I. TỐNG THÁI TỔ
QUYỂN 9: NĂM KHAI BẢO THỨ NHẤT (MẬU THÌN, 968)
Từ tháng giêng đến tháng chạp năm ấy.
[1] Tháng giêng, mùa xuân, ngày Ất Dậu (mùng 1) (Xét: nguyên bản viết là Tân Mão, nhầm. Nay đã sửa lại.), Vua ngự tại điện Càn Nguyên nhận triều mừng.
[2] Ngày Canh Dần, Vua ban chiếu triệu Lữ Dư Khánh về triều, lấy Binh bộ thị lang Lưu Hi Cổ làm Học sĩ điện Đoan Minh, quyền coi phủ Thành Đô.
[3] Ngày Nhâm Thìn, Tả Lĩnh quân Vệ Thượng tướng quân, Yến quốc công Lưu Trọng Tiến qua đời. Trọng Tiến không có tài năng gì đặc biệt, chỉ giỏi tiếng Khiết Đan. Khi Gia Luật Đức Quang diệt nhà Tấn, ông nhận chức Phiên trấn, trải qua các chức vụ trong cấm vệ. Từng theo hầu Vua đến vườn Ngọc Tân, Vua gọi đến nói chuyện, khi lui ra, Vua bảo tả hữu: “Xem cách ứng đối của Trọng Tiến không bằng người thường, triều trước dùng làm tướng, có gì đáng trọng?”.
[4] Ngày Giáp Ngọ, huy động dân đinh các vùng gần kinh thành để tăng cường sửa chữa kinh đô, Phó Đô đầu Mã Bộ quân Vương Đình Nghệ trông coi việc này.
[5] Ngày Đinh Dậu, Vua sai sứ mở kho phát chẩn, cứu đói dân các châu Thiểm, Giáng, Hoài.
[6] Ngày Ất Tỵ, châu Tấn báo rằng Chỉ huy sứ Chiêu thu tại trại Thiên Thành của Bắc Hán là Nhiệm Thủ Ân (Nhiệm Thủ Ân, sử Tống chép là Nhiệm Ân.) cùng 150 người đến hàng.
[7] Hôm ấy, việc tu sửa trong cung đã hoàn tất, Vua đặt tên cho các cửa. Ngồi ở tẩm điện, Vua cho mở rộng các cửa, tất cả đều thẳng thắn, thoáng đãng, không bị che khuất, Vua bảo tả hữu: “Điều này giống như tâm ta, nếu có chút tà khúc, người ta đều thấy ngay vậy.”.
[8] Tháng hai, ngày Quý Hợi, ban chiếu rằng: “Ba năm có thành tựu, đó là lời dạy rõ ràng từ điển chương xưa; một ngày cũng phải sửa chữa, đó là việc làm của các bậc hiền nhân thời trước. Nghe nói các đạo, phiên trấn, quận, ấp, nha môn và kho tàng, nếu có hư hỏng mà không kịp thời sửa chữa, để kéo dài qua năm tháng, dẫn đến đổ nát, khi phải huy động nhân công để sửa chữa, thì hao tổn gấp bội. Từ nay, các Tiết độ sứ, Quan sát sứ, Phòng ngự sứ, Đoàn luyện sứ, Thứ sử, Tri châu, Thông phán, khi thôi giữ chức, phải ghi chép lại tình trạng hư hỏng hoặc việc tu sửa nơi công sở của mình, rồi lần lượt bàn giao cho người kế nhiệm. Các quan Mạc chức, Châu, Huyện khi nhận chức, phải đối chiếu ghi vào sổ khảo khóa. Nếu để hư hỏng không sửa, thì giáng một bậc trong kỳ tuyển chọn. Ai tu sửa, xây dựng mà không phiền nhiễu dân, thì thăng một bậc.”
[9] Ngày Canh Thìn, đổi Trân Châu thành Cao Châu, theo lời thỉnh cầu của Thứ sử Điền Cảnh Thiên.
[10] Tháng này, nạp Hoàng hậu Tống thị, là con gái lớn của Trung Vũ Tiết độ sứ Diên Ác. Diên Ác sau đó đổi tên thành Ác.
(Việc nạp Hoàng hậu là đại lễ, nhưng cả ‘Bản kỷ’ cùng ‘Tân lục’, ‘Cựu lục’ đều không ghi chép. Căn cứ theo ‘Hậu truyền’, nhân dịp tiết Trường Xuân nên Hoàng hậu vào cung, nên tạm ghi vào tháng này.)
[11] Tháng ba, ngày Canh Dần, tăng tu sửa lại lệnh về công tội của các Huyện lệnh, Úy trong việc bắt giặc. Ban hành thi hành.
[12] Ngày Quý Tỵ, ngự giá đến Ngọc Tân Viên.
[13] Quyền Tri cống cử Vương Hỗ chọn 10 người đỗ Tiến sĩ hợp cách, trong đó có Đào Cốc con là Bỉnh, xếp thứ sáu. Hôm sau, Đào Cốc vào triều tạ ơn, Vua bảo tả hữu rằng: “Nghe nói Đào Cốc không biết dạy con, sao Bỉnh lại đỗ được?” Liền hạ lệnh cho Trung thư phúc thí, và Bỉnh lại đỗ. Nhân đó ban chiếu rằng: “Việc tuyển chọn nhân tài, không phải để ban ơn riêng; nhà có thế lộc, nên chuyên tâm giữ gìn nghiệp xưa. Nghe nói có kẻ kết bè kéo cánh, lén lút gian lận, khoa cử là việc công, sao lại để tùy tiện như thế! Từ nay, tất cả những người ứng thi thuộc nhà có thế lộc, giao cho Lễ bộ xem xét tường tận rồi tâu lên, sẽ cho phúc thí.”
[14] Ngày Giáp Thìn, Trấn Châu báo rằng quân ở trại Bách Tỉnh xuất kích đánh trại Mã An Sơn của Bắc Hán, chém và bắt sống vài chục người.
[15] Ngày Ất Tỵ, có voi thuần tự nhiên đến kinh sư, quần thần dâng biểu chúc mừng.
[16] Nam Hán Tây Bắc diện Chiêu thảo sứ Phan Sùng Triệt bị nghi ngờ vì lời đồn thổi, Nam Hán chủ sai Nội thị giám Phiên Ngung là Quách Sùng Nhạc đến giám sát quân của ông, dặn rằng: “Nếu Sùng Triệt thực có ý phản, liền giết ngay.” Sùng Nhạc đến Quế Châu, Sùng Triệt bày nghiêm binh mã tiếp đón, Sùng Nhạc không dám hành động, trở về báo với Nam Hán chủ: “Sùng Triệt ngày đêm dẫn hơn trăm kẻ nhạc công, mặc gấm thêu, thổi sáo ngọc, uống rượu thâu đêm, không đoái hoài đến chính sự quân đội, không có ý phản nghịch.” Nam Hán chủ nổi giận. Gặp lúc Sùng Triệt một mình cởi ngựa về triều, Nam Hán chủ bỏ qua không hỏi tội, chỉ tước bỏ binh quyền của ông mà thôi.
[17] Ngày Mậu Thân, Đường chủ lấy Xu mật sứ, Hữu bộc xạ Thang Duyệt làm Tả bộc xạ, kiêm Môn hạ thị lang, Bình chương sự. Duyệt vốn khen ngợi và đối đãi tốt với Thanh Huy điện học sĩ Trương Kỵ. Kỵ biết dò xét sắc mặt của Vua, giỏi bịa đặt chuyện xấu của đồng liêu, nhân vì bốn con của Duyệt đều giữ chức ở Tam tỉnh và Xu mật viện, Kỵ dâng mật biểu nói: “Nơi thân cận, hàng ngũ lần lượt vào trong.”, lại nói: “Duyệt không phải người có tài kinh luân, không nên giữ chức tể tướng.” Quốc chủ vì Duyệt là cựu thần văn học, bãi chức học sĩ của Kỵ, nhưng không lâu sau lại khôi phục.
[18] Ngày Giáp Dần, Hữu thập di Lương Chu Hàn bị tước hai chức quan, vì tội khi làm thông phán Mi Châu đã xử tử một người.
[19] Mùa hạ, tháng tư, ngày Mậu Ngọ, Thành Đức quân Tiết độ sứ, kiêm Thị trung, được truy phong Nam Khang quận vương Hàn Lệnh Khôn qua đời. Lệnh Khôn có tài lược, hiểu đạo trị quốc, cùng Vua cùng phò tá nhà Chu, tình cảm thân thiết. Trấn thủ Thường Sơn tổng cộng bảy năm, biên cương phía bắc được yên. Nghe tin ông mất, Vua rất thương tiếc.
[20] Ngày Bính Tý, Hộ bộ Viên ngoại lang, Tri chế cáo, Sử quán Tu soạn phán quán sự Vương Trứ lại được làm Hàn lâm học sĩ.
[21] Binh bộ Lang trung, Tri chế cáo Lư Đa Tốn sung chức Sử quán Tu soạn phán quán sự.
Đa Tốn thích dùng thuật số, giỏi phát hiện những điều kỳ lạ. Vua thích đọc sách, thường sai người đến Sử quán lấy sách, Đa Tốn dặn lại quan lại phải báo ngay tên sách được lấy, rồi ông thức đêm đọc để chuẩn bị ứng đáp. Khi Vua hỏi về sách, Đa Tốn trả lời trôi chảy, các quan đồng liêu đều phục. Vua càng yêu mến và đối đãi khác biệt với ông.
[22] Tấn châu tâu rằng quân hiệu Bắc Hán là Trạch Hồng Quý cùng hơn hai trăm người đến đầu hàng.
[23] Tháng 5, ngày Giáp Ngọ, ra chiếu các đạo, châu, phủ truy thu thuế của các huyện trực thuộc, giao sổ sách cho khổng mục quan, tự ý đốc thúc thu thuế còn thiếu, nhân đó lừa dối, gây nhiễu loạn cho dân chúng. Từ nay, lệnh cho lục sự tham quân tự mình kiểm tra sổ sách, phán quan chính thức đôn đốc việc này.
[24] Ngày Ất Mùi, ra chiếu các đạo, khi vận chuyển tiền bạc, lụa là cống nạp, đều do quan cấp phương tiện, không được gây phiền nhiễu dân chúng.
[25] Ngày Bính Ngọ, Kiến Hùng tiết độ sứ Triệu Ngạn Huy qua đời, truy tặng chức Thị trung.
Ngạn Huy từng cùng Vua làm việc dưới thời Chu Thế Tông, Vua từng kính ông như anh. Khi lên ngôi, Vua thăng ông làm tiết độ sứ. Trước đó, Ngạn Huy từ trấn về triều, Vua mở yến tiệc, ân sủng rất hậu. Ngạn Huy uống rượu quá độ, sinh bệnh. Vua thân hành đến phủ, gia ân một trăm vạn tiền, lập tức cho về trấn, sai con ông là Nhàn cứu phó sứ Kế Năng đi hộ tống. Ngạn Huy không lo việc dân, chỉ chuyên thu vét, của cải riêng tích lũy đến hàng vạn. Vua nghe tin, bắt đầu coi thường nhân cách ông. Khi ông bệnh nặng, có tiếng sét đánh vào phòng ông, ông kinh hãi mà chết, mọi người cho là do trời trừng phạt.
[26] Ngày Đinh Mùi, ban cho Giang Nam mười vạn hộc gạo, vì dân chúng đang đói kém.
[27] Tháng này, ra chiếu: “Các châu, thông phán, lương liệu quan khi đến nhiệm sở, phải tự mình kiểm tra sổ sách liệt kê tài sản công [1], không được chỉ dựa vào sự nhận định của chủ lại. Chủ khố lại mỗi ba năm thay một lần.” Theo lời tấu của Hoài Nam chuyển vận sứ Tô Hiểu.
(Theo ‘Thực hóa chí’.)
[28] Đường chủ phong cho Cần chính điện học sĩ thừa chỉ, Binh bộ thượng thư, Tu quốc sử Hàn Hi Tải làm Trung thư thị lang, Bách Thắng tiết độ sứ, kiêm Trung thư lệnh. Hi Tải dâng sớ bàn về yếu lược hình chính, thế cục xưa nay, biến động tai dị, cùng dâng sách “Cách ngôn” do ông soạn. Đường chủ ban chiếu khen ngợi và có mệnh lệnh này.
[29] Tháng 6, ngày Quý Sửu, ra chiếu các châu, ruộng dân bị mưa lũ và nước sông cuốn trôi, đều được miễn thuế.
[30] Dân chúng các châu Tây Xuyên và Sơn Nam có ông bà, cha mẹ còn sống, nhưng con cháu thường tách hộ khẩu và chia tài sản riêng. Ngày Quý Hợi, Vua ban chiếu yêu cầu các quan nghiêm khắc răn dạy, ai vi phạm sẽ bị xử theo luật.
(Theo sách Đông Đô Sự Lược, chiếu viết: “Đạo làm người lấy hiếu từ làm đầu, gia đạo lấy hòa thuận làm quý. Loài chó ngựa còn biết nuôi dưỡng, lẽ nào cha con lại sống riêng biệt? Hủy hoại phong tục, không gì nghiêm trọng hơn. Người dân có ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu không được tách hộ khẩu và chia tài sản, quan chức phải nhắc nhở nghiêm khắc.”)
[31] Ngày Tân Tỵ, bổ nhiệm Hữu Bổ Khuyết Tân Trọng Phủ làm quyền Tri châu Bành Châu. Vua nói với ông: “Đất Thục vừa yên, phong tục xa xỉ chưa thay đổi. Khanh có tài văn võ, nên ta trao trọng trách này cho khanh.” Trọng Phủ đến nơi, binh sĩ trong châu là Yến Hoàn mưu dụ quân đồn trú nổi loạn vào ngày tiệc mừng Tiết Trường Xuân, nhưng Trọng Phủ ban đầu không phát hiện. Lúc dân chúng ra ngoài thành tảo mộ, Trọng Phủ dẫn quan thuộc tuần tra ngoại ô, thấy cỏ trong hào dày đặc, sợ ẩn nấp gian tặc, liền ra lệnh đốt sạch. Đảng của Hoàn sợ mưu mình bị lộ, nên có người tố giác. Hơn trăm người bị bắt giết tại chợ.
[32] Châu Đơn báo rằng dân Đơn Phụ là Vương Mĩ nhà có rồng xuất hiện trong giếng, gió lớn làm bay hơn bốn trăm căn nhà, chết đuối mấy chục người.
[33] Mùa thu, tháng bảy, ngày Mậu Tý, Thủy Bộ Viên Ngoại Tư Chiêu Thịnh bị giáng chức làm Tả Tán Thiện Đại Phu. Trước đó, Chiêu Thịnh quyền Tri châu Nguyên, đã báo sai về việc bộ lạc ngoại tộc xâm lược, sau khi kiểm tra, thấy không đúng sự thật, nên có lệnh này.
(Chiêu Thịnh, không rõ lai lịch.)
[34] Ngày Ất Mùi, tiết Trung Nguyên thắp đèn, Vua ngự ở cửa Đông Hoa, ban rượu cho các quan theo hầu.
[35] Điện tiền tán viên đô ngu hậu Đổng Tuân Hối được bổ nhiệm làm Thông viễn quân sứ.
Tuân Hối là người Trác Châu. Cha ông là Đổng Tông Bản, từng làm Thứ sử Tùy Châu dưới thời nhà Hán, khi Thượng còn hàn vi đã từng nương nhờ ông. Tuân Hối cậy thế cha mình, thường hay khinh nhờn, từng nói với Thượng rằng: “Mỗi lần thấy trên thành có đám mây màu tím như cái lọng, lại mộng thấy mình lên đài cao, gặp con rắn đen dài hơn trăm trượng, thoắt chốc hóa rồng, bay về phía đông bắc, sấm chớp theo sau. Đó là điềm lành gì vậy?” Thượng đều không trả lời. Một hôm bàn về việc binh đao, Tuân Hối lý lẽ bất cập, liền vùng dậy bỏ đi. Thượng bèn từ biệt Tông Bản ra đi, từ đó, Tuân Hối cũng không thấy đám mây tím nữa.
Đến khi Thượng lên ngôi, Tuân Hối được thăng lên chức Kiêu vũ chỉ huy sứ.
Một hôm, Thượng triệu ông vào điện, Tuân Hối quỳ sụp xin chịu tội, Thượng sai tả hữu đỡ dậy, rồi bảo rằng: “Khanh còn nhớ giấc mộng về đám mây tím và hóa rồng năm xưa không?” Tuân Hối lạy tạ rồi hô vạn tuế. Chẳng bao lâu, thuộc hạ của ông đánh trống Đăng văn, tố cáo ông hơn mười việc phạm pháp, Thượng tha không hỏi tội, Tuân Hối lo sợ chờ tội, Thượng bảo rằng: “Trẫm đang tha lỗi để đánh giá công lao, há nhớ chuyện cũ sao? Khanh đừng lo lắng nữa, Trẫm sẽ trọng dụng khanh.” Tuân Hối lạy tạ, cảm động rơi nước mắt.
Thượng lại hỏi Tuân Hối[2]: “Mẹ khanh ở đâu?”
Tuân Hối đáp: “Mẹ thần ở U Châu, đang gặp cảnh khốn khó, cách xa không thể gặp nhau.”
Thượng bèn sai người đem hậu lễ mua chuộc dân biên giới, lén đón mẹ ông về, giao cho Tuân Hối, lại ban thưởng hậu hĩ. Từ đó, Thượng cho rằng Thông viễn quân gần biên giới với Tây Nhung, bèn lệnh cho Tuân Hối trấn thủ nơi ấy.
Tuân Hối đến nơi, bèn triệu tập các thủ lĩnh bộ tộc, giảng giải về uy đức của triều đình, làm lễ cắt cừu, dâng rượu, hậu đãi yến tiệc, mọi người đều vui vẻ phục tùng. Vài tháng sau, quân địch lại vào cướp phá, Tuân Hối dẫn quân đánh sâu vào, đánh đuổi chúng, bắt sống và chém giết rất nhiều, thu được hàng vạn cừu và ngựa, các bộ lạc dần ổn định. Vua vui mừng vì công lao của ông, bèn phong làm thứ sử La Châu, vẫn giữ chức vụ cũ.
Tuân Hối từng sai em họ là Lưu Tống ở Ngu Hương đến dâng ngựa cống, khi trở về, Vua cởi chiếc áo long bào đính châu ngọc đang mặc, truyền đưa cho mang về ban tặng. Tống nói: “Tuân Hối là bề tôi, sao dám nhận ân tứ này!” Vua đáp: “Ta giao trọng trách phương diện cho Tuân Hối, không lấy đây làm điều đáng ngại.”
[36] Ngày Bính Ngọ, Vua ngự giá đến doanh trại Thiết Kỵ, ban tiền và cừu rượu cho tướng sĩ, rồi đến vườn Ngọc Tân, ban rượu cho các quan theo hầu.
[37] Trấn Châu tâu rằng chủ trại Ô Ngọc của Bắc Hán là Hồ Ngộ cùng gia quyến một trăm ba mươi chín người đến hàng.
[38] Thượng từ khi lên ngôi, thường xuyên vi hành, có khi ghé thăm nhà các công thần, không ai đoán được.
Triệu Phổ mỗi lần lui triều, không dám cởi áo mũ[3]. Một đêm tuyết lớn, Phổ cho rằng Thượng sẽ không ra ngoài nữa, nhưng lâu sau, nghe tiếng gõ cửa rất lạ, vội ra xem thì thấy Thượng đứng giữa tuyết. Phổ hoảng hốt đón lạy, Thượng nói: “Ta đã hẹn với em ta rồi.” Sau đó, Khai Phong doãn Quang Nghĩa đến, liền bày trọng nhân trên sàn nhà Phổ để ngồi, đốt than nướng thịt, vợ Phổ dâng rượu, Thượng gọi bà là chị dâu.
Phổ thong thả hỏi: “Đêm khuya lạnh lắm, Bệ hạ vì sao lại ra ngoài?”
Thượng đáp: “Ta không ngủ được, ngoài chiếc giường ra, đều là nhà người khác, nên đến thăm khanh.”
Phổ nói: “Bệ hạ xem thiên hạ là nhỏ chăng? Nam chinh bắc phạt, nay chính là lúc, xin nghe kế hoạch của Bệ hạ.”
Thượng nói: “Ta muốn thu phục Thái Nguyên.”
Phổ im lặng hồi lâu, rồi nói: “Điều này thần không biết.” Thượng hỏi nguyên do, Phổ đáp: “Thái Nguyên nằm ở hai biên giới tây bắc, nếu một trận mà hạ được, thì biên cương chỉ có ta gánh vác, sao không tạm để đó, đợi bình định các nước khác. Nơi ấy chỉ là vùng đất nhỏ bé, họ sẽ chạy đi đâu được.”
Thượng cười nói: “Ý ta cũng vậy, chỉ thử khanh thôi.” Thế rồi, dùng binh đánh Kinh, Hồ, rồi tiếp tục chiếm Tây Xuyên.
[39] Trước đây, Thái Tổ từng sai gián điệp đến biên giới Bắc Hán, truyền lời đến Bắc Hán chủ rằng: “Quân gia và Chu thị vốn có thù sâu, nên không phục. Nay ta với ngươi không có hiềm khích gì, sao lại gây khổ cho dân một phương như thế? Nếu có chí hướng về Trung Nguyên, hãy xuống Thái Hành để quyết thắng bại.”
Lời Bắc Hán chủ được chuyển tới gián điệp để hồi báo rằng: “Đất đai và binh lực Hà Đông so với Trung Nguyên không đủ một phần mười, cố thủ nơi đây chỉ vì sợ tông miếu nhà Hán không còn hương hỏa.”
Thượng thương xót lời nói ấy, cười bảo: “Hãy nói với Lưu Quân rằng, mở cho hắn một con đường sống.” Vì thế, suốt đời Hiếu Hòa, không dùng đại quân Bắc phạt.
(Theo lời Thái Tổ nói “Ngoài chiếc giường ra, đều là nhà người khác”, lúc này chưa bình định Kinh, Hồ. Thái Tông vào mùa thu năm Kiến Long thứ hai làm Doãn Khai Phong, đến năm Khai Bảo thứ sáu mới phong làm Tấn vương. Sách Kiến Văn Lục của Thiệu Bá Ôn nói đã hẹn với Tấn vương, là sai. Nay sửa là “em ta” để hợp thực tế. Lại nói mới định kế sách xuống Giang Nam, càng sai. Nếu là Kinh, Hồ, Tây Xuyên thì có thể chấp nhận.
Theo ‘Thập quốc kỷ niên’, năm Thiên Hội thứ bảy Bắc Hán, Tống đế sai người Hình Châu là Cái Lưu đến nói với Đế rằng: “Nhà ngươi vốn có hiềm khích với nhà Chu, liên quan gì đến ta? Sao không đổi kế, khiến dân một phương khổ sở vì chiến tranh! Khiết Đan nhiều mưu mẹo, rốt cuộc không thể dựa vào, nếu ngươi muốn Trung Nguyên, sao không xuống Thái Hành, cùng ta một ngựa nào quyết thắng bại ở Hoài, Lạc Xuyên[4].” Đế sai Lưu về, nói: “Hãy thay ta tạ Triệu quân, nhà ta đời đời không phải là kẻ phản nghịch, chỉ muốn giữ hương hỏa họ Hán mà thôi. Đất đai, binh mã không đủ địch với ngươi một phần mười, sao dám tiến sâu? Ngươi muốn quyết thắng bại, hãy vượt Đoàn Bách Cốc đến, ta sẽ dựa thành một trận.” Tống đế cười nói: “Giữ lại có hại gì?” Suốt đời Đế, Tống đế không Bắc phạt nữa. Năm Thiên Hội thứ bảy là năm Càn Đức nguyên niên của triều đình. Nay nhân việc Lưu Quân chết, phụ lục sự việc này vào năm Khai Bảo nguyên niên, văn từ lại khác với Ngũ Đại Sử, nay theo Ngũ Đại Sử.)
[40] Ban đầu, con gái của Bắc Hán Thế Tổ gả cho Tiết Chiêu, một binh sĩ trong doanh Hộ Thánh của nước Tấn[5], sinh con là Kế Ân. Bắc Hán Cao Tổ nắm quyền cấm vệ, vì Thế Tổ nên xóa tên Chiêu khỏi quân tịch, cho ở tại phủ môn. Chiêu không có tài năng, Cao Tổ cấp cho áo cơm nhưng không có việc gì để làm. Thê tử ông thường ở trong cung, Chiêu hiếm khi được gặp, trong lòng bất mãn, nhân lúc say rút đao đâm bà, bà bị thương nhưng không chết, Chiêu liền tự sát. Bà cải giá lấy họ Hà, lại sinh Kế Nguyên, sau đó cả Hà và bà đều qua đời.
Thế Tổ vì Hiếu Hòa Đế không có con nên nuôi Kế Ân và Kế Nguyên, cả hai đều đổi sang họ Lưu. Kế Ân bụng to rậm râu, người trên dài người dưới ngắn, cưỡi ngựa thì trông cao lớn, đi bộ thì như người lùn. Ông phụng sự Hiếu Hòa Đế rất cung kính, sớm tối thăm hỏi, không hề vi phạm lễ nghi. Khi làm Thái Nguyên doãn, ông nhu nhược không trị nổi việc, Hiếu Hòa Đế lo lắng, từng nói với Thừa tướng Quách Vô Vi: “”Kế Ân thuần hiếu, nhưng không phải là người tài giúp đời, sợ rằng không thể gánh vác được việc nhà, biết làm sao đây?“” Vô Vi không trả lời.
Tháng đó, Hiếu Hòa Đế nằm bệnh ở điện Cần Chính, triệu Vô Vi đến, nắm tay ông, giao phó việc hậu sự. Kế Ân bắt đầu giám quốc, Vô Vi không hòa hợp với Thị vệ thân quân sứ Uất Tiến, nên đưa Tiến ra trấn thủ Đại Châu, lại đề nghị dần dần loại bỏ các công tộc, lệnh cho em Kế Ân là Kế Trung trấn thủ Hãn Châu. Kế Trung cũng là con nuôi của Hiếu Hòa Đế, tự xưng từng đi sứ Khiết Đan, mắc bệnh lạnh kinh niên, đất Định Tương lạnh giá, xin được ở lại dưỡng bệnh tại Tấn Dương. Kế Ân trách ông do dự, hối thúc lên đường, Kế Trung có lời oán thán, có người báo lại với Kế Ân, sau đó ông bị bức tử.
Hiếu Hòa Đế băng hà, Kế Ân sai sứ báo tang và xin nối ngôi với Khiết Đan, Khiết Đan đồng ý, sau đó ông lên ngôi.
[41] Tháng đó, lệnh cho các châu xem xét dân có người đói thì lập tức mở kho phát chẩn.
[42] Tháng 8, ngày Giáp Dần, ban chiếu chuẩn bị việc tế lễ vào ngày Đông Chí ở Nam Giao.
[43] Ngày Ất Mão, duyệt binh ở vùng ngoại ô gần kinh thành, rồi về thăm chùa Tướng quốc.
[44] Ngày Mậu Ngọ, lại duyệt binh ở vùng ngoại ô phía bắc, rồi về thăm viện Phi Long.
[45] Tả Giám môn vệ Đại tướng quân Triệu Biền sau khi bị miễn chức Tam ty, nhiều lần dâng mật sớ, nhưng đều bị giữ lại không đưa ra. Ông nghi ngờ Triệu Phổ đã hãm hại mình, bèn đến cửa cung nộp lại sắc mệnh đã nhận. Ngày Canh Thân, Vua ban chiếu bắt ông về nhà riêng. Biền xin lui về sống ở Vận Châu nhưng không được chấp thuận.
[46] Ngày Tân Dậu, ra lệnh những người đỗ kỳ tuyển đã đến kinh thành phải lập tức tham gia tập hợp, không cần đợi bốn mùa. Khi hoàn thành thứ hạng, ba nơi là Nam Tào, Thuyên ty và Môn Hạ tỉnh sẽ xét duyệt và bổ nhiệm, cùng kiểm tra việc tạ ơn từ biệt, tất cả trong thời hạn một tháng. Nam Tào 8 ngày, Thuyên ty 15 ngày, Môn Hạ tỉnh 7 ngày, quy định làm mẫu. Nếu có việc bàn luận về thành tích, hoặc mắc lỗi, phải đến các nơi xét hỏi, thì cứ theo lệ thi hành, đồng thời tâu trình sự việc. Nếu không có chỗ khuyết hoặc chưa đủ tư cách bổ nhiệm, thì không thuộc phạm vi này.
[47] Ngày Bính Dần, sai Khách tỉnh sứ Lư Hoài Trung cùng 21 người khác dẫn quân đóng ở Lộ Châu, chuẩn bị việc đánh Bắc Hán.
[48] Ngày Mậu Thìn, lấy Chiêu Nghĩa tiết độ sứ (theo Tống sử, Tống sử ký và Tiết Ứng Kỳ Tục thông giám, đều ghi là Chiêu Hoá quân tiết độ sứ), Đồng bình chương sự Lý Kế Huân làm Hà Đông hành dinh Tiền quân Đô bố trí, Thị vệ Bộ quân Đô chỉ huy sứ Đảng Tiến làm phó, Tuyên huy Nam viện sứ Tào Bân làm Đô giám; Lệ Châu phòng ngự sứ Hà Kế Quân làm Tiên phong Bố trí, Hoài Châu phòng ngự sứ Khang Diên Chiểu làm Đô giám; Kiến Hùng tiết độ sứ Triệu Tán làm Phần Châu lộ Bố trí, Nhưỡng Châu phòng ngự sứ Tư Siêu làm phó, Thấp Châu thứ sử Lý Khiêm Bạc làm Đô giám.
[49] Tháng 9, ngày Nhâm Ngọ, ban chiếu rằng: “Trước đây cấm tiền đồng ra ngoài biên giới, nhưng nghe nói các vùng biên giới lỏng lẻo, không còn kiểm tra. Từ nay, người mang dưới 5 quan sẽ bị xử tội khác nhau; mang trên 5 quan, tội đáng chết.”
[50] Ngày Quý Mùi, Giám sát ngự sử Dương Sĩ Đạt bị xử tử ở chợ, do khi làm thông phán Kỳ Châu đã kết án giết người bừa bãi.
[51] Quần thần dâng ba biểu xin tôn hiệu cho Vua là “Ứng Thiên Quảng Vận Thánh Văn Thần Vũ Minh Đạo Chí Đức”, ngày Đinh Hợi, Vua ban chiếu chấp thuận.
[52] Ngày Tân Mão, Vua ban chiếu rằng từ nay vào các ngày nghỉ tuần, Vua sẽ ngự tại điện Giảng Vũ, các cận thần chỉ tham dự buổi chầu sớm, từ chức Tể tướng trở xuống đều phải mặc triều phục cầm hốt, các chức Tư sứ trở xuống đều phải đi giày; còn các ngày nghỉ lễ và đại tế, đều theo quy định.
[53] Bắc Hán chủ Lưu Kế Ân oán hận Quách Vô Vi vì trước đây cùng cha mình bàn luận việc không ủng hộ mình, lại ghét hắn chuyên quyền, muốn trục xuất nhưng chưa thành. Tháng này, Kế Ân phong Vô Vi làm Thủ Tư không bề ngoài tỏ ra trọng đãi, nhưng bên trong thật sự xa lánh. Kế Ân mặc tang phục xử lý việc triều, ăn ở đều tại gác Cần Chính, những người tâm phúc đều lưu lại tại trại Thái Nguyên. Có người xin triệu họ vào để hộ vệ, Kế Ân không nghe. Lúc này, văn võ bá quan đều được thăng chức, Kế Ân bày tiệc chiêu đãi các đại thần và tông thất, uống rượu xong nằm trong gác. Cung phụng quan Hầu Bá Vinh dẫn hơn mười người cầm gươm vào gác, khóa cửa lại, Kế Ân giật mình thức dậy, chạy quanh màn sách đường, Bá Vinh đâm gươm vào ngực giết chết Kế Ân. Vô Vi sai lính dùng thang leo vào nhà, giết Bá Vinh và đồng bọn, nghênh đón và lập em Kế Ân là Thái Nguyên doãn Lưu Kế Nguyên lên ngôi. Kế Ân trị vì chỉ hơn sáu mươi ngày.
Bá Vinh người Hình Châu, khỏe mạnh, giỏi bắn cung, chạy nhanh như ngựa. Từng đi cướp bóc vùng Tịnh, Phần, được Bắc Hán Thế Tổ phong làm Tán chỉ huy sứ, trấn giữ Lạc Bình. Vương Toàn Bân đánh Lạc Bình, Bá Vinh dẫn quân đầu hàng, được bổ làm Nội điện trực, chẳng bao lâu lại trốn về Bắc Hán làm Cung phụng quan. Lần này, mưu giết Kế Ân, bắt giữ đầu hắn mang về triều, nhưng ngay sau đó bị Vô Vi giết. Có người nói rằng chính Vô Vi xui Bá Vinh làm loạn, vội giết Bá Vinh để bịt miệng, nên không ai biết sự thật.
Kế Nguyên vừa lên ngôi, quân triều đình đã tiến vào lãnh thổ, bèn vội phái sứ giả dâng biểu cầu viện binh từ Khiết Đan, lại sai Thị vệ đô ngu hậu Lưu Kế Nghiệp và Phùng Tiến Kha (Tiến Kha không thấy chép rõ, cũng không rõ giữ chức vụ gì.) dẫn quân chặn giữ Đoàn Bách Cốc, lấy Tướng tác giám Mã Phong làm Xu mật sứ, giám quân.
Mã Phong người Thái Nguyên. Vợ Kế Nguyên là con gái của Mã Phong. Kế Nghiệp vốn tên là Trọng Quý, họ Dương, anh trai của Trọng Huân. Từ nhỏ phục vụ dưới thời Bắc Hán Thế Tổ, được ban cho tên họ mới.
Mã Phong đến sông Động Quá (Sử ký của Sóc chép là sông Đồng Oa. Theo Tống sử chép là sông Đồng Ôn, Tống sử ký chép là sông Đồng Oa, bộ “Tục Thông Giám” của Tiết Ứng Kỳ chép là sông Đồng Oa.), gặp quân của Lý Kế Huân, bị Hà Kế Quân dùng tiên phong đánh bại, chém hơn hai nghìn quân, bắt được năm trăm con ngựa, bắt sống tướng Trương Hoàn và Thạch Bân, đoạt cầu Phần Hà, áp sát thành Thái Nguyên, đốt cửa Diên Hạ. Kế Nguyên phái Điện trực đô tri Quách Thủ Bân dẫn quân nội trực ra đánh, lại bị thua. Thủ Bân trúng tên, rút vào trong thành[6].
(Ngày 20 tháng đó là ngày Canh Tý, Kế Huân tấu tới.)
[54] Ngày Đinh Mùi, Tá thắng quân sứ của Bắc Hán là Lý Quỳnh đến hàng.
[55] Trước đây, quân triều đình chiếm được Châu Sâm, bắt được hơn mười viên nội phẩm của Nam Hán, trong đó có Dư Diên Nghiệp, người nhỏ bé, Vua trông thấy hỏi: “Ngươi ở Lĩnh Nam giữ chức gì?” Đáp: “Giữ chức cung quan hộ giá.” Bèn trao cho cung tên, Diên Nghiệp dùng hết sức cũng không kéo nổi dây cung. Vua cười, nhân đó hỏi về chính sự nước họ, Diên Nghiệp kể rõ tình hình xa xỉ tàn bạo qua nhiều đời. Vua kinh hãi nói: “Ta sẽ cứu dân chúng nơi này.”
Lúc đó, Đạo Châu thứ sử Vương Kế Huân tấu rằng Lưu Sưởng ngang ngược hôn bạo, dân chúng bị hại, lại thường xuyên quấy nhiễu biên giới, xin triều đình xuất quân nam chinh. Vua vẫn chưa muốn gấp gáp dùng binh, bèn sai Đường chủ thông báo ý chỉ, yêu cầu Nam Hán chủ dâng lại vùng đất cũ của Hồ Nam. Đường chủ phái sứ giả đưa thư, Nam Hán không chịu nghe theo.
[56] Ban đầu, theo chế độ cũ, triều đình tế Đông Nhạc Thái Sơn tại Duyện Châu, Tây Nhạc Hoa Sơn tại Hoa Châu, Bắc Nhạc Hằng Sơn tại Định Châu, Trung Nhạc Tung Sơn tại Hà Nam Phủ. Khi ấy, quan viên tâu rằng: “Quan tế tự trước nay chỉ phụng thờ bốn ngọn núi lớn. Nay căn cứ theo điển lễ tế tự, xin tế Nam Nhạc Hoành Sơn tại Hoành Châu, Đông Trấn Nghi Sơn tại Nghi Châu, Nam Trấn Kê Sơn tại Việt Châu, Tây Trấn Ngô Sơn tại Lũng Châu, Trung Trấn Hoắc Sơn tại Tấn Châu; Đông Hải tại Lai Châu, Nam Hải tại Quảng Châu, Tây Hải và Hà Độc cùng tại Hà Trung Phủ, Bắc Hải và Tế Độc cùng tại Mạnh Châu, Hoài Độc tại Đường Châu. Còn Giang Độc, theo chiếu chỉ năm Hiển Đức thứ năm, tế tại cửa sông Dương Tử thuộc Dương Châu, nay xin tế tại Thành Đô Phủ. Bắc Trấn Y Vu Lư Sơn nằm trong địa giới Dinh Châu, chưa từng được tế lễ.” Vua nghe theo. Sau đó, triều đình tổ chức tế lễ từ xa Bắc Trấn tại đền thờ núi ở Định Châu, rồi việc tế lễ năm trấn lại bị bỏ sót.
(Theo bản chí này, không rõ thời gian. Kiểm tra sách ‘Hội yếu’, thì liên quan đến tháng tư, tháng năm, tháng bảy[7], đều được ghi chép vào cuối mùa thu.)
[57] Nhã Châu Nghĩa Quân Đô chỉ huy sứ, quyền Tri Lê Châu Tào Quang Thực vào kinh đô dâng cống, nhân đó tâu rằng cảnh châu yên ổn, không cần nghĩa quân tuần tra, xin giải tán để họ trở về làm ăn. Vua vui mừng, nói với tả hữu rằng: “Đây là bậc tuấn kiệt của đất Thục vậy.” Liền cho ông lên điện, ân cần hỏi han lâu. Mùa đông, tháng mười, ngày Kỉ Mùi, phong Quang Thực làm Lê Châu Thứ sử.
(Truyện chép rằng Vương Toàn Bân sai Quang Thực vào cống, nhưng Toàn Bân đã bị giáng chức về Tùy Châu vào mùa xuân năm thứ năm, nên truyện này có sai lầm.)
[58] Hôm đó, Vua đi săn ở vùng ngoại ô, rồi về thăm Phi Long Viện.
[59] Giáp Tuất, Viên ngoại lang coi việc đồn điền Lôi Đức Tương bị giáng làm Tham quân coi việc hộ tịch ở châu Thương. Đức Tương khi xử án ở Đại Lý tự, thuộc hạ và lại viên trong nha môn đã a dua theo tể tướng, tự tiện tăng giảm tội danh. Đức Tương bất bình, xin vào gặp, muốn tâu bày trực tiếp sự việc. Chưa kịp được dẫn vào triều, ông liền thẳng đến điện Giảng Vũ tấu trình, lời lẽ và thái độ đều gay gắt, lại kể cả việc Triệu Phổ cưỡng ép mua nhà đất của dân, thu vét của cải. Vua nổi giận, quát: “Cái nồi còn có tai, ngươi chẳng nghe Triệu Phổ là bề tôi giúp giữ xã tắc của ta sao!” Rồi cầm búa giáng xuống, đánh gãy hai chiếc răng cửa của Đức Tương, sai tả hữu lôi ra, hạ chiếu cho tể tướng xử tội chết. Sau đó cơn giận nguôi, chỉ dùng tội xông vào nơi cấm để giáng chức.
Đức Tương là người châu Đồng.
(Sách ‘Ký văn’ chép Đức Tương là Ngự sử trung thừa. Sách ‘Quốc lão nhàn đàm’ chép việc nhặt răng, buộc dây, đều sai. Nay dựa theo bản truyện, lược lấy một phần từ sách ‘Đàm uyển’ và ‘Ký văn’ để chỉnh sửa.)
[60] Ngày Ất Hợi, Vua đi săn ở vùng gần kinh thành.
[61] Ngày Bính Tý, Ngô Việt vương Tiền Thục sai con là Kiến Vũ tiết độ sứ Tiền Duy Tuấn vào triều cống, Vua sai Tri chế cáo Lư Đa Tốn ra đón và tiếp đãi.
[62] Tháng đó, Vua sai sứ đem chiếu đến Thái Nguyên, dụ Bắc Hán chủ Lưu Kế Nguyên đầu hàng, hứa phong chức Bình Lư tiết độ sứ cho ông. Lại ban riêng hơn bốn mươi đạo chiếu cho Quách Vô Vi, Mã Phong và những người khác, hứa phong Vô Vi làm An Quốc tiết độ sứ, còn Mã Phong trở xuống đều được làm phiên trấn. Vô Vi nhận chiếu thư, sắc mặt biến đổi, chỉ đưa cho Kế Nguyên xem một đạo còn số còn lại giấu đi. Từ đó ông nảy sinh ý khác[8], khuyên Kế Nguyên hàng, nhưng Kế Nguyên không nghe.
Trước kia, Vua sai gián điệp tên Huệ Lân giả làm Điện tiền tán chỉ huy sứ có tội chạy sang Bắc Hán, Vô Vi cho làm Cung phụng quan. Khi quân triều tiến vào lãnh thổ, Huệ Lân bỏ trốn, đến Lam Cốc bị lại viên bắt được, xiềng giải về Thái Nguyên. Vô Vi biết là gián điệp nhưng tha, không hỏi tội. Có viên tướng chiêu thu tên Lý Siêu, trước đã từng là lính ở Thượng Đảng, biết rõ tình tiết gian trá của Huệ Lân, bèn báo với Mã Phong xin giao Huệ Lân cho quan lại xét xử. Vô Vi nổi giận, giết cả Lý Siêu để bịt miệng.
[63] Tháng 11, ngày Tân Tỵ, Vua ra chiếu rằng vì giặc cướp đã dần lắng xuống, nên giảm bớt số lượng cung thủ ở các huyện tùy theo mức độ, nếu lệnh úy nào còn chiếm giữ lại thì sẽ xử phạt nặng.
[64] Ngày Quý Tỵ, Vua ra chiếu: “Từ nay, các quan lệnh và tá ở các huyện trong thiên hạ, khi kiểm tra ruộng đồng, ấn định thuế khóa, phân phối lao dịch, sai phu, quản lý việc thu thuế, phân xử hình ngục, phàm những việc liên quan, cần phải công bằng. Nếu có vi phạm, cần tố cáo. Nếu lệnh tá không tự giác phát giác lẫn nhau, cho phép lại dân tố cáo, người nào tố cáo đúng sự thật sẽ được thưởng tùy mức độ.”
[65] Trước đó, Vua vào thăm Thái miếu, thấy các đồ tế lễ như biên đậu, phủ quỹ, liền hỏi: “Đây là những vật gì?” Tả hữu đáp rằng đó là lễ khí.
Vua nói: “Tổ tiên ta làm sao biết được những thứ này?” Lập tức ra lệnh dẹp bỏ, chỉ dâng lên các món ăn thường ngày.
Sau đó, Vua lại nói: “Lễ xưa cũng không thể bỏ được.” Bèn ra lệnh đặt lại.
Lúc ấy, quan Phán Thái thường tự là Hòa Hiện tâu: “Theo điển lễ đời Đường Thiên Bảo, khi tế lễ ở Thái miếu, ngoài lễ vật, mỗi phòng thờ được thêm một khay thức ăn thường gọi là nha bàn. Từ đời Ngũ Đại về sau, lễ ấy bị bỏ. Nay xin khôi phục như lệ cũ đời Đường.”
Chiếu chỉ từ nay, khi Vua đích thân tế lễ ở Thái miếu, sẽ bày riêng khay thức ăn nha bàn, áp dụng cả trong các lễ đế hợp và thời hưởng.
(Theo ‘Thiệu thị kiến văn lục’: Khi Thái Tổ vừa lên ngôi, vào thăm Thái miếu, thấy các đồ tế lễ liền hỏi: “Đây là những vật gì?” Các quan đáp rằng đó là lễ khí. Vua nói: “Tổ tiên ta làm sao biết được những thứ này?” Ra lệnh dẹp bỏ, chỉ dâng lên các món ăn thường ngày. Sau khi tế lễ xong, Vua quay lại bảo tả hữu: “Hãy đặt lại những lễ khí trước đây, để các nho sĩ hành lễ.” Từ đó đến nay, ở Thái miếu thường dâng khay thức ăn nha bàn trước, sau đó mới hành lễ. Khang Tiết tiên sinh nhận xét: “Đối với lễ nghi, Thái Tổ đã biết hòa hợp giữa cổ và kim.” Tuy nhiên, nếu căn cứ theo sử liệu, thì việc dùng khay thức ăn nha bàn là do Hòa Hiện đề xuất, theo lệ cũ đời Đường, không phải là ý tưởng riêng của Thái Tổ. Khi ấy, Hòa Hiện đã đoán biết ý Vua, nên dâng lên đề nghị này. Quốc sử chép không rõ, còn ‘Kiến văn lục’ lại không nhắc đến lệ cũ đời Đường[9], nay bổ sung thêm. ‘Sóc ký’ chép: Vua đích thân tế lễ ở bốn phòng thờ, thấy các lễ vật đều dùng thịt sống, liền nói: “Tổ tiên ta há có thể ăn được thứ này sao?” Bèn ra lệnh bày khay thức ăn nha bàn, vừa khóc vừa tế lễ[10]. Tuy nhiên, ‘Sóc ký’ lại ghi việc này vào năm Càn Đức nguyên niên, đó là sai. Nay không chép theo.)
Hòa Hiện lại tâu: “Khi mới lập niên hiệu Càn Đức, tế giao Thượng đế, đến vị trí quan sát lửa tế, nhưng đàn tế lửa hơi xa, quan viên không nghe thấy tiếng báo châm lửa. Lúc đó thần làm lễ quan, chức trách phải hướng dẫn, đích thân nghe lệnh Bệ hạ, sai đốt đuốc để ứng theo. Xét sách ‘Sử ký, phong thiền thư’, nhà Tần thường dùng tháng mười làm lễ tế giao, thắp lửa thông suốt, hình dáng như cái cần câu, muốn ánh sáng chiếu xa, thông đến nơi tế lễ. Mong ban lệnh cho quan viên noi theo chế độ trước.” Vua nghe theo.
Theo chế độ cũ, Thái miếu mỗi gian thờ dùng một con bò tơ, đàn tế giao dùng mười một con. Khi mới lập niên hiệu Hiển Đức nhà Chu, Thái miếu bốn gian thờ chung một con bò tơ. Khi mới lập niên hiệu Càn Đức, theo đề nghị của Lễ nghi sứ, tăng Thái miếu dùng ba con, đàn tế giao dùng năm con, dê và lợn vẫn như trước. Năm đó, lại giảm số bò tơ theo chế độ nhà Chu. Ngày Nhâm Dần, nhà Vua thân hành tế Thái miếu.
[66] Ngày Quý Mão, hợp tế trời đất ở Nam Giao, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu, miễn thuế nợ từ năm Càn Đức thứ năm trở về trước. Nhà Vua ngự điện Càn Nguyên, nhận sách phong tôn hiệu.
[67] Tháng đó, quân Khiết Đan đem quân đến viện trợ Bắc Hán, Lý Kế Huân đều rút quân về, Bắc Hán nhân đó xâm lấn, cướp bóc lớn ở hai châu Tấn và Rương.
(Quân Khiết Đan đến biên giới Bắc Hán, theo ghi chép trong ‘Cửu Quốc Chí’. Việc xâm lược Tấn, Rương, theo ‘Thực Lục’ chiếu thân chinh năm sau, đều xảy ra vào tháng mười một.)
[68] Ban đầu, thê tử của Bắc Hán chủ Kế Nguyên là Đoàn thị, vì phạm lỗi nhỏ bị Hiếu Hòa hoàng hậu Quách thị trách phạt, sau đó bệnh mất, Kế Nguyên nghi hoàng hậu giết bà. Khi hoàng hậu đang mặc tang phục khóc trước linh cữu Hiếu Hòa đế, Kế Nguyên sai tên thần tín Phạm Siêu bắt và siết cổ giết chết. Các phi tần trong cung bị hãm hại, không còn phân biệt thân sơ. Thế tổ có mười người con, chỉ có Hạo, Kỳ, Tích là có đức hạnh, Bắc Hán chủ nghe lời gièm của bọn tiểu nhân, bắt giam họ, chưa đầy một năm đều chết, chỉ riêng Tiển giả ngu mới thoát chết.
[69] Đường chủ lập Hậu Chu thị, là em gái của Chiêu Huệ hậu. Bà có nhan sắc xinh đẹp, thường qua lại với Đường chủ nhờ mối quan hệ thân thích, nên được Đường chủ sủng ái từ trước. Khi Chiêu Huệ hậu bệnh nặng, bất chợt thấy Hậu Chu thị vào cung, liền hỏi: “Em đến cung từ khi nào?” Hậu Chu thị lúc đó còn nhỏ, chưa biết giấu giếm, bèn trả lời thật: “Đã vài ngày rồi.” Chiêu Huệ hậu nổi giận, quay mặt vào tường nằm, không thèm để ý nữa. Sau khi Chiêu Huệ hậu qua đời, Hậu Chu thị thường ra vào cung cấm, đến lúc này được lập làm Hoàng hậu. Tối hôm đó, Đường chủ mở tiệc chiêu đãi quần thần, Hàn Hi Tải và các quan đều làm thơ để châm biếm, nhưng Đường chủ không trách cứ.
Ban đầu bàn việc hôn lễ, Đường chủ sai Trung thư xá nhân Từ Huyền, Tri chế cáo Phan Hữu cùng các quan lễ nghi thảo luận. Hôn lễ xưa không dùng nhạc, nhưng Phan Hữu cho rằng cổ kim không nên rập khuôn, nên cố xin dùng nhạc. Lại theo lễ nghi, nhạc trong phòng không có chuông trống, Phan Hữu nói với Từ Huyền: “‘Yểu điệu thục nữ, chuông trống vui tươi.’ Thế chẳng phải là nhạc trong phòng sao?” Khi Hậu Chu thị lần đầu yết kiến Đế, lễ Bắc Tề có quy định “Hậu lạy trước rồi đứng dậy, Đế lạy sau rồi đứng dậy”, giống như là mẹ đáp lễ con theo cách kỳ bái. Từ Huyền cho rằng vợ chồng là gốc của nhân luân, để thờ phụng tổ tiên, chủ trì tế tự, nên xin đáp lễ kỳ bái. Phan Hữu lại cho rằng hôn lễ của bậc vương giả không giống thứ dân, nên xin không đáp lễ. Lại có nhiều bất đồng về chế độ xe cộ và y phục, việc bàn bạc kéo dài không ngã ngũ. Đường chủ bèn sai Văn An quận công Từ Du xem xét phải trái. Lúc đó Phan Hữu đang được sủng ái, Từ Du theo ý bề trên, tâu xin dùng ý kiến của Phan Hữu. Không lâu sau, Từ Du qua đời vì bệnh, Từ Huyền đùa rằng: “Chu, Khổng cũng có thể gây họa sao?”
Phan Hữu là người Quảng Lăng, con trai của Tán kị thường thị Xử Thường.
Đường chủ sau khi lấy Chu hậu, say mê nhạc phủ. Giám sát ngự sử Trương Hiến dâng sớ, đại lược nói: “Mở rộng giáo phường, xây dựng nhiều dinh thự, ban bố điều lệ dạy người ta giữ gìn liêm sỉ, nhưng trong cung lại dùng nhiều mưu mẹo kỳ lạ. Dân gian đều đồn rằng đem dinh thự của Hộ bộ thị lang Mạnh Củng Thần ban cho giáo phường sứ Viên Thừa Tiến. Ngày xưa, Cao Tổ muốn phong vũ hồ An Sất Nô làm Tán kị thị lang, cả triều đều cười. Nay tuy không phong Thừa Tiến làm thị lang, nhưng lại ban cho dinh thự của thị lang, việc này cũng tương tự.” Đường chủ phê dụ nhiều lần, ban cho 30 tấm lụa để khen ngợi sự dũng cảm của ông, nhưng cuối cùng vẫn không thay đổi.
(Trương Hiến, không rõ lai lịch.)
[70] Trước đó, nhà sư Hành Cần du hành sang Tây Vực, Vua nhân đó ban thư cho Vua nước Đại Thực để chiêu dụ. Tháng 12, ngày Ất Sửu, sứ thần nước ấy đến cống vật phẩm.
[71] Năm đó, thủ lĩnh tộc Trực Đãng của Đảng Hạng là Xuyết Cát dẫn quân Bắc Hán xâm phạm Phủ Châu, bị tướng giữ thành đánh bại. Vua xuống chiếu cho đại thủ lĩnh Khúc Ngộ của 16 phủ bộ tộc nội thuộc và thủ lĩnh La Nhai của 12 phủ đem quân truy diệt Xuyết Cát. Xuyết Cát sợ hãi, đem cả tộc đến quy hàng. Vua phong Khúc Ngộ làm Quy Đức tướng quân, La Nhai và Xuyết Cát đều làm Hoài Hóa tướng quân.
- phải tự mình kiểm tra sổ sách liệt kê tài sản công, 'sổ' nguyên bản viết là 'chẩn', theo bản Tống, bản 'Tống toát yếu' và bản các sách khác sửa ↵
- 'Tuân Hối' nguyên bản là 'kỳ', theo bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các và quyển 2 của sách ‘Biên niên cương mục’ sửa lại. ↵
- 'Không dám cởi áo mũ' - chữ 'mũ' nguyên bản là 'áo', căn cứ theo Tống bản, Tống toát yếu bản, các bản khác và Biên niên cương mục quyển 2, Tống sử quyển 256 Triệu Phổ truyện sửa lại. ↵
- Các bản đều ghi là Hoài, Lạc Xuyên. Tục Thông Giám quyển 5 viết là 'Hoài, Lạc gian'. ↵
- Nguyên văn là 'Phổ', căn cứ theo bản Tống, bản Tóm tắt Tống, bản Các và 'Tục thông giám' quyển 5, đã sửa lại. Xét 'Tống sử' quyển 482, 'Bắc Hán thế gia' cũng viết: 'Kế Ân vốn họ Tiết, cha là Chiêu…… Ban đầu làm binh sĩ trong doanh Hộ Thánh nước Tấn.' ↵
- Rút vào trong thành: chữ 'trung' ban đầu thiếu, căn cứ vào bản Tống, bản Tóm Lược của Tống và bản các bản khác bổ sung ↵
- 'Quan liên' nguyên bản viết 'Khuyết liên', căn cứ theo Tống bản và các bản khác sửa lại. Bản 'Tống toát yếu' thì ghi là 'Khai tải'. ↵
- 'Chí' nguyên là 'Tâm', căn cứ bản Tống, bản Tống toát yếu, bản các cải. ↵
- thiếu ↵
- thiếu ↵