"

III. TỐNG CHÂN TÔNG

QUYỂN 80: NĂM ĐẠI TRUNG TƯỜNG PHÙ THỨ 6 (QUÝ SỬU, 1013)

Từ tháng giêng năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 đời Chân Tông đến hết tháng 6 cùng năm.

[1] Mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý Tỵ, mùng 1, Vua ngự điện Triều Nguyên nhận triều yết.

[2] Ngày Bính Thân, người Man ở Cao Châu đến cống.

[3] Ngày Canh Tý, xuống chiếu rằng từ nay phàm việc sửa đổi hình pháp, biên phòng quân đội, thuế trà, muối, rượu, v.v., đều giao cho Trung thư và Xu mật viện tham khảo rồi thi hành, vì có người dâng thư nói rằng mệnh lệnh của hai phủ đưa ra có chỗ khác nhau.

[4] Lệnh cho Thẩm hình viện, Đại Lý tự và Tam ty xem xét định lại pháp lệnh về việc phối lưu. Sau đó, chọn ra 12 tội như phạm về trà, muối, phèn, rượu, đúc tiền riêng, chế tạo vũ khí, buôn bán hương liệu ngoại quốc, mang tiền đồng, dụ dỗ người Hán ra khỏi biên giới, quan lại ăn cắp của công, tụ tập ban đêm làm việc tà đạo, v.v.[1], đều giảm nhẹ hình phạt.

[5] Xuống chiếu: “Nghe nói Nội thị tỉnh sai quân thân sự đi khắp kinh thành để tra xét việc, nhân đó gây phiền nhiễu, từ nay cấm chỉ hẳn.”

[6] Ngày Tân Sửu, xuống chiếu rằng hai lộ Ích, Lợi năm ngoái bị thiên tai mất mùa, nên giao cho các quan chuyển vận sứ và trưởng lại ở địa phương đặc biệt quan tâm an ủi dân.

[7] Cho hoãn thuế thu năm ngoái còn thiếu của các châu Lư, Thọ, Hòa, Tứ, vì bị lụt.

[8] Ngày Ất Tỵ, người Man ngoài biên giới Quỳ Châu là Đàm Như Oản cùng 83 người đến cống.

[9] Xuống chiếu rằng từ nay bãi bỏ việc các châu quân ở các lộ dùng thuế chính để đổi lấy các vật phẩm lặt vặt.

[10] Chuyển vận sứ hai lộ Chiết Giang là Trần Nghiêu Tá tâu rằng giá gạo ở các châu Hàng, Nhuận là 60 đồng một đấu, vì Hoài, Tứ mất mùa, thương nhân buôn bán nên giá tăng, xin cấm chỉ. Vua không cho, lại lệnh mở kho bán rẻ để cứu giúp dân nghèo.

[11] Ngày Bính Ngọ, ban chiếu rằng: “Sứ thần phạm tội tham ô từ mức tội đồ trở lên, nếu đã được xét dùng đến chức vụ cũ mà bị giáng hai bậc thì thôi; phạm tội tham ô từ mức tội trượng trở lên và nguyên bị xử tội đồ trở lên, được ân xá đặc biệt mà bị cách chức, khi xét dùng đến chức vụ cũ thì chỉ giáng một bậc thôi. Dù gặp ân xá, cũng không được xét thăng tiến.” Lại ban chiếu rằng những người được xét dùng theo ân xá, nếu từng phạm tội tham ô hoặc dùng hình phạt tàn khốc gây hại đến tính mạng, thì Lưu nội tuyển phải buộc họ cam kết nếu tái phạm sẽ không bao giờ được xét dùng nữa. Trước đây, thời Thái Tông, những người bị biếm truất rồi được dùng lại, đều phải làm cam kết sửa đổi lỗi lầm để răn đe, nay lại xác định rõ điều đó.

[12] Ngày Đinh Mùi, Trung thư tâu: “Quan lại phạm tội bị đày đến các châu làm lính nha tiền, trước đây khi được ân xá chỉ được tha cho về tự do. Trong ân xá vừa rồi cho phép xét dùng lại. Nay xin những người phạm tội tham ô nặng hoặc có tình tiết nguy hại thì bổ làm tham quân các châu, còn lại bổ làm phán ty, quan lại kinh triều, mạc chức, lệnh lục, bạ uý, đều xét dùng theo thứ bậc.” Vua nghe theo.

[13] Ngày Mậu Thân, ban chiếu rằng nội thần nhận mệnh đi sứ bên ngoài mà can dự vào công việc của châu huyện, và quan lại tại chỗ không kịp thời tâu báo, đều sẽ bị trị tội. Phàm nội thần đi sứ, đều phải làm cam kết, dám tâu báo việc khác một cách bừa bãi sẽ bị xử theo quân lệnh, đó là quy chế cũ của tổ tông. (Việc làm cam kết quân lệnh, xem trong 《Giang Hưu Phục tạp chí》, nay phụ chép vào đây.) Lại ban chiếu: “Nghe nói Nội thị tỉnh sai quân sự tốt ở kinh thành đi dò xét công việc, nhân đó gây phiền nhiễu, đều phải chấm dứt.”[2]

[14] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu cho phép dân kinh thành được uống rượu trong năm ngày.

[15] Tri châu Tô Quốc Hoa tâu rằng, trong bộ có 2.273 quan lại, tăng đạo, kỳ lão đến châu dâng sớ, xin xa giá đến yết kiến Linh Tiên Quan, Vua ban chiếu dụ bảo thôi.

[16] Ngày Canh Tuất, các thắng cảnh ở các châu từng được ban sách ngự chế của triều trước, đều được khắc bia bài tụng “Thánh Văn Thần Bút” của Thái Tông do Vua soạn.

[17] Ngày Tân Hợi, tiến phong Vệ quốc trưởng công chúa làm Từ quốc, Sở quốc làm Bân quốc, Việt quốc làm Túc quốc.

[18] Ban chiếu rằng các danh hiệu tiên quan, tiên kinh nào phạm húy tên Thánh Tổ đều phải đổi.

[19] Sai trung sứ tu sửa miếu Hoài Độc ở Đường châu.

[20] Ngày Giáp Dần, Vua nói với các tể thần: “Các quan khi nhận mệnh đi nhậm chức, thường than phiền về việc đi xa bất tiện.” Hướng Mẫn Trung tâu: “Quốc gia bổ nhiệm người, đâu thể để họ tự tiện, cần phải sửa đổi.” Vua nói: “Nếu bổ nhiệm vào chỗ bất tiện, thì lòng họ không yên, lòng không yên thì sao có thể làm việc lâu dài được?” Vương Đán tâu: “Chiều theo ý nguyện của người, thực là do lòng nhân từ của bệ hạ. Trong ngoài vốn đã biết, không thể vội thay đổi.” Vua cho là phải.

[21] Ngày Đinh Tỵ, lấy Giám sát ngự sử Đường Túc làm Đề điểm hình ngục lộ Tử châu. Trước đây, Túc làm Tư lý tham quân ở Thái châu. Có người lái buôn nghỉ đêm ở quán trọ, người cùng trọ giết người rồi bỏ trốn. Sáng dậy thấy máu dính trên áo, bị bắt giam, không thể minh oan, đành nhận tội. Túc biện bạch nỗi oan cho người ấy, nhưng Tri châu sự Mã Tri Tiết thúc giục kết án, Túc kiên quyết không chịu. Vài ngày sau, quả nhiên bắt được kẻ giết người thật. Do đó, chức Quần mục phán quan[3] khuyết, có người xin cho Túc đảm nhận. Vua nói: “Trẫm đang có ý giao việc khác.” Không lâu sau bổ nhiệm chức này. Túc là người Tiền Đường.

[22] Ngày Canh Thân, đặt các chức Thục nghi, Thục dung, Thuận nghi, Thuận dung, Uyển nghi, Uyển dung, đều là chính nhất phẩm, ở trên Chiêu nghi. Lại đặt chức Tư cung lệnh, chính tứ phẩm, ở trên Thượng cung. Ghi vào lệnh. Lấy Tiệp dư họ Dương làm Uyển nghi.

[23] Chiếu cho các châu quân ở Lưỡng Chiết, các chùa miếu và nhà dân có tàng trữ tượng đồng, trong vòng hai tháng phải trình báo, giao cho nơi đó theo lệ như chuông khánh đồng, khắc tên họ của Tri châu, Thông phán, cho phép tiếp tục thờ phụng như cũ. Trước đó, Tri châu Cù Châu Tống Vi Thiện tâu rằng trong dân chúng có người giữ tượng đồng, theo pháp luật xử lý, tượng đồng đó bị tịch thu như phạm tội về đồng. Lo ngại làm tổn hại đến đạo thờ phụng, mà nhiều người bị xử phạt, nên quy định lại. (Tống Vi Thiện chưa thấy).

[24] Ngày Tân Dậu, chiếu cho Tông chính lấy sổ hoàng tộc làm Ngọc điệp nhà Tống, theo lời thỉnh cầu của Phán Tông chính Triệu Thế Trưởng và các người khác[4]. Lại sao chép một bản khác cất ở Bí các[5], để phòng khi tra cứu. (Triệu Thế Trưởng, chưa thấy).

[25] Vinh vương Nguyên Nghiễm từng tham dự yến tiệc, nói năng khá nhiều. Lại từng xin cho người của Thạch Bảo Cát mới gia nhập giáo phường biểu diễn. Khi đến dự yến tiệc ở Bắc viên, có người diễn không vừa ý, Nguyên Nghiễm liền quát mắng, định đánh đập, các quan trong cung đều không dám can ngăn. Sau đó, khi đối diện với Vua, lại xin cho người đó biểu diễn.

Vua không vui, hôm sau nói với Vương Đán rằng: “Trẫm ngày xưa cùng các vương dự yến, đâu dám như vậy. Anh em gặp nhau, cũng không nói chuyện phiếm, chỉ đọc sách viết văn, cùng nhau trao đổi. Từ khi lên ngôi, mỗi năm ban yến không quá hai ba lần, chính là lo rằng trong lúc vui vẻ, lời nói có thể sai lầm.” Vương Đán nói: “Nay nên triệu Ký thất Thôi Hộ, khuyên nhủ thân vương rằng hỉ nộ quá đáng, cần phải sửa đổi.” Hướng Mẫn Trung nói: “Bệ hạ yêu quý anh em, thân cận hiền tài, nếu có điều không đúng, ắt lấy lễ mà răn dạy, đó chính là ý sâu xa của việc giáo hóa.” Vương Đán nói: “Nghe nói Vương hiếm khi gặp gỡ thuộc hạ.”

Vua nói: “Trẫm khi ở Đông cung, thường tiếp xúc thân mật với cung liêu[6], Dương Lệ, Hình Bính ngày đêm giảng giải kinh sách, nay nên cảnh tỉnh ông ấy.”

(Sách 《Bảo Huấn》 chép việc này vào năm Tường Phù thứ 5, ban đầu không ghi tháng, nay phụ chép sau 《Hoàng Tống Ngọc Điệp》, có chỉnh sửa đôi chút.)

[26] Châu Thiệu thiếu quan giữ chức, ty Chuyển vận cử Văn Nhược Chuyết, Giám thuế châu Đàm, tạm quản việc châu. Vua cho rằng Nhược Chuyết trước đây cùng Lý Diễm mưu phản, nhờ báo tin mà được làm quan, nay lại cho cai trị dân, làm sao khuyến khích được phong tục, bèn bãi chức, dùng Sử Phương, Đô giám trú bạc châu Lễ, làm Tri châu Thiệu.

[27] Có người dâng thư nói: “Nơi võ thần làm Tri châu, Tri quân, nếu thiếu Thông phán, xin cho Ty chuyển vận tâu lên gấp, giao cho Hữu ty cử người ngay. Nếu quan được cử chưa đến, hãy tạm cử quan Kinh triều làm Tri châu, Thông phán ở nơi có đủ người.” Vua đồng ý.

[28] Tháng 2, ngày Quý Hợi mùng một, xuống chiếu rằng quân dân các lộ Quảng Nam, Phúc Kiến, Xuyên Hạp có kẻ hung ác gây họa, đều xử theo pháp luật rồi cùng gia quyến giải về kinh.

[29] Các khoản tiền tham nhũng và tiền thưởng phạt ở bốn lộ Xuyên Hạp được phép dùng tiền sắt, cứ 10 đồng tiền sắt đổi lấy 1 đồng tiền thường.

[30] Lệnh cho Khai Phong phủ từ tháng tư đến tháng tám, những người chết không cần phải khám nghiệm lại, các tháng khác vẫn theo lệ cũ.

[31] Ban thưởng cho Thái thường bác sĩ, Trung thư đường hậu quan Lưu Minh Thứ cùng các người khác tiền, dê và rượu, lệnh cho họ uống rượu trong ngày được ban yến. Khi đó, Minh Thứ và những người khác dẫn chứng theo lệ của Phó thừa chỉ Viện Xu mật trở xuống đến Pháp trực quan Đại lý tự, xin được dự yến, Vương Đán cho rằng không thể, nên đặc biệt có lệnh này.

[32] Hướng Mẫn Trung, Trần Nghiêu Tẩu, Mã Tri Tiết, Đinh Vị và những người khác tâu rằng từ nay về sau, xin mỗi người được ban một bản thơ ca do Thánh chế. Vua đồng ý. Trước đây, mỗi lần ban chỉ đến người đứng đầu, nên Mẫn Trung và những người khác mới có lời thỉnh cầu này.

[33] Ngày Giáp Tý, chiếu rằng từ nay những người phạm tội đã được xét dùng nhưng chưa khôi phục chức tước, nếu gặp ân xá mà tình tiết nhẹ thì được xét dùng ngay.

[34] Ngày Bính Dần, triệu tập tông thất và các quan lại gần gũi đến điện Tư Phúc để xem bức tranh Thánh tổ giáng lâm cùng các chân nhân đứng hầu, sau đó lại bày ở điện Hàm Quang để cho trăm quan xem.

[35] Ngày Mậu Thìn, Vua ngự ở lầu Càn Nguyên xem yến, từ đó kéo dài năm ngày.

[36] Ngày Tân Mùi, người Man ở Quỳ Châu là Bành Diên Xiêm cùng 48 người đến cống.

[37] Ngày Giáp Tuất, chiếu rằng các quan văn võ phạm tội tư, nếu được xét xử theo lệ ân xá, thì sau khi Hình bộ xem xét xong, Trung thư và Xu mật viện sẽ căn cứ vào mức độ nặng nhẹ của tội mà xin chỉ dụ.

[38] Chiếu khen ngợi Tri phủ Hà Nam Phùng Chửng và những người khác vì đã làm cho nhà ngục trống không.

[39] Công Tôn Giản, nguyên là Quan sát suy quan ở Tuyền Châu, giám sát trường trà, khi về kinh được dẫn vào điện để đối đáp. Vua xem qua bài phán từ của ông, thấy quá kém, chỉ lệnh cho thăng một bậc. Giản tự nhận là có công, xin đổi sang chức kinh. Vua lệnh đưa bài phán từ cho ông xem, tả hữu hô lệnh lui ra, Giản càng tỏ ra giận dữ. Chiếu giao cho Ngự sử tra hỏi, sau đó giáng làm Văn học Phòng Châu.

[40] Ngày Ất Hợi, châu Thái tâu rằng ở huyện Hải Lăng, trong đám cỏ hồ đầm có sinh ra thứ gạo thánh, giúp ích nhiều cho dân đói.

[41] Ngày Ất Dậu, xuống chiếu rằng: “Từ nay các chú tiểu trong chùa viện, phải do quan lại địa phương khảo hạch kinh nghiệp, bắt sư trụ trì bảo đảm về hạnh kiểm, mới được xuống tóc. Nếu việc khảo hạch không công bằng[7], hoặc sư trụ trì bảo đảm không đúng sự thật, đều trị tội nặng.” Trước đây, hàng năm cho phép chú tiểu xuống tóc, toàn là những kẻ lười nhác, không chịu học kinh giới, đến nỗi có kẻ làm giặc cướp, phạm tội rất nhiều. Vì thế mới đặt ra điều ước này.

[42] Ngày Tân Mão, Phó bố trí Hoàn Khánh là Vương Thủ Bân ở Chân Định tâu rằng, theo chiếu lệnh giảm bớt quân đồn trú, số quân mới điều từ kinh đô đến, đã lệnh cho đóng ở Vĩnh Hưng quân[8] và các nơi khác. Vua nói: “Việc lợi hại ở biên cương, tùy thuộc vào tài năng của tướng soái. Thủ Bân biết thể theo ý chỉ triều đình, giảm bớt chi phí biên phòng, cũng đáng khen.”

[43] Tháng 3, ngày Nhâm Thìn mùng một, quận chúa Nghi Xuân là Cao thị tâu rằng, được ơn ban cho vườn rau phía tây thành, xin miễn thuế thường. Vua nói: “Thuế má là để phòng việc quân, nếu miễn đi, thì sau này nhiều người sẽ xin theo lệ.” Không cho.

[44] Ngày Đinh Dậu, xuống chiếu rằng những người làm lễ tế tự, đều phải vào sớm để trai giới. Trước đây, trong lễ tế Tiên Tàm, Thái chúc Phùng Kinh bị Giám tế sứ hặc tội, nên mới ra lệnh này.

[45] Chuyển vận sứ Hà Bắc là Hữu gián nghị đại phu Lư Diễm bị bệnh. Diễm làm việc chăm chỉ, đi đến đâu cũng nổi tiếng là người có tài, Vua sai trung sứ đưa thái y đến thăm. Khi ông mất, Vua rất thương tiếc. Lúc đó mẹ Diễm đã hơn 80 tuổi, vẫn khỏe mạnh.

Có chiếu cho con trai Diễm là Thái thường bác sĩ Sĩ Tông được đặc cách bổ nhiệm làm Tri châu Hoài, con thứ là Bí thư thừa Sĩ Luân làm Thái thường bác sĩ, được hưởng bổng lộc cho đến hết tang.

[46] Ngày Kỷ Hợi, các quan ở Cáp môn tâu rằng trong buổi yến tiệc thưởng hoa ở hậu uyển, có một số quan lại tỏ ra lơ là lễ nghi. Vua nói: “Cho uống rượu mà bắt họ giữ đủ lễ, cũng là điều khó. Nên hạ chiếu khuyên răn họ.”

[47] Long Đồ các đãi chế Trương Tri Bạch vì bệnh nên cố xin ra ngoài làm quan. Ngày Giáp Thìn, Vua sai ông làm Tri Thanh châu.

[48] Vua làm bài 《Nội thị châm》 ban cho Diêm Thừa Hàn. Thừa Hàn dâng biểu xin khắc vào bia đá ở bản tỉnh, Vua đồng ý.

[49] Ngày Đinh Mùi, ra chiếu rằng tội nhân ở đảo Sa Môn, trừ những người được ân xá phải về kinh, còn lại tùy theo tội nặng nhẹ mà dời đến gần đất liền.

[50] Ra chiếu rằng việc tuần tra trong kinh thành nên dùng cả quân bộ và quân kỵ. Khi ấy có ba tên lính tuần tra nhân ngày lễ Hàn thực đem quân trang đi cầm cố để đánh bạc, vì thua nên bàn nhau đợi đến canh năm chưa sáng để đánh người đi đường, vứt xác xuống sông, lấy quần áo đem bán để chuộc đồ cầm. Vua nói: “Đời Thái Tông, việc tuần tra dùng cả quân bộ và quân kỵ, vì doanh và hiệu khác nhau, có thể giám sát lẫn nhau.” Bèn khôi phục lại chế độ ấy.

[51] Ngày Mậu Thân, lấy Chủ khách viên ngoại lang, Trực sử quán, Phán tam ty đô ma khám ty Dương Ngu làm Giám đạo điền vụ ở Nhữ Châu[9]. Ngu dùng luật nặng xét lại thuộc hạ, thuộc hạ tố cáo Ngu từng tư ý sai khiến công nhân, theo luật phải cách chức, nhưng Vua đặc cách khoan hồng, còn người tố cáo thì bị đánh trượng và cách chức.

[52] Quyền Tri Khai Phong phủ Lưu Tống tâu rằng có những người quyền quý kết thân với nhà giàu, vì họ mà xin xỏ, hoặc giả làm thân thuộc[10], tâu xin chức tước, nhân đó yết kiến quan lại, làm rối việc công, xin ngăn cấm. Ngày Canh Tuất, hạ chiếu răn đe, bảo họ tự sửa mình, từ nay ai còn tái phạm sẽ bị trị tội nặng.

[53] Lại ra chiếu rằng những nhà giàu được làm quan hàm thí, không được tiếp kiến quan lại châu huyện và sứ thần, trừ những người từng ứng cử hoặc thuộc dòng dõi quan lại.

[54] Ngày Tân Hợi, ra chiếu rằng mỗi mùa đông vào ngày lễ Hàn thực, chỉ cho phép dân chúng đánh bạc, còn lính cấm vệ nếu phạm tội, quan lại cũng thường tha bổng, thật là vô lý, từ nay không được làm như vậy nữa.

[55] Ngày Nhâm Tý, người man ở Quỳ Châu là Cung Tài Hoảng đến cống.

[56] Ngày Quý Sửu, tiến sĩ Ngụy Cương bị xử phạt đày đến Nhai Châu, Chu Duy Hàn bị đuổi khỏi trường thi, Đại Lý tự thừa Ngụy Quán bị cách chức, huyện lệnh Yển Thành là Trương Miễn bị thay thế. Cương và Duy Hàn vốn có hiềm khích, nên vu cáo Duy Hàn phỉ báng thiên thư, nhưng khi tra xét thì không có bằng chứng; Quán bị liên đới vì đã mời Cương và Duy Hàn đến nhà; Miễn là người thân cận của Quán, lại che giấu Cương, nên cùng bị trách phạt. Quán là con của Ngụy Vũ, từng làm Tham quân Thương tào phủ Khai Phong[11], nhân dịp Thượng Nguyên cùng nội thị đốc thúc làm núi đèn, nhưng nội thị tham lam quấy nhiễu dân, Quán bí mật tâu lên, chiếu chỉ đánh trượng nội thị tại sảnh đường.

(Việc phỉ báng thiên thư, theo bản truyện của Quán, nhưng bản truyện lại nói Cương phỉ báng thiên thư, đó là sai. Trương Miễn, người Phố Thành, theo bia mộ do Lưu Xưởng soạn. Đây là một Trương Miễn khác.)

[57] Ngày Giáp Dần, Hồ Tắc, Đề điểm ngân đồng duyên tích Giang Nam lộ, tâu rằng huyện Duyên Sơn, châu Tín mở cửa khe mỏ, binh lính chết và bị thương rất nhiều. Chiếu sai sứ điều tra việc Chuyển vận ty quy hoạch sai lầm và Đề điểm hình ngục ty không kịp thời tâu lên, đồng thời cho những người làm việc được nghỉ ngơi. Tắc từng làm Giám đúc tiền, phát hiện lại dịch giấu mấy vạn cân đồng, lại dịch sợ hãi đến chết, Tắc nói: “Mã Phục Ba thương xót tù nhân nặng mà thả họ chạy trốn, lẽ nào ta lại coi trọng của cải mà xem nhẹ mạng sống của nhiều người?” Liền ghi vào sổ làm của dư, tha không xử tử.

[58] Ngày Ất Mão, quân Kiến An đúc tượng Ngọc Hoàng, Thánh Tổ, Thái Tổ, Thái Tông xong, lấy Tu lý Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung sứ Đinh Vị làm Nghênh phụng sứ[12], Tu cung phó sứ Lý Tông Ngạc làm phó; Bắc tác phường sứ, Đô đại phát vận sứ Hoài Nam Giang Chiết Kinh Hồ là Lý Phổ làm Đô giám. Ngày Bính Thìn, thăng Phổ làm Thứ sử châu Thuận, để khen ngợi sự chăm chỉ trong việc đúc tượng.

[59] Ngày Mậu Ngọ, ban chiếu rằng: “Gần đây, các châu xử án tử hình từ năm người trở lên, phải giao cho Ty Chuyển vận và Ty Đề điểm hình ngục ghi chép, thẩm vấn xong mới được quyết định, vì thế có nhiều việc bị đình trệ. Từ nay, cho phép các quan chức không liên quan hoặc sứ thần Tam Ban tại địa phương thẩm vấn.”

[60] Lý Hi Cập, chức Tẩu mã thừa thụ ở Hoàn Khánh lộ, tâu rằng các bộ lạc nhỏ ven biên thỉnh thoảng cho người cưỡi ngựa cướp bóc dân thục hộ. Vua nói rằng đây cũng là do các quan biên giới thiếu uy tín, rồi bảo Vương Đán rằng: “Các quan biên giới xử lý việc thường không thích hợp. Nói chung, nếu có thể bắt giặc thì nên quyết đoán, dùng mưu kỳ lạ; nếu không, tốt nhất là giữ yên tĩnh. Chỉ có Tào Vĩ là có phương lược, từng nói rằng tình cảm của người Phiên, Nhung nửa thật nửa giả, chỉ cần dò xét kẻ thật lòng, đối đãi chân thành. Kẻ gian trá cũng đối đãi tử tế nhưng bí mật phòng bị, chúng sẽ nghĩ rằng ta không nghi ngờ chúng. Nếu chúng xâm phạm, ắt sẽ đánh úp khi chúng không đề phòng.”

[61] Ngày Kỷ Mùi, ban chiếu rằng các trường vụ, bến đò, mỏ ở hai kinh và các lộ không được để người thuộc dòng dõi quan lại nắm giữ. Trước đó, dân huyện Trần Lưu là Điền Dụng Chi và Lô Chiêu Nhất tranh giành việc quản lý tửu vụ. Cha của Dụng Chi đang giữ chức Mạc chức, còn Chiêu Nhất là Thí trật, nên mới có điều ước này.

(Ghi lại sự việc này, có thể bỏ, cần kiểm tra lại.)

[62] Tháng 4 mùa hạ, ngày Giáp Tý, Tam ty định ra quy chế thưởng phạt cho quan giám mua trà. Phàm mua được trà nhập toán và đạt hạn mức thuế, hàng năm giao đủ cho Tước vụ mà còn dư thì được tính là thành tích. Trà không nhập toán, dù nhiều cũng không tính.

[63] Ngày Bính Dần, ban chiếu rằng các quan văn võ bảo lãnh cháu, chắt không được tùy tiện gọi là con.

[64] Ngày Kỷ Tỵ, miễn thuế vỏ ốc, vỏ trai ở châu Quỳnh.

[65] Ngày Canh Ngọ, Trương Trọng Văn, chức Thừa thụ, Thị cấm ở Lợi Châu lộ, bị giáng một bậc, đi tuần tra các trạm dịch ngoại châu. Trước đó, Trọng Văn tâu rằng Hoàng Phủ Tải, tân Tri châu Bành Châu, không xứng chức. Vua sai Ty Chuyển vận và Ty Đề điểm hình ngục ở bản lộ điều tra, đều tâu rằng Tải rất chăm chỉ. Vua bèn sai Xu mật viện triệu Trọng Văn đến tra hỏi, ông ta thú nhận là bịa đặt. Vì thế mới có hình phạt này.

[66] Chiếu rằng: Hùng, Bá châu điều động hương đinh làm quân Trung Thuận chỉ huy, đóng quân ở bờ sông, đã lâu ngày, nên đặc cách thăng chuyển. Lại chiếu bổ sung số quân thiếu, để đủ số như cũ. Quân Trung Thuận ở Hà Bắc, từ thời Thái Tông lấy gia đinh ở các châu Doanh, Mạc, Hùng, Bá và quân Bảo Định ở Càn Ninh, Thuận An, tổng cộng ba nghìn người. Từ sông Đào đến cửa biển Nê Cô dài chín trăm dặm, đặt hai mươi sáu trại, một trăm hai mươi sáu phố[13], dọc sông Giới chia phiên tuần tra, thuộc Ty Tuần kiểm Chiến trác Duyên biên. Từ tháng mười, tất cả lên trực, mỗi người cấp hai thăng lương, đến tháng hai thì luân phiên một nửa về làm ruộng[14].

(Có thể tra cứu các năm Khánh Lịch thứ 7, 8 và Hoàng Hựu thứ 4.)

[67] Ngày Mậu Dần, Viên ngoại lang Hình bộ, kiêm Tri tạp Ngự sử Đoàn Diệp tâu: “Các quan ngoại nhiệm khi mãn hạn, nhiều người lấy cớ đốt vàng, thăm nhà, dâng tấu không đợi phê chuẩn đã bỏ đi, có người mấy tháng không đến triều. Xin từ nay, ai xin nghỉ nửa tháng thì cho đi, quá nửa tháng phải tâu xin quyết định.” Theo lời tâu.

(《Thực lục》 và bản chí đều chép như vậy, riêng 《Kỷ》 chép chiếu cho phép quan ngoại nhiệm khi hết nhiệm được về thăm nhà, thăm mộ, có lẽ hơi khác. Nên tra cứu thêm.)

[68] Ngày Kỷ Mão, ban ra tập 《Du Nghệ》 của Thái Tông cùng các bản nhạc do ngài tự soạn, phổ đàn chín dây và đàn nguyệt năm dây, giao cho Sử quan và Thái Lạc thự.

[69] Ngày Canh Thìn, lấy Xu mật trực học sĩ, Cấp sự trung Lý Sĩ Hoành làm Hà Bắc đô chuyển vận sứ. Trước đó, Vua nói: “Có người bàn rằng Sĩ Hoành dùng 50 vạn quan tiền của Hà Bắc để giúp việc đông phong, khiến trong địa hạt thiếu thốn.” Đinh Vị nói: “Sĩ Hoành cống tiền mặt cho việc đông phong chỉ hơn 10 vạn, còn lại là các khoản chi khác tổng cộng 50 vạn mà thôi.” Vua nói: “Quan lại khó khăn trong việc kinh lý, thường lấy cớ này để từ chối, nên lại bổ nhiệm Sĩ Hoành, giao trách nhiệm hoàn thành công việc, để ngăn chặn lời bàn tán.” Vì thế có mệnh lệnh này. Sau đó, tích trữ lương thực ở biên giới, lên đến hàng vạn hộc. Có người nói lương thực bị mục không thể ăn được, triều đình sai sứ đến xem xét, thì lương thực không hề mục.

[70] Xuống chiếu cho các châu Hoài Nam cấp cháo cho dân đói, đợi đến khi lúa mạch chín mới thôi.

[71] Phán Đại Lý tự Vương Tăng tâu rằng, từ khi biên soạn sắc lệnh năm Hàm Bình, tiếp tục ban hành hơn 1.100 đạo sắc lệnh, cùng các văn bản tạp hành khác hơn 3.600 đạo, điều khoản quá nhiều, việc kiểm tra rất khó khăn, xin sai quan san định. Vua bèn xuống chiếu cho Vương Tăng cùng Hàn Lâm học sĩ Trần Bành Niên cùng nhau xem xét, định lại.

[72] Ngày Nhâm Ngọ, các cơ quan xin mở cửa Vọng Xuân môn, Vua cho rằng công trình cung điện chưa xong, bèn bãi bỏ.

[73] Ngày Bính Tuất, xuống chiếu cho các châu, những án tử hình có tình tiết đáng thương hoặc hình phạt còn nghi ngờ, phải báo lên Ty đề điểm hình ngục xem xét kỹ rồi tâu lên, sẽ giao cho Đại Lý tự xét lại, không được né tránh, bác bỏ, để tránh oan uổng.

[74] Vua đến thăm Ngũ Nhạc quan mới tu sửa, ban thưởng cho quan lại đồ dùng, tiền tệ, thợ thuyền tiền lụa có khác nhau.

[75] Ngày Đinh Hợi, xuống chiếu cho các châu huyện mà thánh tượng đi qua, quan lại đều được ban yến tiệc.

[76] Tháng này, xuống chiếu cấm các sương trấn không được tự ý đặt ra hình phạt. Đầu niên hiệu Chí Đạo, đã cấm các tướng trấn, hiệu sương không được tự tiện xử kiện, đánh đập người. Đến nay, hiệu sương Dĩnh Châu là Trương Khuê bắt người bán trâu làm kẻ trộm, đánh chết, Hình bộ xin nhắc lại chế độ trước.

[77] Chiếu rằng các quan kinh triều, chư ty sứ phó, tam ban sứ thần được sai đi công tác ngoài kinh, giấy thông hành dọc đường, khi về nộp lại ở cửa cáp, giao cho Tam ty kiểm tra, nếu có kẻ đi đường vòng, lặp lại, hoặc nhận lầm vật của quan, thì ghi tên tâu lên.

(Việc tháng tư trong 《Hội yếu》.)

[78] Chiếu rằng Viện Lương liệu lập sổ ghi chép tiền lương ứng trước cho các chức mạc phủ, quan châu huyện, sau khi nhận xong thì đóng dấu. Trước đây, Độ chi phán quan Tổ Sĩ Hoành tâu rằng: “Sau khi bổ nhiệm quan xong, ty Cách thức của Lại bộ gửi văn thư đến Tam ty xin ứng trước tiền lương, Tam ty giao cho Viện Lương liệu thi hành, có người chờ mãi không được mà phải đi nhậm chức, chưa từng báo cáo, hoặc có kẻ lợi dụng để gian lận, xin lập sổ để quản lý, quá trăm ngày mà không nhận thì cấp ở chức mới.”

(Việc ngày 13 tháng 4 trong 《Hội yếu》, nay phụ vào cuối tháng, có thể bỏ đi.)

[79] Tháng 5, ngày Tân Mão mùng một, Vua ngự điện Sùng Chính, thân xét tù nhân, tội lưu đày trở xuống giảm một bậc.

[80] Ngày Nhâm Thìn, chiếu rằng các quan kỹ thuật [15] chưa lên triều mà được đặc cách ban áo tía, đỏ thì không được đeo thẻ bài cá.

[81] Chiếu tạm ngừng thi khoa cử năm nay.

[82] Ngày Quý Tỵ, quyền Tri Khai Phong phủ Lưu Tống tâu: “Phủ này xét tội, nếu có điều gì nghi ngờ về hình phạt, theo lệ cũ thì cử Pháp tào tham quân đến Đại Lý tự hỏi, rồi cân nhắc thi hành. Gần đây chỉ gửi văn thư qua lại, thường bị chậm trễ, xin theo lệ cũ.” Vua đồng ý.

[83] Ngày Tân Sửu, ở tòa Ngự thư các mới tu sửa tại Quốc Tử Giám có ánh sáng đỏ chiếu lên cao, dài khoảng một thước. Phán giám Tôn Thích báo việc này lên.

(Tôn Thích nhiều lần dâng sớ can ngăn việc tường thụy[16], nhưng lần này lại làm như vậy, không rõ nguyên do.

Theo sách 《Giáng Thánh Ký》, tháng 5 ngày Nhâm Dần, Vương Đán tâu rằng từ ngày mồng 8 đến ngày 12, trên thuyền thánh tượng có chim hạc bay lượn, Hướng Mẫn Trung và các quan dâng biểu chúc mừng.

Còn Quốc Tử Giám tâu rằng đêm ngày 11 tháng này, các quan tế cáo là Công bộ Lang trung, Trực sử quán Cao Thân, Phụng lễ lang Tiền Ái[17], cùng Thuyết thư quan là cựu huyện lệnh huyện An Đức, châu Đức[18] là Hoạt Văn Diễn, cùng thấy ở góc đông bắc tòa Ngự thư các mới tu sửa, trên hai cây cột có ánh sáng dài khoảng một trượng, đến đêm thứ hai, giờ Tý mới tan.

Các quan đều xin ghi chép việc này vào sử quán, chiếu theo lời xin.

Ban đầu không có tên Tôn Thích, nhưng trong thực lục lại ghi như vậy. Cần xem xét thêm.)

[84] Trước đó, Đinh Vị cùng những người khác từ quân Kiến An phụng nghênh tượng Ngọc Hoàng, Thánh Tổ, Thái Tổ, Thái Tông, mỗi tượng đều được đặt trên một chiếc thuyền lớn. Các quan đón rước chia nhau hầu hạ tượng Ngọc Hoàng và Thánh Tổ, còn đô giám thì kiểm tra thuyền của Thái Tổ và Thái Tông. Trên thuyền đều dựng điện có màn che, do các thái giám lo việc cung ứng. Hai bên bờ có 2.500 người cầm cờ hiệu màu vàng, 300 người thổi kèn trống.

Có thêm 10 chiếc thuyền khác chở cờ hiệu[19], áo xanh, cung tên, giáo mác, đạo sĩ, cờ phướn. Khi đi qua các châu huyện, các đạo sĩ tán tụng, kèn trống vang lên, quan lại ra khỏi thành 10 dặm để đón, bày biện nghi thức và âm nhạc của đạo Phật và đạo Lão để đón rước. Những nơi đi qua cấm giết mổ trong 7 ngày, ngừng thi hành án trong 2 ngày.

Sai Đại lễ sứ đón rước là Vương Đán đến phủ Ứng Thiên dâng lễ, tấu lời thanh từ, tông thất đến dịch trạm cũ, quần thần đến cửa Thông Tân để đón.

Trước đó, ở phía bắc cầu Thăng của kinh thành đã dựng điện có màn che, nơi nghỉ ngơi lớn và dàn nhạc cung đình.

Ngày Giáp Thìn, tượng thánh đến, Vua trai giới ở điện Trường Xuân, bách quan trai giới ở triều đường.

Ngày Ất Tỵ, Vua mặc áo cổn miện làm lễ triều bái, quần thần mặc triều phục, bày ngọc lụa, sách văn dâng lễ. Chuẩn bị nghi trượng đại giá, từ phía đông cung thành ra cửa Cảnh Long đến cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, năm vị sứ đại lễ dẫn đầu, chở tượng trên xe bình bàn, trên xe có trang trí lọng hoa vàng, đặt tên là “Nghênh Chân”, “Nghênh Thánh”, “Phụng Thánh”, “Phụng Thần”. Mỗi xe có hai thái giám hầu hai bên, màu dây cương và ngựa[20], tượng Ngọc Hoàng và Thánh Tổ dùng màu vàng, tượng Thái Tổ và Thái Tông dùng màu đỏ. Vua chuẩn bị xe loan giá, trước tiên từ phía tây cung thành ra cửa Thiên Ba, đến cửa cung làm lễ vọng bái, tạm thời dựng điện có màn che để an vị, chọn ngày lành đưa lên điện.

Ngày Bính Ngọ, quần thần chúc mừng, ân xá cho tù nhân trong kinh thành, quân Kiến An, châu Dương, quân Cao Bưu, các châu Sở, Tứ, Túc, Bạc, tội tử hình giảm một bậc, tội lưu đày trở xuống được tha.

Thăng quân Kiến An lên làm châu Chân, nơi đúc tượng thánh, đặc biệt xây dựng làm đạo quán Nghi Chân. Châu Chân miễn giảm 3/10 thuế hạ, 2/10 thuế nhà. Các châu quân mà tượng thánh đi qua được miễn giảm 1/10 thuế hạ. Những nơi bị thiên tai ở Hoài Nam, thuế thu năm ngoái đều được miễn.

[85] Ngày Kỷ Dậu, ban chiếu rằng từ nay không được mang đồ ăn mặn vào cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, nếu có yến tiệc thì tổ chức ở nơi khác.

[86] Ban thưởng vàng bạc cho các quan đón rước tượng thánh và các quan lo việc hành lễ, tùy theo cấp bậc.

[87] Ngày Tân Hợi, thăng Chân Châu lên làm thượng châu, mỗi tháng cấp rượu và tiền công dụng như lệ của Tứ Châu. Chiếu rằng các châu ở Hoài Nam, những thợ dân phục vụ cho cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng, mỗi tháng cấp cho gia đình họ một thạch gạo.

[88] Đinh Vị xin dùng viện của Thái tử Cung Hiếu và Ngụy Ý Vương để mở rộng xây dựng cung Cảnh Linh, được chấp thuận.

[89] Ngày Giáp Dần, sửa chữa trạm Hoài Viễn làm Nam Trạch, ban cho các cháu của hoàng tộc là Duy Chính (con trưởng của Đức Chiêu) và những người khác.

[90] Ngày Ất Mão, đến cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng bái yết tượng thánh.

[91] Độ chi viên ngoại lang Trần Thế Khanh bị bãi chức Kinh Hồ Bắc Lộ chuyển vận sứ, về triều, nhiều lần trình bày về lợi hại của vùng Khê Động. Vua triệu vào hỏi, rất trọng tài năng của ông. Ông lại xin được phục vụ ở nơi nhiều việc. Khi ấy, Tri Quảng Châu Thiệu Diệp bệnh nặng, triều đình bàn chọn người thay thế. Ngày Bính Thìn, bổ nhiệm Thế Khanh làm Bí thư thiếu giám, Tri Quảng Châu, ban áo tía. Thế Khanh đến châu, tâu xin bỏ chế độ mua muối tính theo đầu người, dân chúng rất thuận tiện.

[92] Ngày Đinh Tỵ, vì tượng thánh đến kinh, sai Tri chế cáo Lộ Chấn, Long đồ các đãi chế Tra Đạo đến tâu cáo ở các lăng.

[93] Ngày Kỷ Mùi, Hàn lâm học sĩ, Hữu gián nghị đại phu, Tri chế cáo Lý Tông Ngạc mất. Vua rất thương tiếc, nói với tể tướng: “Trong các gia đình tướng tướng triều ta, chỉ có Lý Phưởng và Tào Bân là giữ được danh tiếng, không làm hổ thẹn gia môn. Tông Ngạc vừa được trọng dụng, không may mệnh ngắn, thật đáng tiếc.” Bèn ban nhiều của cải cho gia đình ông. Con trai ông là Chiêu Duật, Chiêu Thuật và em trai là Tông Lượng đều được thăng chức. Khi cung Ngọc Thanh Chiêu Ứng hoàn thành, lại ghi tên con nhỏ của ông, và cấp lương cho đến khi mãn tang.

Tông Ngạc phong lưu nho nhã, có sự uyên bác, đức hạnh trong nhà thuần hậu, phụng dưỡng mẹ kế nổi tiếng hiếu thảo. Hai người anh mất sớm, ông phụng dưỡng chị dâu và nuôi dạy các cháu, trong nhà không phân biệt cha con, khi được ban thưởng, ông đều ưu tiên cho họ hàng trước, đến khi mất mà con mình vẫn chưa được làm quan. Ông yêu mến người hiền, khuyến khích việc thiện, tiến cử người nghèo khó, được sĩ đại phu kính trọng.

(Sách 《Ký văn》 chép Vương Đán tiến cử Tông Ngạc tham chính, đã ghi chép vào tháng 9 năm thứ 5. Giang Hưu Phục nói rằng Vương Khâm Nhược khuyên Vương Đán xin ban thưởng hậu hĩnh cho gia đình Tông Ngạc, Vua nói: “Tông Ngạc còn nợ khanh nhiều.” Vương Đán biết mình bị Vương Khâm Nhược lừa, từ đó buồn bã đến khi qua đời. Xét tháng 9 năm Thiên Hi thứ nhất Vương Đán mới mất, cách sự việc này còn 5 năm, có lẽ Giang Hưu Phục nhầm. Nếu nói Vương Khâm Nhược vì việc Ngô Thực mà buồn bã đến chết thì có thể, còn Vương Đán chắc chắn không như vậy. Nay không chép.)

[94] Chiếu cho Tam ban viện từ nay khi dẫn kiến và bổ nhiệm sứ thần, nếu có người bệnh tật, phải kê khai rõ ràng trong hồ sơ để trình lên. Trước đây, khi tuyển chọn sứ thần, đến ngày dẫn kiến mới phát hiện có người mù què, nên ban chiếu này.

[95] Chiếu rằng: “Các sứ thần nhận việc ở các châu lộ, nhiều người vượt quyền và nhận hối lộ, khi sự việc bại lộ bị hặc tội, đều nói rằng đã từng diện tấu, nhân đó sinh ra gian lận. Từ nay, mọi việc cần tâu, phải viết rõ trong tờ tấu trình lên, không được tùy tiện kể miệng.”

(Việc cuối tháng 5.)

[96] Tháng 6, ngày Giáp Tý, Giám sát ngự sử Trương Khuếch tâu rằng: “Trong thiên hạ có nhiều đất bỏ hoang, xin theo lời tấu của Vũ Văn Dung đời Đường, sai quan đi kiểm tra và đo đạc ruộng đất.”

Vua nói: “Việc này chưa thể làm ngay được. Nhưng hiện nay thuế má trong thiên hạ không đều, người giàu đất rộng mà thuế nhẹ, người nghèo đất hẹp mà thuế nặng, do đó người giàu càng giàu, người nghèo càng nghèo, đó là một tệ nạn lớn.”

Vương Đán và các quan nói: “Thuế ruộng không đều, đúng như lời thánh chỉ. Nhưng pháp lệnh sửa đổi cũng cần phải thực hiện từ từ. Hoặc sai các quan cận thần chuyên trách, giao cho họ chọn người, bắt đầu từ một châu một huyện mà quy định, thì dân không bị quấy nhiễu mà công việc chắc chắn sẽ hoàn thành.”[21].

(Trương Khuếch, không rõ lai lịch.)

[97] Châu Triệu tâu rằng: “Thuyền đá chở tượng thánh đi qua cầu đá của châu, nước sông cạn và chảy xiết, có con rồng đen vẫy sóng đẩy thuyền đi, trải qua ba ghềnh. Thuyền qua rồi, nước sông lại cạn và chảy xiết như cũ.” Vua sai quan đến làm lễ tế.

[98] Vua ra chiếu cho các Tể tướng, Tham tri chính sự, Xu mật sứ và Xu mật phó sứ vẫn được dùng lọng mát như trước. Trước đó, các quan định ra nghi thức, chỉ có tông thất được dùng, còn các quan phụ tá đều bỏ, nên có lệnh đặc biệt này.

[99] Ngày Ất Sửu, lệnh cho châu Hoàn bảo vệ số vật liệu xây thành còn thừa, để dùng sửa chữa doanh trại, từ nay không được bắt dân đóng góp. Vua cho rằng châu này ở biên giới xa xôi, không có gỗ, mỗi khi cần dùng đều phải lấy từ trong nội địa, vượt qua chướng ngại hiểm trở, việc vận chuyển rất khó khăn.

[100] Ngày Đinh Mão, Ty chuyển vận lộ Quỳ châu tâu rằng, người Tây Nam Di sai hơn hai trăm người đến kinh đô dâng cống, Vua ra chiếu cho phép các chức nha lại đến kinh, còn lại lệnh đem đồ cống nộp ở châu Kiềm, rồi gia ân ban thưởng.

[101] Ngày Mậu Thìn, Vua đến chùa Khai Bảo, lễ tháp Xá Lợi, ban tên là Linh Cảm, để ghi nhận điềm lành.

[102] Ngày Kỷ Tỵ, lầu Ngự thư của Quốc Tử Giám dựng xà, Vua sai các quan cận thần đến xem và tổ chức tiệc, Vua làm bài thơ thất ngôn ban cho.

[103] Hàn lâm học sĩ, Hộ bộ lang trung, Tri chế cáo Dương Ức từng soạn thư trả lời Khiết Đan, có câu “lân nhưỡng giao hoan” (láng giềng giao hảo), Vua tự chú thích bên cạnh, viết các chữ “hủ nhưỡng” (đất mục nát), “thử nhưỡng” (đất chuột), “phẩn nhưỡng” (đất phân), Dương Ức vội sửa thành “lân cảnh”[22]. Hôm sau, ông dẫn chuyện cũ đời Đường, cho rằng học sĩ soạn chiếu mà bị sửa là không xứng chức, liền xin từ chức, Vua an ủi ông.

Một hôm khác, Vua nói với các đại thần: “Dương Ức thật có khí tiết, không biết thương lượng.” Khi bàn việc lập hoàng hậu, Vua muốn Dương Ức soạn chiếu, sai Đinh Vị truyền chỉ, Dương Ức từ chối. Ông xin về quê ba đời, Đinh Vị nói: “Đại Niên hãy cố gắng làm việc này, không lo không giàu sang.” Dương Ức đáp: “Giàu sang như thế cũng không phải là điều tôi mong muốn.” Vua bèn sai học sĩ khác soạn chiếu.

(Sách tạp chí của Giang Hưu Phục chép rằng Vua đổi mệnh cho Trần Tòng Dịch. Xét rằng Tòng Dịch lúc đó đang giữ chức quán chức, không nên soạn chiếu. Thơ Tư hiền của Hoàng Đình Kiên chép “đổi mệnh cho Trần Bành Niên”. Xét rằng Bành Niên lúc đó cũng chưa vào Hàn lâm, hoặc được chỉ đặc biệt soạn riêng, như trường hợp Trương Tề Hiền phong chức với Hoàng Di Giản, Tăng Trí Nghiêu, thì không thể biết được. Tuy nhiên, tên mà Giang, Hoàng[23]ghi chép, ắt có một chỗ sai, nay chỉ ghi là đổi mệnh cho học sĩ khác soạn chiếu. Cần xem xét kỹ hơn, nếu có đủ văn tập của người đương thời để tra cứu, cũng có thể suy ra tên người đó.)

Dương Ức tuy nhiều lần trái ý Vua, nhưng ân sủng vẫn không suy giảm. Vương Khâm Nhược, Trần Bành Niên rất ghét ông, càng thêm gièm pha, khiến ý Vua dần lạnh nhạt. Một lần, Dương Ức đang ở trong cung, bỗng được triệu vào cấm cung, sau khi yết kiến, được ban ngồi, Vua hỏi han nhẹ nhàng, rồi từ từ lấy ra mấy hòm văn thảo cho Dương Ức xem, nói: “Khanh có nhận ra chữ của Trẫm không? Đây đều là Trẫm tự soạn, chưa từng sai người khác thay viết.” Dương Ức hoảng sợ không biết trả lời thế nào, vội cúi đầu lạy tạ rồi lui ra, biết rằng lời gièm pha đã có hiệu lực, liền tính kế rút lui.

Dương Ức có nhà riêng ở Dương Trạch, mẹ Ức đến thăm, bỗng nhiên bị bệnh, Ức bèn để lại tờ khai báo bệnh với viên lại coi việc văn thư, nửa đêm bỏ trốn. Ngày hôm trước, Vua nghe tin mẹ Ức bị bệnh, sai sứ giả mang thuốc thang, vàng bạc đến ban cho, sứ giả đến cửa thì Ức đã bỏ trốn rồi. Triều đình bàn tán xôn xao, cho rằng không thể như vậy, Vua cũng nói với các phụ thần Vương Đán rằng: “Ức là quan hầu cận, sao có thể tự tiện như vậy?” Đán nói: “Ức vốn là kẻ sĩ nghèo, tiên đế khen ngợi tài văn chương của ông ta, đặt vào cung điện, bệ hạ cất nhắc đến chức vụ này. Xét theo công luận, quả là tội nhân. Nhờ bệ hạ khoan dung, nếu không thì đã bị đổ vỡ từ lâu. Tuy nhiên, chức vụ gần gũi không thể ở nơi xa, nay nên bãi chức.” Vua cuối cùng vẫn yêu mến tài năng của ông ta, hơn một tháng sau, lệnh bãi chức vẫn chưa ban xuống.

Dương Ức vốn thể trạng yếu đuối, bèn xưng bệnh, xin từ chức. Ngày Tân Mùi, phong Dương Ức làm Thái thường thiếu khanh, phân ty Tây Kinh, lại cho phép về nơi cư trú dưỡng bệnh, đợi khi khỏe mạnh sẽ nhậm chức.

(Hoàng Đình Kiên nói: Cải mệnh Trần Bành Niên soạn chế, ngày chiếu ban xuống, Dương Ức cả nhà chạy về Dương Trạch.

Xét việc lập hoàng hậu vào tháng 12 năm ngoái, Dương Ức tháng 5 năm nay bỏ trốn, việc bỏ trốn không phải vì lý do này. Âu Dương Tu ghi chép giống với Giang Hưu Phục, nay dùng theo.

Sách 《Kim Ba Di Sự》 của Tiền Duy Diễn chép Dương Ức ngày mùng 2 tháng 5 chạy về Dương Trạch, sứ giả đến cửa mới biết Dương Ức đã bỏ trốn, vậy thuốc thang, vàng bạc không phải sau khi Dương Ức đi mới ban.

Bản truyện nói Dương Ức không đợi báo cáo đã đi, Vua thân tay gói thuốc và ban vàng lụa, đó là lời nói trang sức. Nay dùng theo ghi chép của Tiền Duy Diễn, để được sự thật.

Dương Ức đã bỏ trốn, triều luận lập tức xôn xao, Vương Đán xin bãi chức gần của ông, mệnh này nên ban ngay, nhưng từ ngày mùng 2 tháng 5 đến ngày Tân Mùi tháng này, gần 40 ngày mới giáng chức, đức lớn yêu quý nhân tài, khoan dung người ngay của Chân Tông, có thể thấy ở đây, mà Thực lục, chính sử đều bỏ sót, thật đáng tiếc, nay đặc biệt ghi lại.

Dương Ức xưng bệnh xin từ, bèn trao chức phân ty, bản truyện chắc không sai. Lại nói có người xúi giục quan ngự sử đàn hặc Dương Ức, e rằng không phải. Quan ngự sử là Khương Tuân, đàn hặc Dương Ức vào tháng 8 năm sau khi ông nhậm chức Thái thú Nhữ châu, việc trao chức phân ty, ban đầu không thấy quan ngự sử cử tội, nghi bản truyện có căn cứ khác, nên khảo cứu.)

[104] Trung thư môn hạ xin theo tấu của Tông chính tự, giáng tên cha mẹ ba đời của hoàng hậu vào sổ tông thất, chiếu theo.

[105] Ngày tiết Tiên Thiên, Giáng Thánh, lệnh thiên hạ dùng dải Diên Thọ, sợi Tục Mệnh, rượu Bảo Sinh để tặng nhau.

[106] Tần châu tâu: Tri châu, Xu mật trực học sĩ, Tả ty lang trung Lý Tuấn mất. Vua nói với cận thần: “Thiên Thủy là nơi biên giới trọng yếu, nên nhanh chóng tìm người.” Mã Tri Tiết nói: “Bắc tác phường sứ, Phu Diên kiềm hạt Trương Chí Ngôn có thể đảm nhiệm.” Vua đồng ý. Ngày Nhâm Thân, trao chức Tả Kỵ Kỵ sứ, liền mệnh làm Tri Tần châu. Chí Ngôn sau đổi tên là Cát.

[107] Ban tặng cho thiên hạ bộ 《Đạo tạng》 gồm các tác phẩm: 《Đại Trung Tường Phù Tụng》, 《Chân Du Tụng》, 《Thánh Tổ Lâm Giáng Ký》 do nhà Vua soạn, theo yêu cầu của Trung thư môn hạ.

[108] Bổ nhiệm Hữu gián nghị đại phu Trần Bành Niên làm Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các trực học sĩ[24]. Việc Học sĩ kiêm nhiệm chức vụ bắt đầu từ đây.

Ngày Giáp Tuất, nhà Vua làm thơ ban cho Bành Niên, rồi nói với Hướng Mẫn Trung và các quan rằng: “Trước đây khi bổ nhiệm Học sĩ, hiếm khi ban thơ, nhưng Bành Niên khác với người khác, nên mới có tác phẩm này.” Nhà Vua lại nói: “Bành Niên tài văn chương xuất sắc, được thăng chức gần gũi bậc cao, càng lâu càng cẩn trọng, ham học hỏi, ít người sánh kịp. Mỗi ngày thường viết hơn vạn chữ, lại am hiểu điển lễ, thông suốt pháp lệnh, khi người khác thỉnh giáo, ứng đáp trôi chảy, đều có căn cứ. Thường sai kiểm tra điển cố, xác minh văn nghĩa, mỗi việc đều ghi rõ xuất xứ từ kinh, sử, tử, tập, đầy đủ rồi mới thôi. Nếu không phải trí nhớ siêu phàm, sao có thể làm được như vậy.” Mẫn Trung nói: “Bành Niên còn có khí chất và kiến thức.” Đinh Vị nói: “Bành Niên là bậc toàn tài, không chỉ dùng văn nhã ung dung để thị tòng, mà còn tham gia bàn luận việc thời sự, tìm hiểu sâu sắc lý lẽ, đều vượt ngoài sự mong đợi của người khác.”

Nhà Vua đồng ý, rồi nói: “Việc ở Tường định sở, dù lớn hay nhỏ, đều đợi Bành Niên quyết định rồi mới định đoạt, cơ quan này không thể bỏ được. Trước đây khi tham khảo điển lễ, dù đã qua các cơ quan liên quan, nhưng ý kiến đều xuất phát từ tiểu lại, nay đã thành quy định rồi.”

[109] Tam ty mượn ba vạn lạng bạc từ Nội tàng khố.

[110] Bảo An quân tâu rằng mưa lâu ngày khiến sông tràn, Phán quan Triệu Chấn cùng binh lính và dân chúng chết đuối tổng cộng hơn 650 người. Sai sứ đi tuần thăm hỏi.

[111] Ngày Đinh Sửu, cho Lưu Trung Tượng, chức Đại Lý bình sự, được miễn tang phục, giữ chức Thiêm thự Phán quan Lễ châu. Trung Tượng là con của Trang trạch phó sứ Lưu Nhân Bá. Nhân Bá làm Tri châu Lễ châu, vỗ về người Man, có thành tích chính sự, đến lúc này mất. Trần Thế Khanh, nguyên là Chuyển vận sứ Kinh Hồ Bắc lộ, tâu rằng Trung Tượng lâu nay theo cha làm việc, rất am hiểu việc ở vùng khê động. Vì thế có mệnh lệnh này.

[112] Chiếu rằng các châu có đền thờ Hoàng Đế đều phải tu sửa trang trọng.

[113] Ngày Tân Tỵ, sai Hàn lâm học sĩ Vương Tằng và Chiêu tuyên sứ Hàn Thủ Anh quản lý Tam ban viện, thay cho Tôn Thích và Đậu Thần Bảo, vì hai người này để sứ thần bị trì trệ.

[114] Chiếu rằng Tri châu Quảng Châu được cấp thêm tiền. Từ nay, 70 vạn là tiền thêm, 50 vạn là tiền công dụng. Lúc đó, người tâu việc nói rằng Quảng Châu vốn không có tiền công dụng, mà Tri châu mỗi tháng được cấp 10 vạn, vốn là để chi tiêu công việc, nhưng quan lại lấy danh nghĩa là tiền thêm, chỉ dùng cho bản thân, việc yến tiệc rất ít. Vì thế đặc biệt định ra quy chế này.

[115] Ngày Bính Tuất, Tần Châu tâu rằng Lâm Bố Trí, chức Hoài Hóa ty qua, dẫn đầu đoàn người Hồi Cốt tiến cống của nước Cưu Tư, đi đến phía bắc sông Hoàng Hà, bị bộ lạc Phiên ngăn trở, xin sai sứ thần đến đón dẫn, và ban cho chức tước. Vua nói: “Người Nhung tham lam không biết chán, không thể đáp ứng hết yêu cầu của họ.” Lệnh cho Tần Châu cử sứ thần đến ban thưởng thêm, rồi dẫn họ ra khỏi vùng Phiên. Cung phụng quan Lưu Ác trước đây đi sứ Cưu Tư, vì bệnh trở về trước, đến kinh thành thì mất. Vua thương xót ông gặp nhiều khó khăn trên đường, chiếu ban cho gia đình ông những vật dụng trong cung. Những người đi theo đều được thăng chức.

[116] Ngày Đinh Hợi, tăng thêm tiền công dụng cho Duyện Châu. Khao thưởng sứ thần và quân hiệu tu sửa cung điện.

[117] Ngày Kỷ Sửu, chiếu rằng các ngày Tiên Thiên, Giáng Thánh, Thiên Khánh tiết, và ngày trước sau đều không xử lý công việc.

[118] Tháng đó, Vua ban chiếu rằng: “Từ nay, các quan kinh triều, mạc chức, châu huyện xin thi xử án, giao cho quan khảo thí đến kho chọn công án bí mật, tự mình niêm phong, đợi khi thi thì trong đó chọn ra số lượng hợp lý, theo lệnh cũ mà khảo thí cẩn thận, không được như trước sai lại kho kiểm tra, dẫn đến lộ bí mật. Khi thi xử án, phải dẫn dụng điều luật rõ ràng, mới định tội hợp lý, không được cẩu thả. Nếu vi phạm, quan khảo thí sẽ bị xử phạt nặng. Các kho tàng tân cựu, thảo kiểm, tuyên sắc của Đại Lý tự, từ nay phải sai quan niêm phong, không để lại dịch tự ý mở ra.”

Ban đầu, Trung thư đưa danh sách người thi luật lên trình[25], Tể thần Vương Đán tâu: “Trước đây, những người đã được bổ nhiệm hoặc nhận chức xa, dù là người cần thiết của pháp đình, sợ có sự tránh né, đã không thi hành. Những người dự thi mà trúng tuyển, cũng rất may mắn. Vì những người được tuyển chưa qua sáu kỳ khảo thí, không có hai người cùng tội tiến cử, thì không có cơ hội thăng tiến. Những người này tuy nói là thông thạo luật pháp, nhưng nếu khảo thí không nghiêm, thì người may mắn sẽ nhiều. Nếu được đề bạt ở Thẩm hình viện, thì theo lệ sẽ đổi phẩm phục, hết năm lại được thăng chức, vì vậy càng cần chọn người công bằng trong khảo thí.”

Vua nói: “Như khanh nói, quả thật có chuyện đó. Khi thi xử án, thường biết trước[26], đến khi định tội, thì chỉ nói hợp vào tội đồ, hợp vào tội trượng, mà không chỉ rõ phạm điều luật nào, dẫn đến tội gì. Từ nay chọn quan khảo thí cẩn thận, và ban hành điều lệ.” Vì thế có chiếu này.


  1. Sau đó, chọn ra 12 tội như phạm về trà, muối, phèn, rượu, đúc tiền riêng, chế tạo vũ khí, buôn bán hương liệu ngoại quốc, mang tiền đồng, dụ dỗ người Hán ra khỏi biên giới, quan lại ăn cắp của công, tụ tập ban đêm làm việc tà đạo, v.v. (Bản Tống, bản Tóm tắt đời Tống, bản các bản đều giống nhau. 《Tống hội yếu》 phần Hình pháp 4-6 có thêm tội 'Mã đệ tốt ăn cắp của công', đủ 12 tội, có lẽ là đúng.)
  2. Lại ban chiếu: 'Nghe nói Nội thị tỉnh sai quân sự tốt ở kinh thành đi dò xét công việc, nhân đó gây phiền nhiễu, đều phải chấm dứt.' Bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các đều không có. Xét điều này đã thấy ở trên ngày Canh Tý, nghi là trùng lặp.
  3. Chữ 'Quần' nguyên bản viết là 'Quận', theo Tống bản, Tống toát yếu bản và 《Tống sử》 quyển 303 truyện Đường Túc sửa lại.
  4. Theo lời thỉnh cầu của Phán Tông chính Triệu Thế Trưởng và các người khác, chữ 'đẳng' nguyên bản thiếu, căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản bổ sung. Theo 《Tống hội yếu》 chức quan 20-55 ghi: 'Năm Đại Trung Tường Phù thứ 6 tháng giêng, Phán Tông chính Triệu Thế Trưởng, Triệu Khả Phong... xin trên sổ hoàng tộc đặt thêm tôn hiệu.'
  5. Lại sao chép một bản khác cất ở Bí các, hai chữ 'biệt lục' nguyên bản đảo ngược, căn cứ vào sách trên sửa lại.
  6. Cung liêu nguyên bản là 'Quan liêu', theo Tống bản, Tống toát yếu bản sửa lại.
  7. Theo 《Tống hội yếu》 đạo thích 1-21, chữ 'bách' có lẽ là sai.
  8. Nguyên bản chép là 'Thủy Hưng quân', theo bản khác sửa lại.
  9. Đạo điền vụ nguyên bản chép là 'Lưu điền vụ', theo 《Tống hội yếu》 chức quan 64-22 sửa lại
  10. 'Giả thác' nguyên bản chép là 'giả ký', theo các bản khác sửa lại. Xem 《Tống sử》 quyển 277, truyện Lưu Tống chép: 'hoặc giả làm thân thuộc, tâu xin chức tước'
  11. Tham quân Thương tào phủ Khai Phong, chữ 'Tào' nguyên bản là 'Tào', theo 《Tống sử》 quyển 303 truyện Ngụy Quán sửa lại.
  12. Lấy Tu lý Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung sứ Đinh Vị làm Nghênh phụng sứ, nguyên bản thiếu chữ 'sứ', theo 《Trường biên kỷ sự bản mạt》 quyển 18 việc xây Ngọc Thanh Chiêu Ứng cung và 《Tục thông giám》 quyển 30 bổ sung.
  13. Hai mươi sáu trại, một trăm hai mươi sáu phố: Sách này quyển 44 chép là đặt hai mươi tám trại, một trăm hai mươi lăm phố; 《Tống sử》 quyển 273, truyện Hà Thừa Củ chép là đặt hai mươi sáu trại, một trăm hai mươi lăm phố.
  14. Đến tháng hai luân phiên một nửa về làm ruộng: Chữ 'luân' nguyên là 'thâu', theo các bản khác và 《Tống sử》 quyển 190, Binh chí sửa.
  15. ND: chỉ các quan chức chuyên môn như y quan (thầy thuốc), thiên văn quan, họa sư, thợ thủ công... phụ trách kỹ thuật, không thuộc hệ thống quan lại hành chính chính quy. Thường bị xem là "tạp lưu", địa vị thấp hơn quan văn/võ truyền thống.
  16. Chữ 'số' trong 'Tôn Thích số thượng sớ gián tường thụy' vốn bị thiếu, nay căn cứ vào Tống bản và Tống toát yếu bản để bổ sung.
  17. Chữ 'phụng' trong 'Phụng lễ lang Tiền Ái' vốn viết là 'tấu', nay căn cứ vào Tống bản và Tống toát yếu bản sửa lại. Chữ 'ái' vốn viết là 'noãn', nay căn cứ vào Tống bản, Tống toát yếu bản và các bản khác sửa lại.
  18. Huyện An Đức, châu Đức vốn viết là 'An Tín huyện', nay căn cứ vào 《Hoàn Vũ Ký》 quyển 64 và 《Tống Sử》 quyển 86, phần Địa lý chí sửa lại. Xét thấy châu Đức thời Tống chỉ có huyện An Đức chứ không có 'An Tín huyện'.
  19. Nguyên bản chữ 'Tinh' sửa thành 'Kỳ' theo Tống bản, Tống toát yếu bản, Các bản và Trường biên kỷ sự bản mạt quyển 18 Kiến Ngọc Thanh Chiêu Ứng Cung.
  20. Nguyên bản chữ 'Dư' sửa thành 'Bí' theo sách trên.
  21. 'Chắc chắn' nguyên bản là 'tất', căn cứ theo bản Tống và bản Tóm tắt đời Tống mà sửa lại.
  22. Dương Ức vội sửa thành 'lân cảnh', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và Biên niên cương mục quyển 8, Tống sử toàn văn quyển 6 sửa lại
  23. Giang, Hoàng, chữ 'Hoàng' nguyên bản viết là 'Hạ', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản và văn trên sửa lại
  24. Việc bổ nhiệm Hữu gián nghị đại phu Trần Bành Niên làm Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các trực học sĩ: Chữ 'kiêm' ban đầu bị thiếu, 'Long đồ các trực học sĩ' ban đầu bị đảo lên trên 'Trần Bành Niên làm Hàn lâm học sĩ', căn cứ theo Tống bản và Tống toát yếu bản để sửa chữa và bổ sung. Theo 《Tống sử》 quyển 287, truyện Trần Bành Niên chép: 'Năm thứ 6, triệu vào Hàn lâm, sung chức Học sĩ, kiêm Long đồ các học sĩ.' 《Chức quan phân kỷ》 quyển 15 chép: 'Nhà Vua làm một bài thơ, ban cho Trần Bành Niên vừa được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ kiêm Long đồ các học sĩ.'
  25. Trung thư đưa danh sách người thi luật lên trình (chữ 'luật' vốn thiếu, theo 《Tống hội yếu》 Hình pháp 1-64 bổ sung)
  26. Khi thi xử án, thường biết trước (chữ 'thí' vốn thiếu, theo sách trên bổ sung)

Bản quyền

Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên Copyright © 2025 by khosachviet.com. All Rights Reserved.