.
[21] Tả Giám môn vệ Đại tướng quân, quyền phán Tam Tư Triệu Biền, tính tình nóng nảy, thẳng thắn, thường trái ý Vua, nhưng Vua vẫn rộng lượng tha thứ. Ông cũng không hòa hợp với Thừa tướng Triệu Phổ, bèn cáo bệnh chân, xin từ chức. Ngày Giáp Tuất, Biền giữ chức cũ, bị miễn chức phán.
(Truyền rằng Biền điều tra được việc Phổ tư lợi mua gỗ lớn ở Tần, Lũng, lén tấu lên Vua. Sợ Phổ biết, nên xin từ chức. Xét năm Khai Bảo thứ tư, Vua mới nghe việc Phổ tư lợi buôn gỗ lớn, liền nghĩ đến việc đuổi Phổ, sao lại có thể khiến Biền bỏ chức Tam Tư? Năm sau, Lôi Đức Tương lén tấu, Phổ bị khiển trách, còn Biền thì không bị gì. Đây hẳn là chưa từng bàn đến Phổ, chỉ vì thù riêng ghen ghét Phổ nên tự xin từ chức mà thôi. Việc buôn gỗ xảy ra sau đó 5 năm, truyện nhầm lẫn gộp cả vào.)
[22] Cùng ngày, Điện tiền Đô chỉ huy sứ, Nghĩa Thành Tiết độ sứ Hàn Trọng Uân bị bãi chức quân sự, ra làm Chương Đức Tiết độ sứ. Trước đó, có người gièm pha rằng Trọng Uân tự ý lấy quân thân tín làm người tâm phúc. Vua nổi giận, muốn giết ông, bèn hỏi ý Triệu Phổ. Phổ nói: “Bệ hạ chắc không tự mình chỉ huy quân thân tín, ắt phải chọn người giao phó. Nếu Trọng Uân bị giết vì lời gièm, thì mọi người đều sợ tội, ai còn dám giúp Bệ hạ chỉ huy nữa?” Vua vẫn chưa nguôi giận, Phổ khuyên giải thêm, Vua nghe theo, chỉ ra lệnh cho Trọng Uân đi trấn giữ. Trọng Uân biết Phổ cứu mình, hôm sau đến nhà Phổ tạ ơn, nhưng Phổ từ chối không gặp.
[23] Ngày Giáp Thân, xuống chiếu cho Khánh Châu trực thuộc kinh sư.
[24] Ngày Kỷ Sửu, Vua đến giáo thuyền trì.
[25] Thâm Châu Thứ sử Trần Đạt giận Phán quan Vương Hạo, bắt giam vào ngục. Hạo tự nghi ngờ, sợ hãi, bèn tích trữ vũ khí riêng, định chạy sang Khiết Đan. Gia nhân của Hạo tố cáo sự việc, chiếu cho Ngự sử đài điều tra, xét ra đúng tội, đáng xử tử, nhưng Vua đặc biệt tha chết. Ngày mùng 1 tháng 3, năm Canh Dần, Đạt bị tước danh hiệu, lưu đày ra hải đảo.
(Vương Hạo, chưa rõ lai lịch.)
[26] Ngày Mậu Tuất, phong Tiền An quốc tiết độ sứ Trương Mỹ làm Hoành Hải tiết độ sứ.
Ban đầu, quan huyện mua gỗ ở Quan Trung, các quận hàng năm xuất ra hàng nghìn vạn tiền để cho dân mượn, quan lớn lấy một phần mười, gọi là tiền suất phần, mỗi năm thu được đến vài trăm vạn. Trương Mỹ ở Đồng Châu thì không lấy. Sau đó, dân các quận khác đến kinh đô tố cáo quan lớn thu tiền suất phần, đều bị truy thu đền bù. Trương Mỹ đến Thương Châu, một thời gian sau, có dân dâng thư tố cáo ông cưỡng ép lấy con gái họ làm thiếp, lại còn cướp hơn bốn nghìn quan tiền của dân.
Vua gọi người tố cáo đến và bảo rằng: “Ngươi ở Thương Châu, lúc Trương Mỹ chưa đến, dân tình ra sao?” Đáp: “Không yên ổn.” “Sau khi đến thì thế nào?” Đáp: “Sau khi đến, không còn giặc cướp nữa.”
Vua nói: “Vậy thì Trương Mỹ đã cứu mạng dân Thương Châu, ơn ấy lớn lắm. Dù ông ta có lấy con gái ngươi, sao ngươi lại oán? Nay ngươi muốn hạ bệ ông ta, ta cần gì tiếc ông ta? Chỉ tiếc dân Thương Châu mà thôi. Nay ta sẽ nghiêm khắc nhắc nhở Trương Mỹ, ông ta chắc không dám tái phạm. Con gái ngươi đáng giá bao nhiêu?” Đáp: “Năm trăm quan.” Vua liền sai quan trả tiền và cho về.
Sau đó, Vua triệu mẹ Trương Mỹ đến để tra hỏi việc làm của ông, bà lạy tạ tội rằng: “Thiếp ở kinh đô, không biết gì.” Vua lại ban cho bà vạn quan, bảo đưa cho Trương Mỹ, sai trả lại tiền đã lấy của dân. Vua bảo bà: “Hãy bảo con ngươi, nếu thiếu tiền cần tiền, phải xin ta, đừng lấy của dân.” Trương Mỹ liền sợ hãi, từ đó sống thanh liêm cẩn trọng. Chẳng bao lâu, ông nổi tiếng vì chính tích. Ông trấn nhậm Thương Châu tổng cộng mười năm, nên đời sau gọi là họ Trương Thương Châu (theo ‘Quy điền lục’ của Âu Dương Tu thì việc đoạt con gái dân là của Lý Hán Siêu. Xét rằng, Hán Siêu ở Quan Nam, dân lập bia ca ngợi, chắc không như thế, nay theo ‘Ký văn’).
[27] Ngày Giáp Thìn, Vua ra chiếu, yêu cầu Hàn lâm học sĩ và các quan thường tham tri trong cung, các quan châu huyện và kinh quan tiến cử mỗi người một người có thể đảm nhận chức quan thường tham tri.
[28] Ngày Ất Tỵ, Vua xuống chiếu cho các đạo tiết độ sứ, lưu hậu, quan sát sứ mỗi người tiến cử hai người trong bộ mình có tài năng, kiến thức xuất chúng và đức hạnh vượt trội; phòng ngự sứ, đoàn luyện sứ, thứ sử mỗi người tiến cử một người.
[29] Ngày Bính Ngọ, Môn hạ thị lang, Bình chương sự Triệu Phổ được thăng chức Tả bộc xạ, sung chức Chiêu văn quán đại học sĩ. Xu mật sứ, Kiểm hiệu thái bảo Lý Sùng Củ được thăng chức Kiểm hiệu thái phó.
[30] Cùng ngày, Vua ngự đến hồ Giáo Thuyền, sau đó đến vườn Ngọc Tân, ban yến tiệc và tổ chức bắn cung.
[31] Ngày Canh Tuất, quán Kiến Long xảy ra hỏa hoạn.
[32] Thiết lập quân Cảm Nghĩa ở châu Diệu.
[33] Huyện lệnh huyện Đạo Giang là Nguyên Tiển và Chủ bạ Quách Triệt vì tội tham nhũng bị xử tử. Vua xuống chiếu cho các lộ chuyển vận sứ lấy việc này làm gương, thông báo cho các thuộc lại đều biết để răn đe.
[34] Ngày Tân Hợi, Vua xuống chiếu cho châu Thương trực thuộc kinh sư.
[35] Ngày Bính Thìn, châu Trấn báo cáo rằng Chỉ huy sứ chiêu thu trại Thạch Bồn của Bắc Hán là Ngôn Chương dẫn theo trại ấy đến hàng.
[36] Tháng này, năm ngôi sao tụ lại như chuỗi ngọc, ở phương vị Giáng Lâu. Trước đây, Đậu Nghiễm cùng với Lư Đa Tốn, Dương Huy Chi vào niên hiệu Hiển Đất nhà Chu, cùng làm gián quan. Nghiễm giỏi về thiên văn lịch pháp, từng nói với Huy Chi rằng: “Năm Đinh Mão, năm sao tụ ở Khuê, từ đó thiên hạ thái bình, hai người Thập di nhìn thấy điều đó, còn ta thì không.”
(Theo truyện Hàn Hi Tải trong ‘Quốc sử’, Khuê tinh chủ về văn chương, lại thuộc phân dã của nước Lỗ. Lúc ấy Thái Tông trấn giữ Duyễn Hải, là điềm báo thái bình cho Trung Quốc. Xét rằng, vào tháng 8 năm Kiến Long nguyên niên, Thái Tông giữ chức Thái Ninh tiết độ, đến tháng 7 năm thứ hai thì nhận chức Khai Phong doãn[5], sao có thể lúc ấy vẫn còn trấn giữ Duyễn Hải? Truyện này nhầm vậy.)
[37] Môn hạ tỉnh tâu: “Theo chế thư, tiến sĩ, cửu kinh, được xét vào các chức sự quan sơ cấp. Lại có chế lệnh, các châu Quế, Ứng, Đào, tuyển các Ký lục phê phán thành chức sự quan để bổ nhiệm. Nay Lưu nội tuyển dùng cựu tiến sĩ Lý Túc ở Khai Phong để bổ nhiệm làm Chưởng thư ký ở quân Bảo Thuận tiết độ, trái với chế độ cũ, xin tuân theo khuôn phép xử phạt.”
(Chuyện này căn cứ theo ‘Tổ tông cố sự’, nhưng bản chí có đôi chút khác biệt.)
[38] Đường chủ sai các quan Thị lang hai tỉnh, Gián nghị đại phu, Cấp sự trung, Trung thư xá nhân và các học sĩ ở điện Tập hiền cần chính thay nhau canh gác tại điện Quảng Chính, cùng nhau đàm đạo, có khi đến nửa đêm mới nghỉ. Đường chủ rất thành kính với Phật giáo, Trung thư xá nhân Trương Kỵ mỗi lần vào chầu đều bàn về Phật pháp, nhờ thế mà được sủng ái.
Ban đầu, Đường chủ cho xây chùa trong cung, thường xuyên có vài trăm tăng ni, các cung nữ từ đời trước đều được xuất gia làm ni cô. Sau khi thiết triều, Đường chủ mặc áo cà sa tụng kinh, lễ bái tận tụy, không hề mệt mỏi. Có tăng nhân phạm tội gian dâm, quan chức xin xử theo luật, Đường chủ nói: “Trừng phạt tức là chiều theo dục vọng của hắn vậy.” Bèn cho lạy Phật ba trăm lần rồi tha tội. Có người làm tượng tháp, trang trí xa xỉ, Đường chủ chê trách. Nhà sư nói: “Bệ hạ không thấy trong Kinh Hoa Nghiêm rằng Phật cũng giàu sang ư?” Người trong nước bắt chước, Phật sự càng hưng thịnh. Lúc ấy, nhiều đại thần cũng ăn chay giữ giới để thờ Phật, duy có Trung thư xá nhân Từ Huyền là không, nhưng lại rất mê tín việc quỷ thần.
(Từ Huyền, xuất hiện lần đầu năm Thiên Phúc thứ 12, người Hội Kê. Trương Kỵ, xuất hiện lần đầu năm Hiển Đức thứ 6, người Toàn Tiêu.)
[39] Mùa hạ, tháng tư, ngày Giáp Tuất, kiểm tra 126 người trong điện tiền không hợp ý, phân phối đi các châu Vận, Tề, Ký, Bác, Đức, Thương.
[40] Ngày Mậu Dần, đến vườn Nghênh Xuân.
[41] Cấp sự trung người Khai Phong là Mã Sĩ Nguyên vào yết kiến Xu mật phó sứ Thẩm Nghĩa Luân, gặp lúc có viên lại đến trình việc, Nghĩa Luân nói chuyện mà quên để ý Sĩ Nguyên, Sĩ Nguyên cáo từ ra về rồi nói với người nhà: “Ta là bề tôi gần gũi trong đài tỉnh mà không được chấp chính đối đãi, có thể từ quan rồi.” Ngày Kỷ Mão, Sĩ Nguyên bèn xin nghỉ.
[42] Các quan tâu rằng: “Triều đình từ khi bình định xong hai vùng Xuyên, Hạp, đã ban bố bộ luật Hình thống và sắc lệnh biên soạn đến các châu trong vùng quản hạt, trong đó đều ghi rõ chiếu thư ngày Đinh Mão tháng 3 năm Kiến Long thứ 3 và các điều khoản về việc kết án. Thế nhưng, quan lại các châu lơ là, chẳng ai tuân theo. Khi xử các trọng tội, chỉ viết đơn giản, đến cuối quý mới dâng lên. Trong tờ tâu chỉ nói việc xử trảm hoặc lưu đày, đều không ghi rõ tội trạng và điều luật áp dụng. Kẻ phạm tội cũng không phân biệt thủ phạm hay tòng phạm, đối với những người không phạm tội ác nghịch mà vẫn dùng hình phạt trảm. Điều này là do từ khi binh đao nổi lên, vì giặc cướp chưa yên, nên tạm dùng quyền biến để răn đe kẻ xấu. Nay đã thái bình, sao lại không thay đổi? Xin hạ lệnh nghiêm khắc cho các châu Xuyên, Hạp phải tuân theo công pháp, kẻ nào không tuân thì sẽ bị các quan xét xử.” Triều đình nghe theo.
[43] Ngày Bính Tuất, hạ chiếu rằng: “Trước đây, giặc cướp cầm vũ khí dù không làm hại người cũng đều xử tử. Từ nay, chỉ cần không làm hại người, thì chỉ căn cứ vào giá trị tài vật để định tội.”
[44] Ngày Mậu Tý, Lăng Châu thứ sử Vương Kỳ bị giáng chức làm Tả Vệ suất phủ suất, do tội vơ vét của cải trong bộ hạ của mình. Lăng Châu có giếng Lăng, thời nước Thụy Thục đặt chức Giám, mỗi năm nấu được tám mươi vạn cân muối. Năm Quảng Chính thứ 23, miệng giếng sụp lở, khí độc bốc lên như khói, thợ nấu muối dùng dây thả xuống đều chết. Sau đó giếng càng bị tắc, dân chúng khó kiếm muối ăn. Thông phán, Hựu Tán thiện đại phu người Chân Định là Giả Liễn mới đề nghị khơi thông giếng. Thứ sử Vương Kỳ cho rằng việc này sẽ xâm phạm đến long mạch của giếng, dân phu không dám xuống. Giả Liễn tự cầm mai xẻng đốc thúc việc đào, hơn một năm thì đến được mạch nước. Giếng này nguyên sâu năm mươi bốn trượng, đều đào vào đá, chính giữa gọi là Tiểu Ánh Khẩu, trên Tiểu Ánh đều dùng gỗ nam và bách để chống đỡ. Lúc đầu mỗi ngày nấu được ba trăm cân muối, sau tăng dần lên ba ngàn sáu trăm cân. Giả Liễn dâng sự việc lên, liền được lệnh làm Tri châu sự. Sau, ông mất tại chức, dân châu vẽ tượng thờ.
(Theo ‘Kỳ Cựu Truyền’, Giả Liễn làm Thông phán Lăng Châu, cùng với Thứ sử Vương Kỳ đều tại tháng 2 năm thứ 3. Đến tháng 4 năm thứ 5, Vương Kỳ bị giáng chức, Giả Liễn nhận chức Tri Lăng Châu. Có lẽ là kế nhiệm Vương Kỳ. Nay ghi lại việc sửa giếng, phụ chép sau sự việc Vương Kỳ bị giáng chức.)
[45] Cấm dân chúng tổ chức lễ hội cầu thần, tổ chức đua thuyền và lập hội tế trời mặc áo trắng, quan lại phải nghiêm ngặt bắt giữ những kẻ vi phạm.
[46] Tháng 5, ngày Canh Dần, ra chiếu chỉ cho phủ Hưng Nguyên, huyện Tam Tuyền trực thuộc kinh sư.
[47] Ngày Ất Tỵ, ban quần áo cho những người nghèo ở kinh thành.
[48] Châu Trấn báo rằng chỉ huy sứ chiêu thu của trại Hồng Đường ở Bắc Hán là Phàn Huy đã giết giám quân Thành Chiêu của mình, đem trại đến hàng.
[49] Tháng 6, ngày Mậu Ngọ, nhật thực xảy ra.
[50] Ngày Bính Tý, ra lệnh cho các thông phán, kiềm hạt và đô giám sứ ở các châu không được nhận thêm tiền của do quan châu cấp ngoài lệ.
[51] Ngày Tân Tỵ, đến viếng chùa Kiến Long, sau đó đến viện Phi Long.
[52] Tri châu Thi là Vương Nhân Đô thu gom của dân để tu sửa cống phẩm, ngày Giáp Thân, lệnh cho Nhân Đô trả lại tiền cho dân. (Nhân Đô, chưa thấy tài liệu).
[53] Ngày Đinh Hợi, tri sứ quản lý bộ lạc Nam Ninh châu ở Tây Nam Phiên là Long Ngạn Thao đến cống nạp sản vật. Chiếu chỉ phong Ngạn Thao làm Quy Đức tướng quân, Thứ sử Nam Ninh châu kiêm sứ quản lý bộ lạc. Lại phong Vũ Tài, con trai của Thuận Hóa vương[6] làm Hoài Hóa tướng quân, em trai của Vũ Tài là Nhược Khải làm Quy Đức ty giai. Vương tử Nhược Dật cùng bảy người khác ở bộ lạc Vũ Long châu đều được phong làm Ty qua.
[54] Tháng 7 mùa thu, ngày Bính Thân, đúc ấn Đô phòng ngự sứ Ngũ Khê ban cho châu Khê.
[55] Trước đó, các đạo đều thu gom tượng Phật bằng đồng chở về kinh đô để hủy. Ngày Đinh Dậu, chiếu chỉ không hủy nữa, lệnh cho giữ lại nơi sở tại để thờ, nhưng không được đúc thêm.
(Chu Thế Tông từng hủy tượng Phật bằng đồng để đúc tiền, nói với tể tướng rằng: “Phật giáo cho rằng đầu mắt tủy não đều có lợi cho chúng sinh, còn không tiếc, há lại tiếc tượng đồng?” Tượng Đại Bi bằng đồng ở Trấn châu rất linh thiêng, khi hủy, dùng rìu đục ngực mà phá. Thái Tổ nghe chuyện này. Sau đó, Thế Tông bắc chinh, bệnh độc phát nơi ngực, đều cho là báo ứng. Thái Tổ từ đó coi trọng Phật giáo. Chuyện này thấy trong Đàm uyển của Dương Ức, nay không dùng.)
[56] Ngày Giáp Thìn, chiếu chỉ các châu khi thu thuế hai khoản, lệnh cho các huyện lệnh và phó không được kiểm tra hai nơi, gây phiền nhiễu thêm.
[57] Ất Tỵ, miễn thuế còn nợ năm Càn Đức thứ ba của 25 châu phủ bao gồm Giang Lăng.
[58] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu: “Từ hạ đến thu, lũ lụt và hạn hán gây tai họa, lo ngại sâu sắc dân chúng sẽ lưu lạc. Nên lệnh các châu trưởng quan khuyên dân không di cư, những người bị thiên tai sẽ được miễn thuế.”
[59] Tháng 8, quan chức tâu rằng các châu ở Kinh Hồ nộp thuế, xin thu thêm đầu tử tiền như các quận trong nước. Chiếu không cho phép.
[60] Tháng 9, ngày Kỷ Sửu, Thứ sử Vị Châu Phạm Nhân Dụ bị cách chức vì tội che giấu phạm nhân, giáng làm Đoàn luyện sứ Diệu Châu.
(Nhân Dụ, sử không chép rõ.)
[61] Lang trung Ngu bộ Triệu Nguyên Chấn, Thừa Quốc tử giám Cao Diên Tự khi khảo thí trai lang, đọc sách sai lệch. Ngày Giáp Ngọ, Nguyên Chấn bị giáng làm Viên ngoại lang Thương bộ, Diên Tự làm Chủ bạ Quốc tử giám.
(Nguyên Chấn, Diên Tự, sử không chép rõ.)
[62] Ngày Bính Thân, Thái tử Bộ Tài[7] cùng đoàn sứ giả đến cống nạp sản vật địa phương.
[63] Ngày Canh Tý, Hạ Châu tâu Tiết độ sứ, Thái uý kiêm Trung thư lệnh, Tây Bình vương Lý Di Hưng qua đời. Được truy tặng Thái sư, truy phong Hạ Vương. Con ông là Hành quân Tư mã Quang Duệ được cử tạm quản châu sự.
[64] Ngày Ất Tỵ, Thái tử Thiếu phó về hưu Sài Thủ Lễ qua đời. Sai Trung sứ lo việc tang lễ.
[65] Ngày Kỷ Dậu, đi săn ở vùng ngoại ô.
[66] Trước đó, sau khi bình định Thục được hàng trăm thợ dệt gấm. Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Thìn, đặt Lăng Cẩm viện để đưa họ vào làm việc, sai Thường tham quan giám sát.
[67] Ngày Quý Dậu, Phán quan Độ chi Hầu Trắc tâu: “Tam ty có 24 án, Diêm thiết phụ trách 6, Hộ bộ phụ trách 4, còn lại đều do Độ chi phụ trách. Từ khi bình định Kinh Hồ và Tây Thục, công việc càng nhiều, xin cho Tam ty cùng phụ trách 8 án.” Chiếu phái Suy quan Tam ty Trương Thuần chia sẻ việc xử lý các án của Độ chi.
(Theo ghi chép cũ.)
[68] Ngày Đinh Sửu, bổ nhiệm Khê châu đoàn luyện sứ Bành Doãn Túc làm Bộc châu đô chỉ huy sứ, Nghĩa quân chỉ huy sứ Bành Doãn Hiền làm Vệ châu đô chỉ huy sứ, Trân châu lục sự tham quân Điền Tư Hiểu làm Bác châu đô chỉ huy sứ. Bành Doãn Túc và các tù trưởng vùng núi hiểm trở, thường giữ thái độ hai mặt, nên nhân dịp họ vào triều mà điều họ vào nội địa.
[69] Tháng 11, ngày mùng một Ất Dậu, Công bộ thị lang Vô Thủ Tố bị miễn chức vì phạm tội lấy thiếp trong thời kỳ tang cha là Chiêu Duệ. Cháu trai của ông là Nhạc châu tư pháp tham quân Chính Kỉ tố cáo việc này, nên Chính Kỉ bị tước một nhiệm kỳ quan chức.
[70] Ngày Kỷ Sửu, Vua đi săn ở vùng ngoại ô, sau đó đến thăm vườn Kim Phượng. Ban cho các quan theo hầu mỗi người một con ngựa.
[71] Cung phụng quan Vũ Nhân Hối, trước làm Giám áp ở Gia Châu, vì tội giết người oan nên bị xử tử.
[72] Ngày Mậu Tuất, nhằm tiết Đông chí, Vua ngự điện Càn Nguyên nhận lễ triều yết.
[73] Ngày Quý Mão, đổi Kim Thủy huyện thành Hoài An quân.
[74] Tháng 12, ngày Bính Thìn, ban chiếu lệnh các châu thu hồi các loại tiền nhỏ, tiền xấu và tiền sắt gỉ, giới hạn trong một tháng phải nộp hết lên quan, nếu quá hạn sẽ bị trị tội nặng nhẹ tùy theo mức độ, ai dám đúc tiền riêng sẽ bị xử tử. Lúc ấy, Khai Phong phủ tâu rằng tiền mới đúc trong dân gian mỗi 10 đồng chỉ nặng 5,5 đồng, loại nhỏ nhất chỉ nặng 2,5 đồng, làm rối loạn pháp chế, không gì nghiêm trọng hơn.
[75] Lại cấm dân chúng không được bán vải lụa thô kém hay dùng phấn trộn vào thuốc, nếu quan lại bắt được sẽ trị tội nặng.
[76] Ngày Mậu Thìn, bổ nhiệm Quyền tri Hạ châu Lý Quang Duệ làm Định Nan tiết độ sứ.
[77] Ngày Kỷ Tỵ, đặt quân Kiến Ninh ở Lân Châu. Ngày Canh Ngọ, bổ nhiệm Phòng ngự sứ Dương Trọng Huân làm Lưu hậu.
[78] Thừa tướng Triệu Phổ đang để tang mẹ, đến ngày Bính Tý được khởi phục chức vụ.
[79] Ban ân xá miễn một nửa thuế hạ của 37 châu, phủ ở Tây Xuyên.
[80] Năm đó, ra lệnh cho các châu ở Xuyên, Thiểm cử các trưởng lại, thông phán kiêm nhiệm việc cầu đường. Triều đình thường sai sứ đến Tương Châu sửa chữa đường sá, mỗi năm thường từ năm đến sáu lần, mỗi sứ điều động hàng trăm dân phu. Quan lại nhân cơ hội làm việc gian trá, thường lấy bớt thuế của dân. Số người điều động không đủ, nên đường sá lại càng không được tu bổ. Tri châu, Thái tử Tân khách Biên Quang Phạm tính toán công việc, xin dùng quân châu thay cho dân, quan cấp dụng cụ để công việc không bị kéo dài, dân không bị quấy nhiễu. Vua ban chiếu khen ngợi.
- một chữ 'giả' trong câu này nguyên văn đã mất, nay dựa vào bản Tống và bản Các mà thêm vào. ↵
- chữ 'đưa' bị thiếu trong nguyên văn, căn cứ vào 'Tống hội yếu' phần Hình pháp 4-1 và 'Thông khảo' quyển 168, phần Hình pháp bổ sung ↵
- chữ 'nội' và 'tác' trong nguyên văn bị đảo lộn, căn cứ vào bản trong các thư viện và sách trên đã sửa lại ↵
- chữ 'sau' trong nguyên văn viết là 'Dịch', căn cứ vào sách trên đã sửa lại ↵
- Nguyên bản ghi sai 'tháng 2 ngày 7'. Theo 'Tống sử', quyển 1, bản kỷ Thái Tổ, và quyển 2 sách này, Triệu Quang Nghĩa nhận chức Khai Phong doãn vào tháng 7 năm Kiến Long thứ hai, nay theo bản Tống sử đính chính. ↵
- Chữ 'tử' trong 'Vũ Tài, con trai của Thuận Hóa vương' tưởng đã thiếu, căn cứ vào Tống hội yếu, thiên Phiên Di 5/10, và Tống sử, quyển 2, Thái Tổ kỷ bổ sung. Dưới đây tương tự. ↵
- Thái tử Bộ Tài: 'Bộ Tài', trong 'Tống sử' quyển 2, 'Thái Tổ kỷ' ghi tương tự, trong 'Tống hội yếu' phần 'Phiên di' mục 5 chương 10 lại ghi là 'Vũ Tài'. Xem lại phần ghi chép trong 'Tống hội yếu' và 'Tống sử', thấy tháng 7 năm Khai Bảo thứ 2, Thái tử Vũ Tài lại đến cống nạp. Nghi rằng 'Bộ Tài' chính là 'Vũ Tài'. ↵